29/03/2015
Chúa Nhật Lễ Lá Năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa:
Chúa Nhật Lễ Lá năm B
CHÚA NHẬT LỄ LÁ – NĂM B
Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
NGƯỜI TÔI TRUNG
“Cha ơi, Cha làm được mọi sự,
xin cất chén này xa con.
Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36)
xin cất chén này xa con.
Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1- Bài đọc 1
Đoạn
sách ngôn sứ Isaia trong bài đọc 1 trích từ bài ca thứ ba về người Tôi Trung.
Bài ca phác họa những phẩm chất cao quý của người Tôi Trung của Thiên Chúa.
Trước
hết, người Tôi Trung là người nhạy cảm nghe tiếng “đánh thức” mỗi ngày của
Thiên Chúa, để nghe lời giáo huấn của Ngài. Lời Chúa vẫn vang vọng mỗi ngày,
thầm thì đánh thức, mời gọi lắng nghe và đón nhận; và chỉ người Tôi Trung trong
tinh thần sẵn sàng, chờ đợi và nhạy bén để nhận ra và lắng nghe tiếng Chúa. Tuy
nhiên, không phải lúc nào tiếng Chúa cũng êm ái, dịu dàng, mà có lúc sẽ đòi hỏi
quyết liệt, triệt để, thách đố, nên người Tôi Trung là người “không cưỡng lại,
cũng chẳng tháo lui” (Is 50,5). Người Tôi Trung thật sự là người luôn sẵn sàng
và vui lòng lắng nghe lời Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Hơn
nữa, người Tôi Trung là người, sau khi lắng nghe và đón nhận, biết cất tiếng
nói lời Thiên Chúa, lời an ủi, nhằm “nâng đỡ những ai rã rời kiệt sức” (Is
50,4). Lời Chúa là lời ủi an, nhưng người Tôi Trung là người biết “lựa lời” để
chuyển tải sứ điệp của lời Chúa cách xứng hợp, hầu mang lại niềm an ủi, động
viên và nâng đỡ cho những người đang mệt mỏi, chán nản, thất vọng. Bản chất lời
Chúa có sức mạnh đỡ nâng và an ủi, nhưng người Tôi Trung thật sự, bằng tấm lòng
và sự trung tín của mình, chuyển tải cách trung thành và trọn vẹn sứ điệp ủi an
của lời Chúa.
Sau
cùng, dù mang sứ mạng cao cả là đón nhận và truyền rao lời Chúa, người Tôi
Trung không thể tránh khỏi những trở ngại, thách đố, khó khăn, có khi nguy hiểm
đến tính mạng. Vì thế, người Tôi Trung thật sự của Thiên Chúa là người sẵn sàng
chấp nhận “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu,… và
không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Tuy nhiên, người Tôi Trung
không đơn độc, không sợ hãi hay nao núng vì “có Thiên Chúa là Đấng phù trợ”.
Nhờ sức mạnh của Thiên Chúa luôn ở cùng mà người Tôi Trung không sợ “hổ thẹn”,
nhưng luôn hiên ngang, kiên vững (Is 50,7).
Người
Tôi Trung trong đoạn Is 50,4-7 là người sẵn sàng và nhạy cảm nghe lời Thiên
Chúa đánh thức mỗi ngày, để sẵn sàng truyền rao lời Chúa, lời đem lại niềm an
ủi cho những người mệt mỏi rã rời. Dù gặp muôn vàn thách đố trong sứ mạng phục
vụ lời Chúa, người Tôi Trung không hề lo sợ vì xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở
bên để phù trợ.
2- Bài đọc 2
Bài
đọc 2 là một bài ca tuyệt đẹp về người Tôi Trung Giêsu, người sẵn sàng tự hạ đến
tận cùng để hoàn thành cách mỹ mãn kế hoạch của Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa
tôn vinh.
Nửa
đầu của bài ca (Pl 2,6-8) làm nổi bật hành động của Đức Giêsu Kitô. Mầu nhiệm
tự hạ cho thấy sự tự nguyện của người Tôi Trung Giêsu, Đấng chấp nhận hạ mình
đến tận cùng để thánh ý Chúa nên trọn. Từ vị thế của Thiên Chúa, Người khước từ
vinh quang thần linh và chấp nhận làm một con người, sống như bao nhiêu người
trên trần thế. Hơn nữa, không chỉ làm người, Người hạ mình để chấp nhận thân
phận của kẻ nô lệ, của người “đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ”.
Và sự phục vụ của người Tôi Trung Giêsu đi đến tận cùng của sự tự hạ khi “vâng
lời” cho đến nỗi “sẵn lòng chịu chết” (Pl 2,8), mà “hiến dâng mạng sống làm giá
chuộc muôn người” (x. Mt 20,28; Mc 10,45).
Nửa
sau của bài ca (Pl 2,9-11) tập trung vào hành động của Thiên Chúa. Vì người Tôi
Trung Giêsu tự hạ đến tận cùng, hiến trọn thân mình để thánh ý Chúa nên trọn
(đi xuống), nên Thiên Chúa tôn vinh Người (đi lên) và ban cho danh hiệu trổi
vượt hơn cả, danh hiệu “Giêsu”, Đấng Cứu Thế. Quả thế, sự tôn vinh Thiên Chúa
dành cho người Tôi Trung chính là sự thừa nhận và đề cao vai trò “cứu thế” của
Người, điều Người đã thực hiện khi tự hạ, hiến dâng mạng sống “làm giá chuộc
muôn người”. Danh hiệu “Giêsu” thật cao cả vì thể hiện trọn vẹn sứ mạng của
người Tôi Trung; Người chính là lý do mà mọi tạo vật, dù trên trời, dưới đất
hay trong âm phủ đều cung kính bái thờ. Và thái độ tôn thờ đích thực là nhìn
nhận công trình cứu độ và căn tính thần linh của Người, rằng Đức Giêsu Kitô
chính là Chúa.
Người
Tôi Trung Giêsu thực hiện trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa khi khiêm hạ hủy mình ra
không, để rồi được Thiên Chúa tôn vinh, là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu.
3- Bài Tin Mừng
Hình
ảnh người Tôi Trung chấp nhận “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người
ta giật râu,… và không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” trong Isaia (Is 50,6)
được Tin Mừng Máccô đẩy xa hơn, khắc họa rõ nét hơn nơi người Tôi Trung Giêsu
trong những giờ phút cuối cùng của Người trên trần gian để hoàn tất kế hoạch
yêu thương của Thiên Chúa.
Để
trung thành thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, người Tôi Trung hoàn toàn đơn
độc trong những giờ phút cuối cùng. Trong số những kẻ thân tín nhất, không ai
hiểu được Người, không ai chia sẻ với Người nỗi cô đơn tột cùng khi phải đối
diện với án tử. Những kẻ tưởng gần gũi, thấu hiểu và chia sẻ với Người lại bỏ
Người mà chạy trốn hết (Mc 14,50). Mọi người đều lo cho sự an toàn của mình, để
lại một mình Đức Giêsu. Đức Giêsu không thốt ra một lời than vãn, biện hộ, hay
trách móc ai… mặc cho bị đối xử cách tàn tệ, bị nhạo báng, chê cười, bị kết tội
cùng với hai tên trộm, bị liệt vào hạng phạm pháp (Mc 15,29-32). Trong sự cô
đơn khủng khiếp, người Tôi Trung cảm thấy như thể Người đang bị chính Thiên
Chúa bỏ rơi (Mc 15,34). Dù cảm thấy vô cùng đơn độc, cảm giác như bị Chúa Cha
bỏ rơi, phải trải qua những giây phút lo lắng, xao xuyến, hãi hùng, người Tôi
Trung Giêsu vẫn chỉ muốn làm theo ý Cha (Mc 14,36). Đó đích thật là người Tôi
Trung, dù thế nào vẫn coi mình là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, trung
thành cho đến hơi thở cuối cùng.
Tuy
nhiên, sự trung thành của người Tôi Trung đem lại ý nghĩa lớn lao, hoàn tất
chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa. Sự trung tín của người Tôi Trung cuối
cùng đã phá tan sự ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Bức màn trướng trong
Đền Thờ, ngăn cách Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh, ngăn cách Thiên Chúa thánh thiện
và con người tội lỗi, bị xé ra làm đôi ngay khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập
giá (Mc 15,37-38). Máu của người Tôi Trung Giêsu đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và
lương tâm con người (Hr 9,14), để con người được thánh hóa mà tiến lại gần
Thiên Chúa cực thánh. Quả vậy, qua cái chết của người Tôi Trung Giêsu, Thiên
Chúa đã chạm đến con người tội lụy và thánh hóa con người để họ được trở nên
con cái Thiên Chúa. Con người được giao hòa và trở nên con Thiên Chúa nhờ sự
trung thành cho đến chết của người Tôi Trung của Thiên Chúa, Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa, như lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng: “Quả thật, người này là
Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Người
Tôi Trung là người trung thành, đến nỗi chấp nhận cái chết, để thực hiện kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Máu của Người đổ ra thanh tẩy lương tâm con người
để xứng đáng được lại gần Thiên Chúa và sống trong tình thương của Ngài. Người
Tôi Trung đó chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Ngôn
sứ Isaia khắc họa hình ảnh người Tôi Trung là người nhạy cảm để lắng nghe, đón
nhận và rao truyền lời Thiên Chúa. Dù gặp khó khăn, thử thách, người Tôi Trung
vẫn kiên vững vì tin rằng luôn có Thiên Chúa ở cùng. Tôi có thể trở nên người
tôi trung của Thiên Chúa? Tôi có sẵn sàng lắng nghe, đón nhận và rao truyền lời
Thiên Chúa cách trung thành? Trong gian truân, thử thách, tôi có xác tín Thiên
Chúa luôn ở cùng tôi?
2/ Thư
Philípphê ca tụng người Tôi Trung Giêsu, Đấng mang thân phận thần linh, nhưng
lại hạ mình đến tận cùng để chấp nhận cái chết, nên được Thiên Chúa tôn vinh là
Đấng Cứu Độ mà muôn loài phải bái thờ. Tôi có muốn mỗi ngày nên giống người Tôi
Trung Giêsu? Tôi có sẵn sàng hạ mình xuống, để thánh ý Thiên Chúa được thể
hiện, để Thiên Chúa được tôn vinh và kính thờ qua cuộc đời và cách sống của
tôi?
3/ Tin
Mừng Máccô làm nổi bật sự trung thành cho đến chết của người Tôi Trung Giêsu.
Dù bị những người thân cận xa lánh, bị người đời nhục mạ, nhạo báng, và cảm
thấy như bị chính Thiên Chúa bỏ rơi, người Tôi Trung Giêsu vẫn trung thành thực
hiện ý Thiên Chúa Cha, để giao hòa con người với Thiên Chúa. Tôi có trung thành
với Chúa ngay cả khi phải chịu những khó khăn, thử thách, cô đơn? Tôi có sẵn
sàng trở thành cầu nối để đưa Chúa đến với những anh chị em đang đau khổ, cô
đơn, thất vọng?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Hôm nay phụng vụ tung hô Chúa Kitô khải hoàn vào thành
Giêrusalem, đồng thời mời gọi chúng ta tiến bước theo Người trên con đường thập
giá. Trong tâm tình thờ lạy, ngợi khen và tín thác, chúng ta cùng tha thiết
dâng lời nguyện xin.
1. Thiên
Chúa đã biểu dương sức mạnh trong sự vâng phục và tự hạ của Đức Giêsu. Chúng ta
cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn biết làm sáng danh Chúa
bằng thái độ mau mắn chu toàn thánh ý Người, và khiêm tốn phục vụ tha nhân.
2. Người
Do Thái tung hô Đức Giêsu là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Chúng ta cầu xin
cho nhiều người, nhiều quốc gia trên thế giới được ơn nhận biết và qui phục
vương quyền của Thiên Chúa, luôn hướng lên Người như lẽ sống và cùng đích của
cuộc đời.
3. Cuộc
vượt qua của Chúa Kitô đem lại ơn giải thoát toàn diện cho con người. Xin cho
những ai đang đau khổ vì bệnh tật, thiên tai hay bất công xã hội ở khắp nơi,
tìm được niềm an ủi nơi cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, luôn sống trong hy
vọng và bình an đích thực.
4. Thập
giá là con đường duy nhất và chắc chắn đưa tới vinh quang. Xin Chúa cho mỗi
người trong cộng đoàn chúng ta, biết nỗ lực sống các giá trị Tin Mừng, và can
đảm đón nhận thập giá trong đời sống hằng ngày, để xứng đáng được dự phần vinh
quang với Chúa Kitô.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân
từ, cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô Con Chúa đã đổ tràn hồng ân cứu độ cho
nhân loại. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện, và giúp chúng con luôn vững bước
theo Người trên con đường thập giá, để xứng đáng chia sẻ vinh quang phục sinh
cùng với Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
SCĐ CHÚA NHẬT LỄ LÁ. B
CHỦ ĐỀ :
NGƯỜI TÔI TỚ CỦA THIÊN CHÚA ĐI VÀO CON
ĐƯỜNG CHỊU NẠN
Sợi chỉ đỏ :
- Bài Tin Mừng lúc kiệu lá (Mc 11,1-14) :
Đức Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách Vua Messia, một vị vua hiền lành
khiêm tốn.
- Bài đọc Cựu Ước (Is 50,4-7) : Người Tôi Tớ
của Thiên Chúa sẵn lòng chịu khổ.
- Bài Thánh Thư (Pl 2,6-11) : Sự tự hạ, tự
huỷ của Đức Giêsu.
- Bài Thương khó (Mc 14,1—15,47) : cuộc chịu
nạn chịu chết của Đức Giêsu.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
(Như lời dẫn nhập in trong sách lễ Rôma)
Anh chị em thân mến. Từ đầu mùa chay chúng ta đã
dùng việc hãm mình đền tội và công việc bác ái chuẩn bị tâm hồn chúng ta, thì
hôm nay chúng ta tụ họp để cùng với toàn thể Hội Thánh khai mạc mầu nhiệm vượt
qua của Chúa chúng ta, nghĩa là cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Người. Để thực
hiện điều đó, chính Người đã tiến vào thành Giêrusalem. Bởi vậy, với tất cả
lòng tôn kính sùng mộ tưởng nhó đến việc Người vào thành mang lại ơn cứu độ,
chúng ta hãy bước theo Chúa, để nhờ ơn thánh, chúng ta được tham dự vào thập
giá, chúng ta cũng được dự phần vào sự phục sinh và sự sống.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
(Không có)
III. LỜI CHÚA
1. Bài Tin Mừng lúc kiệu lá : Mc
11,1-10
Việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem tuy có phần
long trọng (dân chúng đón rước, tung hô…) nhưng không phải là một cuộc biểu
dương chính trị, trái lại nhằm cho biết Đức Giêsu là người như thế nào :
- Đức Giêsu rất coi trọng việc này, cho nên đích
thân Ngài thu xếp từng chi tiết cho cuộc vào thành (thu xếp trước với chủ lừa,
dặn dò kỹ hai môn đệ về đường đi nước bước và lời ăn tiếng nói).
- Nhưng mọi sự chuẩn bị đều được tiến hành trong
âm thầm kín đáo (những lời đối đáp giữa môn đệ với chủ lừa giống như trao đổi
mật hiệu với nhau).
- Đức Giêsu chọn cởi lừa chứ không cởi ngựa.
- Lời chúc tụng của dân chúng có tính cách tôn giáo
hơn là chính trị ("Hoan hô Đấng nhân danh Chúa mà đến", "Hoan hô
trên các tầng trời")
Như thế, Đức Giêsu muốn cho người ta biết Ngài là
vua nhưng là một vị vua cứu nhân độ thế, hiền hòa, khiêm tốn.
2. Bài đọc Cựu Ước : Is 50,4-7
Đây là bài ca thư ba về Người Tôi Tớ trong sách
Isaia.
- Người Tôi Tớ nâng đỡ kẻ nhọc nhằn.
- Người Tôi Tớ luôn thức tỉnh đón nghe và thi
hành ý Chúa.
- Người Tôi Tớ nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ
hành hạ.
3. Đáp ca : Tv 21
Tâm tình của người công chính bị bách hại :
- Than thở với Chúa về những sự hành hạ mình phải
chịu
- Đồng thời bày tỏ lòng trông cậy vững vàng vào
Chúa và vẫn chúc tụng Ngài.
4. Bài Thánh Thư : Pl 2,6-11
Thánh Phaolô vẽ 2 con đường của Đức Giêsu :
- Con đường hạ mình : dù là Con Thiên Chúa,
nhưng Đức Giêsu đã tự ý hạ mình đến mức tột cùng (làm thân tôi đòi, chết, chết
trên thập giá)
- Con đường được tôn vinh : Ngài càng hạ
mình thì Thiên Chúa càng nâng Ngài lên cao đến tột cùng (danh Ngài trổi vượt
mọi danh hiệu, mọi loài trên trời, dưới đất và trong địa ngục đều phải tôn thờ
Ngài).
5. Bài Thương khó : Mc 14,1—15,47
Diễn tiến cuộc chịu nạn của Đức Giêsu đều giống
nhau trong 4 quyển Tin Mừng. Nhưng Mác cô nhấn mạnh một số ý lớn :
a/ Đức Giêsu "bị trao nộp" : Động
từ này được dùng 9 lần trong bài tường thuật. Tác nhân trao nộp Đức Giêsu
là : Giuđa (nộp Đức Giêsu cho các thượng tế), các Thượng tế (nộp Đức Giêsu
cho Philatô), Philatô (nộp Ngài cho quân lính). Nhưng đàng sau và chủ động nhất
là chính Thiên Chúa đã trao nộp Con mình cho loài người. Phần Đức Giêsu, Ngài
cũng tự trao nộp mình.
Lý do trao nộp cũng khác nhau : vì tiền
(Giuđa), vì lòng ganh ghét (các Thượng tế), vì mị dân (Philatô), và vì yêu
thương (Chúa Cha, Đức Giêsu).
b/ Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa" :
Tin Mừng Mc diễn tiến theo sơ đồ từ từ hé lộ về con người Đức Giêsu : Ngài
là người à là Kitô (Messia) à Con Thiên Chúa (Câu đầu tiên của tác phẩm
vạch rõ sơ đồ này. Mc 1,1 : "Tin Mừng Đức
Giêsu Kitô Con Thiên Chúa". Mặc khải cao nhất về Đức Giêsu là tư
cách Con Thiên Chúa của Ngài. Mặc khải này được thốt ra khi Ngài tắt thở :
"Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như
vậy liền nói "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (15,39).
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Chúa chọn con lừa
Nhiều độc giả Tin Mừng rất
ngạc nhiên trước những lời căn dặn của Đức Giêsu với hai môn đệ mà Ngài sai vào
thành trước : "Các anh vào làng trước mặt kia. Tới noi sẽ thấy
ngay một con lừa con chưa ai cởi bao giờ đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và
đem nó về đây. Nếu có ai bảo tại sao các anh làm như vậy thì cứ nói là Chúa cần
đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay" (các câu 2-3). Mọi việc đã diễn
ra đúng lời Chúa dặn. Tưởng như một phép lạ. Thực ra không phải là phép lạ gì
cả, mà là chính Đức Giêsu đã kín đáo thu xếp trước với người thân của Ngài trong
làng : đến ngày đó, tại địa điểm đó, họ hãy để sẵn hai con lừa, sẽ có hai
môn đệ của Ngài đến dắt đi, mật khẩu để nhận ra nhau là một câu hỏi và một câu
trả lời đã quy ước sẵn.
Tại sao Đức Giêsu phải đích
thân thu xếp các chi tiết cho chuyến vào thành Giêrusalem lần này ? Thưa
có hai lý do :
1/ Sự việc diễn ra "mấy
ngày trước lễ Vượt Qua" (c 1). Lễ này kỷ niệm việc dân do thái được
giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, cho nên mỗi lần mừng lễ này, ý tưởng giải
phóng luôn hiện lên trong đầu dân chúng, nhất là khi đất nước đang nằm dưới ách
thống trị của ngoại bang. Chính vì thế, viên Tổng trấn Rôma bình thường vẫn an
tâm ở tổng hành dinh của ông tại Syria, nhưng gần đến lễ Vượt Qua thì phải đến
Giêrusalem để có thể trực tiếp chỉ đạo nếu có xảy ra nổi loạn. Trong bầu khí
nhạy cảm đó, Đức Giêsu phải kín đáo thu xếp để đừng ai biết trước chuyến vào
thành của Ngài.
2/ Mọi chi tiết mà Đức Giêsu
đích thân thu xếp đều liên hệ đến con lừa. Tại sao ? Vì Ngài không muốn
người ta hiểu lầm Ngài là một nhà giải phóng quân sự hay chính trị. Ngài muốn
người ta hiểu rằng Ngài là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Vua chinh
chiến thì cỡi ngựa, còn vua hòa bình thì cỡi lừa.
Tuy nhiên xem ra không ai
hiểu đúng ý Chúa : các môn đệ "lấy áo choàng của mình trải lên
lưng nó", dân chúng thì cũng "chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà
rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy" (các câu 7-9).
Sự hồ hỡi của họ có lẽ xuất phát từ ý tưởng giải phóng : Hôm nay ngày giải
phóng đã đến rồi, vị Anh hùng đã xuất hiện ! Tóm lại mọi người đều nghĩ
rằng hôm nay Đức Giêsu bắt đầu cuộc khởi nghĩa.
*
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay bắt
đầu Tuần Thánh. Chúng ta có thể dùng đoạn Tin Mừng này để soi sáng ý nghĩa
những sự việc sẽ xảy ra trong Tuần Thánh :
- Tại sao các Thượng Tế do
thái tìm bắt Đức Giêsu ? Thưa vì họ tưởng rằng Ngài là một chính khách
nguy hiểm. Tin Mừng thứ tư ghi nhận rằng ngay cả trước biến cố này, các vị lãnh
đạo ấy đã tính đến khả năng sức thu hút quần chúng của Đức Giêsu sẽ dẫn đến sự
đàn áp của quân Rôma : "Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi
người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn
dân tộc ta" (Ga 11,48).
- Tại sao Giuđa nộp Đức
Giêsu cho các Thượng Tế ? Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng đó là do
một tính toán chính trị : Hắn vẫn nghĩ Đức Giêsu là một người có khả năng
làm một cuộc đảo chánh. Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Đức Giêsu làm gì nên
hắn nộp Đức Giêsu như dồn Ngài vào chân tường : hy vọng khi đã bị bắt thì
Đức Giêsu bó buộc phải ra tay hành động.
- Tại sao dân chúng hùa theo
các Thượng Tế đòi giết Đức Giêsu ? Đó là phản ứng thất vọng của những
người đã từng hy vọng quá nhiều : Họ hy vọng Đức Giêsu giải phóng đất nước
nhưng khi Ngài không làm vậy thì họ thất vọng và trừng trị Ngài.
*
Hôm nay chúng ta cũng tay
cầm lá, miệng tung hô Đức Giêsu. Nhưng chúng ta coi Ngài là ai và mong gì nơi
Ngài ?
. Nếu chúng ta coi Đức Giêsu
là một vị vua uy quyền, chúng ta sẽ như các lãnh tụ do thái tìm cách trừ khử
Ngài khi cảm thấy uy quyền ấy đe dọa đến quyền tự do của chúng ta.
. Nếu chúng ta coi Ngài là
một vị vua giúp chúng ta chiến thắng thù địch, chúng ta sẽ như quần chúng hôm
ấy chán bỏ Ngài khi Ngài không giúp chúng ta đạt được mục đích ấy.
. Nếu chúng ta coi Ngài là
một thứ ô dù cho chúng ta núp bóng, chúng ta sẽ như các môn đệ bỏ Ngài mà chạy
trốn khi ước vọng của chúng ta không thành.
Đức Giêsu là một vị vua hòa
bình, hiền từ và khiêm tốn. Đi theo Ngài có lẽ chúng ta sẽ không được hưởng đặc
quyền đặc lợi, nhưng tâm hồn chúng ta sẽ luôn được bình an.
* 2. Con đường dẫn đến vinh quang
Trong bài Thánh Thư, Thánh Phaolô ngầm so sánh
Ađam và Đức Giêsu.
- Ađam đã muốn "dành cho được ngang hàng với
Thiên Chúa". Nhưng kết quả chỉ là thấy mình trần truồng xấu hổ và bị đuổi
khỏi hạnh phúc địa đàng.
- Còn Đức Giêsu thì vâng lời Thiên Chúa mà hạ
mình xuống đến mức tột cùng. Kết quả là được nâng lên tới mức tột cùng.
Tự nhiên, chúng ta theo con đường của Ađam :
tìm cách khẳng định mình, tưởng rằng làm thế thì giá trị của mình sẽ được nâng
cao. Nhưng chúng ta quên rằng chúng ta là do Thiên Chúa tạo dựng, vì thế chúng
ta có giá trị hay không, được nâng cao hay không là do Thiên Chúa chứ không do
chúng ta. Con đường tốt nhất là vâng lời Thiên Chúa, đi theo sự chỉ dẫn của
Ngài, rồi Ngài sẽ nâng chúng ta lên đúng theo ý Ngài muốn.
* 3. Trao nộp
Đức Giêsu
Bài Tin Mừng theo thánh Mác cô cho thấy mọi người
đều trao nộp Đức Giêsu, nhưng vì những động cơ khác nhau (xin xem lại phần giải
thích phía trên).
Suy nghĩ thêm, ta còn thấy có những cách trao
khác nhau :
- Trao cái này để đổi lấy cái kia (như Giuđa,
Philatô) : cách trao vụ lợi
- Trao cho người khác cái mình muốn bỏ (các
Thượng tế) : cách trao ác độc.
- Trao cho người khác cái mình rất quý (Chúa
Cha) : cách trao yêu thương.
- Trao chính mình (Đức Giêsu) : yêu thương
tột cùng.
Chúng ta hãy suy gẫm về những cách trao của mình
và về cách mình trao Đức Giêsu cho người khác.
* 4. Cách chịu
đau khổ là thước đo nhân phẩm
Một điều hiển nhiên là cuộc đời ngập tràn đau
khổ. Giáo lý đạo Phật dạy "Đời là bể khổ". Nhiều người đã tìm nhiều
cách để tránh khổ và diệt khổ. Nhưng có lẽ cái khổ sẽ không bao giờ tránh hết
và diệt hết được.
Đức Giêsu không tránh khổ, không diệt khổ. Ngài
"vác" lấy đau khổ (thập giá), và Ngài dạy môn đệ mình "Ai muốn
theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo".
Nino Salveneschi có suy nghĩ này : "Thật
lạ khi người ta có thể tính toán chính xác về sức nặng có thể chất lên một
chiếc xe, một chiếc tàu hay một chiếc máy bay… nhưng không tính nổi sức nặng có
thể chất lên vai con người. Xét cho cùng, càng có thể vác nặng bao nhiêu thì
càng có giá trị bấy nhiêu" (Savoir souffrir)
* 5. Phêrô chối
Thầy
Việc ông Phêrô chối Thầy gợi
cho chúng ta nhiều suy nghĩ :
- Ông là người nhiệt tình
nhất với Đức Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa là bất cứ ai cũng
yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Hơn nữa, Phêrô sa ngã vì ông không biết
ông yếu, ông luôn tưởng mình mạnh.
- Lý do khiến Phêrô chối
Chúa là vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những
người của vị Thượng Tế đang xét xử Đức Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn
nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải
chối, kẻo họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông luôn.
Phêrô đã dám theo Đức Giêsu
suốt 3 năm khi Ngài đi rao giảng, khi Ngài làm phép lạ… Trong thời gian đó
không phải là Phêrô không cực khổ, nhưng ông có thể chịu được. Nhưng hôm nay
ông chối vì chuyện hôm nay không chỉ là vấn đề cực khổ, mà là vấn đề an toàn
của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ từ bỏ và hy sinh đến
một giới hạn nào đó thôi.
Có lẽ cũng có những giới hạn
mà chúng ta đặt ra - tuy một cách vô ý thức – cho việc chúng ta theo Chúa, việc
chúng ta từ bỏ, việc chúng ta hy sinh.
Ngày 15-4-1996, linh mục
George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut
Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho
trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh
Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker
gọi số tiền của Dodd là "số tiền vấy máu hài nhi vô tội".
Người không ngần ngại gọi Dodd là "môn đệ của thần chết".
Việc làm của cha khiến nhiều
người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức
bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh
mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám
công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha
Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Đến
nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài như
sau : "Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử
bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một
cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui".
*
Câu chuyện trên đây sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh
Gioan viết : "Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi
Giêrusalem… Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau : "Chắc ông ấy
chẳng đến dự lễ đâu !" Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh :
Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt" (Ga.11,55-57).
Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ
có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai
vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời
tiên tri Dacaria : "Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi
lừa, lừa con của lừa mẹ" (Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người
là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ : Một Vị vua chiến thắng bằng cái
chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi
trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá
lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh
của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển,
tái lập vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành,
tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không
lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau
đó.
Cha Parker đã không chấp
nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri,
chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống
Thầy Giêsu.
Đức Giêsu không xua quân đi
giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói,
bất công và thù hận.
Đức Giêsu không đến để kết
án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Đức Giêsu không ngồi trên
ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Đức Giêsu không đến để thiết
lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh
hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
*
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành
Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con
đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến
chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải
hoàn. Amen. (Thiên
Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em
thân mến, hôm nay bước vào Tuần Thánh, Hội thánh mời gọi các Kitô hữu bước theo
Đức Giêsu trên đường thập giá, để được phục sinh với Người trong cuộc sống mới.
Chúng ta hãy tha thiết nguyện xin :
1. Đức Giêsu đã khải hoàn vào thành Giêrusalem
không phải để biểu dương uy quyền / mà là để bày tỏ lòng yêu thương và
nhân lành / Xin cho các vị chủ chăn trong Hội thánh / biết noi gương
Người để phục vụ mọi người trong khiêm tốn và hiền lành.
2. Đức Giêsu đã đến trần gian không phải để thống
trị / nhưng để phục vụ mọi người / Xin cho các vị có chức quyền trong
xã hội / biết lo cho công ích và quan tâm giúp đỡ mọi người.
3. Đức Giêsu đã phục vụ mọi người cho đến chết và
chết trên thập giá / Xin cho tất cả những ai đang phải đau khổ trong tâm
hồn hay thể xác / vì đã phục vụ mọi người / được luôn can đảm và vững
tin nơi tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
4. Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại để đem hạnh
phúc thật cho mọi người / Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta đừng bao
giờ trở nên gánh nặng và thập giá cho anh chị em mình.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho
Đức Giêsu Con Chúa phải đi qua đường thập giá mới vào được vinh quang. Xin cho
mỗi người chúng con luôn noi theo đường lối của Người, để làm vinh danh Chúa.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa
Nhật Lễ Lá (B)
Chúa
Nhật, 29 Tháng 3, 2015
Bài
Thương Khó và cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu theo thánh Máccô
Thất
bại cuối cùng như một lời mời gọi mới
Mc
14:1-16:8
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong
ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám
phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết
của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của
Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần
đến với chúng con. Amen.
2. Cuộc
Thương Khó và Khổ Nạn của Chúa Giêsu theo thánh Máccô
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Nói
chung, khi chúng ta đọc bài thương khó và cuộc khổ nạn, chúng ta nhìn vào Chúa
Giêsu và sự đau khổ mà Người phải gánh chịu. Nhưng điều ấy thật là
giá trị, ít ra là một lần, nếu chúng ta cũng nhìn vào các môn đệ và thấy họ đã
phản ứng với cây thập giá ra sao và cây thập giá đã ảnh hưởng đến đời sống của
họ như thế nào, bởi vì cây thập giá là thước đo cho sự so sánh!
Thánh
sử Máccô viết cho các cộng đoàn vào những năm của thập niên 70. Nhiều
người trong số các cộng đoàn này, cho dù ở Ý hay ở Syria, đang trải qua cuộc
thương khó của chính họ. Họ đã phải đối mặt với cây thập giá theo
nhiều cách. Họ đã bị bách hại trong triều đại hoàng đế Nêrô vào những
năm 60 và nhiều người đã chết vì bị dã thú phanh thây ăn thịt. Những
người khác thì đã phản bội, đã từ chối hoặc chối bỏ đức tin của họ vào Chúa
Giêsu, giống như Phêrô, Giuđa và các môn đệ khác. Nhiều người đã tự
hỏi: “Liệu tôi có thể chịu nổi sự đàn áp không?” Còn những
kẻ khác đã mệt mỏi sau khi kiên trì trải qua nhiều lần bị xét xử mà không có kết
quả. Trong số những người đã từ bỏ đức tin của họ, có người tự hỏi
có thể nào họ tái gia nhập cộng đoàn được không. Họ muốn bắt đầu lại
cuộc hành trình của họ lần nữa, nhưng không biết có thể tham gia lại được
không. Một cành cây bị cắt đi mà không có rễ! Tất cả họ đều
cần lý do mới và vững chắc để tái khởi động cuộc hành trình của họ. Họ
cần một kinh nghiệm đổi mới về tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu đã vượt qua những
lỗi lầm phàm nhân của họ. Họ có thể tìm thấy điều này ở đâu?
Đối
với họ, cũng như đối với chúng ta, câu trả lời ở trong các chương 14 đến 16 của
Tin Mừng Máccô, trong đó kể lại cuộc thương khó, khổ nạn và sự phục sinh của
Chúa Giêsu, thời gian của sự thất bại lớn nhất của các môn đệ, và trong ẩn
cách, chính là niềm hy vọng lớn nhất của họ. Chúng ta hãy nhìn vào tấm
gương của những chương này để thấy các môn đệ đã phản ứng với cây Thập Giá như
thế nào và Chúa Giêsu phản ứng với sự bội phản và nhu nhược của các môn đệ ra
sao. Chúng ta hãy cố gắng khám phá ra bằng cách nào mà Máccô đã khuyến
khích đức tin của cộng đoàn và cách ông mô tả ai là người môn đệ thực sự của
Chúa Giêsu.
b) Nhìn
vào tấm gương cuộc Thương Khó để biết cách làm một môn đệ trung thành
* Mc
14:1-9: Lời giới thiệu về câu chuyện cuộc Thương Khó và Tử
Nạn của Chúa Giêsu
1 Hai ngày trước Lễ Vượt
Qua và Tuần Lễ ăn Bánh Không Men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết
Chúa Giêsu. 2 Họ bảo nhau rằng: "Đừng làm
trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân". 3 Khi
Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ
nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Đập vỡ bình, bà đổ dầu
thơm trên đầu Người. 4 Có mấy người khó chịu nghĩ thầm
rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? 5 Dầu này có thể bán
được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà
đó. 6Nhưng Chúa Giêsu bảo: "Hãy để mặc bà, sao các ông lại
làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. 7 Vì
bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc
cho họ lúc nào tùy ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. 8 Làm
được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. 9 Ta
bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người
ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà".
Mc
14:1-2: Mưu kế chống lại Chúa Giêsu.
Khi
kết thúc hoạt động rao giảng của mình, Chúa Giêsu đi đến Giêrusalem và đang được
chờ đợi bởi các kẻ nắm giữ quyền lực trong tay: các Thượng Tế, Kỳ
Lão, Kinh Sư, Biệt Phái, Sađốc, người phái Hêrôđê và người La Mã. Họ
kiểm soát tình hình… họ sẽ không để cho Chúa Giêsu, một nông dân thợ
mộc từ trong miền quê Galilêa, gây rối loạn. Họ đã quyết định tìm
cách giết Đức Giêsu (Mc 11:18; 12:12). Chúa Giêsu đã là người bị lên
án. Giờ đây sẽ diễn ra điều mà chính Người đã báo trước với
các môn đệ: “Con Người đã được định trước là sẽ bị xử tử” (xem Mc
8:31; 9:31; 10:33). Đây là bối cảnh cho câu chuyện về cuộc thương
khó theo sau.
Câu
chuyện cuộc thương khó sẽ cho thấy rằng người môn đệ thực sự chấp nhận đi theo
Chúa Giêsu, Đấng Mêssia Tôi Tớ, và chấp nhận cống hiến cuộc đời
mình chosự phục vụ các anh chị em của họ, phải vác thập giá mình mà
theo Đức Giêsu. Nếu câu chuyện cuộc thương khó nhấn mạnh đến sự thất bại
và tiêu tan hy vọng, điều này không phải là để làm ngã lòng các độc giả. Trái
lại, nó được dùng để nhấn mạnh rằng việc mở rộng vòng tay và lòng yêu thương của
Chúa Giêsu thì mạnh mẽ hơn sự thất bại và tiêu tan hy vọng của các môn đệ!
Mc
14:3-9: Người môn đệ trung thành.
Một
người phụ nữ mà tên của bà không thấy nhắc đến, xức cho Chúa Giêsu với bình dầu
thơm nguyên chất đắt tiền (Mc 14:3). Các môn đệ chỉ trích cử chỉ
này. Họ cho rằng đó là một việc phí phạm (Mc
14:4-5). Nhưng Chúa Giêsu đã biện hộ cho bà: “Tại sao các
ông lại làm cực lòng bà ấy? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt… bà
đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước” (Mc 14:6-8). Vào thời
đó, những ai chết vì bị đóng đinh thì không được chôn cũng không được tẩm liệm. Biết
được điều này, người phụ nữ đã dự đoán và xức dầu tẩm liệm cho Chúa Giêsu trước
khi có bản án tử hình và việc đóng đinh của Người. Cử chỉ này cho thấy
rằng bà đã chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Mêssia Tôi Tớ, Đấng sẽ chết trên cây thập
giá. Chúa Giêsu hiểu được cử chỉ của người phụ nữ và tán thành điều
này. Trước đó, Phêrô đã bác bỏ ý kiến về một Đấng Cứu Thế Bị Đóng
Đinh (Mc 8:32). Người phụ nữ vô danh này là người môn đệ trung
thành, một khuôn mẫu cho các môn đệ của Người là những người đã không hiểu
gì. Đây là một mẫu mực cho tất cả mọi người, “khắp cùng cõi trái đất”
(Mc 14:9).
* Mc
14:10-31: Thái độ của các môn đệ về cây Thập Giá
10 Khi ấy, Giuđa Iscariốt, một
trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. 11 Nghe
vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người. 12 Ngày
thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua,
các môn đệ thưa Người: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua
tại đâu?" 13 Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng:
"Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo
người đó. 14 Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với
chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các
môn đệ ở đâu? 15 Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn
phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở
đó". 16 Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi
sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
17 Chiều đến, Người cùng Mười
Hai môn đệ tới. 18 Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa
Giêsu nói: "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp
Ta". 19 Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người
thưa Ngài: "Thưa Thầy, có phải con không?" 20Người
đáp: "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. 21 Con
Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó
đừng sinh ra thì hơn". 22 Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu
cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Các
con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". 23 Rồi
Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. 24 Và
Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. 25 Ta
bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống
rượu mới trong nước Thiên Chúa". 26 Sau khi
hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. 27 Chúa Giêsu
bảo các ông: "Đêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép
rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác.
28 Nhưng sau khi Thầy sống lại,
Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". 29 Phêrô
thưa Người: "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con
thì không". 30 Chúa Giêsu bảo ông: "Thầy
bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy
ba lần". 31Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng: "Không,
dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy". Và tất cả
đều nói như vậy.
Mc
14:10-11: Giuđa quyết định phản bội Chúa Giêsu.
Trong
sự tương phản hoàn toàn đối với người phụ nữ, Giuđa, một trong Nhóm Mười Hai
môn đệ, quyết định phản bội Chúa Giêsu và âm mưu với kẻ thù là những kẻ hứa hẹn
cho anh ta tiền. Giuđa đã tiếp tục sống với Chúa Giêsu, với mục tiêu
duy nhất là tìm cơ hội để nộp Người. Khi Máccô đang viết quyển Tin Mừng
của ông, có các môn đệ đang trông chờ lúc chính đáng để rời khỏi cộng đoàn vì
đó là nguyên do mà họ bị đàn áp. Hoặc có lẽ, họ đang trông chờ thời
cơ thuận lợi để giao nộp các bạn đồng hành của họ. Và chúng ta ngày
nay thì sao?
Mc
14:12-16: Việc chuẩn bị mừng Lễ Vượt Qua.
Chúa
Giêsu biết rằng Người sẽ bị phản bội. Tuy nhiên, bất chấp sự phản bội
bởi một người bạn, Chúa vẫn tổ chức bữa tiệc mừng Lễ Vượt Qua trong tình huynh
đệ với các môn đệ của Người. Có lẽ Chúa đã phải chi rất nhiều tiền
cho phòng tiệc, “một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng” (Mc 14:15), bởi vì đây là
buổi tối trước Lễ Vượt Qua. Thành phố đã chật ních những người bởi
vì ngày lễ hội. Khó mà tìm và đặt được một chỗ để ăn mừng.
Mc
14:17-21: Lời loan báo về sự phản bội của Giuđa.
Tụ
họp với nhau lần cuối, Chúa Giêsu loan báo rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội
Người: “một trong các con đang ăn cùng ta!” (Mc
14:18). Cách nói này của Máccô nhấn mạnh sự tương phản. Đối
với người Do Thái, cùng nhau ăn uống, ngồi chung bàn, là biểu hiện
của sự thân mật và tin tưởng nhất. Vì thế, trong ba dòng, Máccô đã
chuyển tải sứ điệp sau đây đến độc giả của mình: sự phản bội sẽ xảy
ra do bàn tay của người bạn thân, nhưng tình yêu của Đức Giêsu thì cao cả hơn
so với sự phản bội!
Mc
14:22-25: Bí Tích Thánh Thể, việc cử hành Tiệc Lễ Vượt Qua.
Đang
lúc tiệc mừng, Chúa Giêsu chia sẻ điều gì đó. Người chia sẻ bánh và
rượu, một biểu lộ của sự cho đi chính bản thân Người và mời gọi các bằng hữu
hãy nhận lấy mình và máu của Người. Tác giả Tin Mừng đã đặt cử chỉ
cho đi này (Mc 14:22-25) ở giữa lời loan báo về sự phản bội (Mc 14:17-21) và việc
bỏ chạy và phủ nhận (Mc 14:26-31). Vì vậy, ông nhấn mạnh sự tương phản
giữa cử chỉ của Chúa Giêsu và của các môn đệ, ông nói lên cộng đoàn của ông thời
ấy và cho tất cả chúng ta thấy tình yêu bao la của Đức Giêsu vượt qua khỏi sự
phản bội, chối từ và tháo chạy của bạn bè của Người.
Mc
14:26-28: Lời loan báo về sự chạy trốn của tất cả mọi người.
Sau
bữa ăn tối, đang khi Người cùng với các môn đệ đi lên núi Cây Dầu, Chúa Giêsu
loan báo rằng các ông sẽ bỏ rơi Người. Họ sẽ bỏ chạy và tan
tác! Nhưng ngay sau đó Chúa nói: “Sau khi Thầy sống lại,
Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con!” (Mc 14:28) Các ông lìa bỏ
Chúa, nhưng Đức Giêsu không lìa bỏ họ. Người tiếp tục chờ đợi các
ông tại cùng một chỗ, trong xứ Galilêa, nơi mà ba năm trước đây lần đầu tiên
Người đã gọi các ông. Điều chắc chắn về sự hiện diện của Chúa Giêsu
trong đời sống người môn đệ thì vững chắc hơn là sự từ bỏ hoặc tháo chạy! Người
ta luôn luôn có thể quay trở lại.
Mc
14:29-31: Lời loan báo về việc chối Thầy của Phêrô.
Ông
Simon, được gọi là Kêpha (nghĩa là đá), có thể là bất cứ vật gì
nhưng chẳng phải là đá. Ông đã là “vật cản đường” (Mt
16:23) và là Satan đối với Chúa Giêsu (Mc 8:33), và giờ đây
ông làm ra vẻ là người môn đệ trung thành nhất trong tất cả: “Dù tất cả vấp
phạm vì Thầy, nhưng con thì không!” (Mc 14:29). Nhưng Chúa Giêsu bảo
ông: Phêrô, con sẽ là người đầu tiên chối Thầy, trước khi gà gáy
sáng!
* Mc
14:32-52: Thái độ của các môn đệ trong Vườn Cây Dầu
32 Đi đến một vườn kia tên
là Giệtsêmani, Người bảo các môn đệ: "Các con hãy ngồi lại đây trong khi
Thầy đi cầu nguyện". 33 Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê
và Gioan theo Người 34và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người
liền bảo các ông: "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây
và tỉnh thức". 35 Tiến xa hơn một chút, Người
phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người
nguyện rằng:36 "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự,
xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý
Cha". 37 Người trở lại và thấy các ông đang ngủ,
nên nói với Phêrô: "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ
sao? 38 Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ,
vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối". 39Rồi
Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. 40 Khi
trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông
không còn biết thưa Người làm sao. 41Lần thứ ba, Người trở lại
và bảo: "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến:
Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. 42 Thôi!
hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi". 43 Người
còn đang nói, thì Giuđa Iscariốt, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một
toán đông mang gươm giáo và gậy góc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. 44 Trước
đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng: "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó
chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". 45Vừa
đến, nó liền tới gần Người mà nói: "Chào Thầy". Và nó hôn Người. 46 Và
chúng tra tay bắt Người. 47 Nhưng một người trong những kẻ
đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. 48 Chúa
Giêsu nói với chúng rằng: "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt
tên cướp! 49 Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy
trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời
Kinh Thánh". 50 Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. 51 Có
một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, 52 nhưng
anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.
Mc
14:32-42: Thái độ của các môn đệ trong cơn buồn sầu của Chúa
Giêsu.
Trong
Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu bắt đầu cơn buồn sầu của mình và bảo các ông Phêrô,
Giacôbê và Gioan cầu nguyện cho Người. Người buồn bã và bắt đầu kinh
sợ. Người tìm kiếm sự hỗ trợ nơi các bạn hữu của
mình. Nhưng họ lại mê ngủ. Các ông không thể thức được một giờ
với Chúa. Và đều cả ba lần! Một lần nữa, chúng ta thấy sự
tương phản lớn lao giữa thái độ của Chúa Giêsu và của ba môn đệ! Tại
Vườn Cây Dầu này và tại thời điểm buồn sầu của Chúa Giêsu mà lòng can đảm của
các môn đệ đã tan rã. Chẳng còn lại gì!
Mc
14:43-52: Thái độ của các môn đệ khi Chúa Giêsu bị bắt.
Khi
màn đêm buông xuống, các quân lính được dẫn đầu bởi Giuđa đi đến. Nụ
hôn, một dấu hiệu của tình bạn và tình yêu, trở thành dấu hiệu của sự phản bội. Giuđa
đã thiếu can đảm để đối diện với sự phản bội của mình. Hắn ta trốn
nó! Trong khi bị bắt, Chúa Giêsu vẫn giữ được sự bình tĩnh, Người
làm chủ tình hình. Người cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những gì đang
xảy ra: “Như thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh!” (Mc
14:49) Nhưng tất cả các môn đệ đều bỏ Người và trốn đi hết (Mc
14:50). Chả có ai ở lại. Chúa Giêsu trơ trọi một mình!
* Mc
14:53-15:20: Cuộc luận án: những quan niệm mâu
thuẫn khác biệt nhau về Đấng Cứu Thế.
53 Chúng điệu Chúa Giêsu đến
thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. 54Còn
Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy
tớ.55 Vậy các thầy thượng tế và toàn thể Công Nghị tìm một chứng
cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. 56 Có
nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. 57 Tuy
nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng: 58"Chúng
tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và
trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm
ra". 59 Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp
nhau. 60 Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi
Chúa Giêsu rằng: "Sao ông không trả lời gì về những điều các
người này tố cáo ông". 61 Nhưng Người vẫn thinh lặng
và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi: "Ông có phải là Đấng
Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?" 62 Chúa
Giêsu đáp: "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng
toàn năng và ngự đến trên đám mây". 63 Thầy thượng tế
liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng
nữa? 64 Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ
sao" Ai nấy đều lên án Người đáng chết. 65Rồi
có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng: "Hãy
đoán xem!" Và bọn thủ hạ vả mặt Người.
66 Phêrô đang ở ngoài sân tiền
đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, 67thấy
Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói: "Ông cũng theo Giêsu, người
Nagiarét". 68Nhưng ông chối phắt mà rằng: "Tôi
không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì". Rồi ông đi ra ngoài
phía trước tiền đường, và gà liền gáy. 69 Lần nữa người đầy
tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng: "Ông này
thuộc bọn đó". 70 Nhưng ông lại chối. Một lúc
sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng: "Đúng ông thuộc bọn
đó, vì cả ông cũng là người Galilêa". 71 Ông liền
nguyền rủa nặng lời và thề rằng: "Tôi không biết người mà các
ông nói đó". 72 Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô
nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối
Ta ba lần". Và ông liền than khóc.
15:1 Vừa tảng sáng, các thượng
tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể Công Nghị. Họ đã trói Chúa
Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. 2 Philatô hỏi Người: "Ông
có phải là vua dân Do-thái không?" Chúa Giêsu đáp: "Ông
nói đúng!" 3 Và các thầy thượng tế cáo Người
nhiều điều. 4 Philatô lại hỏi Người rằng: "Ông
không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" 5 Nhưng
Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. 6 Vào
mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ
xin. 7 Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với
những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn.8 Dân
chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. 9 Vậy
Philatô hỏi: "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân
Do-thái không?" 10 Vì quan đã biết rõ do lòng
ghen tương mà các thượng tế nộp Người. 11 Nhưng dân xin
quan phóng thích Baraba cho họ. 12 Philatô bảo dân chúng rằng: "Các
ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" 13 Nhưng
chúng lại kêu lên: "Đóng đinh nó đi!" 14Philatô
đáp lại: "Người này đã làm gì nên tội?" Song
chúng càng la to hơn: "Đóng đinh nó đi!" 15 Sau
cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng
đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. 16 Quân lính điệu Người
vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. 17 Chúng mặc áo
choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. 18 Đoạn
chào Người rằng: "Tâu Vua dân Do-thái". 19 Rồi
chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. 20 Khi
đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và
chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.
Mc
14:53-65: Chúa Giêsu bị kết án bởi Tòa Tối Cao
Chúa
Giêsu bị dẫn ra trước tòa án của các thầy Thượng Tế, Kỳ Lão và Luật Sĩ, gọi là
Công Nghị. Những lời cáo gian đã buộc cho Người. Chúa
vẫn giữ im lặng. Không có bất kỳ lời biện bạch nào, Người bị trao cho
kẻ thù của mình. Vậy là Người đã ứng nghiệm những gì ngôn sứ Isaia
đã nói về Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, Đấng đã bị bắt làm tội nhân, bị luận
tội và bị lên án như một con cừu, Người không hề mở miệng kêu ca (xem
is 53:6-8). Khi bị tra vấn, Chúa Giêsu nhìn nhận sự thật Người là Đấng
Cứu Thế: “Phải, chính Ta!” Nhưng Người xác nhận điều này
dưới danh hiệu Con Thiên Chúa (Mk 14:62). Sau cùng,
Người bị vả vào mặt bởi những kẻ chế nhạo Người gọi Người là Đấng Mêssia Tiên
Tri (Mk 14:65).
Mc
14:66-72: Lời chối của Phêrô.
Phêrô
bị người tớ gái nhận mặt là một trong những người đã có mặt trong Vườn Cây Dầu. Phêrô
phủ nhận điều này. Ông chối phắt việc ấy bằng lời nguyền rủa và thề
thốt. Ngay cả lúc này ông không có khả năng chấp nhận Chúa Giêsu là
Đấng Mêssia Tôi Tớ, Đấng đã thí mạng sống mình cho người
khác. Nhưng khi gà gáy lần thứ hai, ông nhớ lại lời của Chúa Giêsu
và bắt đầu than khóc. Đây là những gì xảy ra cho những kẻ gần gũi với
mọi người nhưng đầu óc bị lẫn mất trong hệ thống tư tưởng của nhóm Hêrôđê và những
người Biệt Phái. Đây có lẽ là tình trạng của nhiều người trong các cộng
đoàn vào thời Máccô đang viết sách Tin Mừng của ông. Và còn chúng ta
ngày nay thì sao?
Mc
15:1-20: Chúa Giêsu bị kết án bởi quyền lực La Mã.
Cuộc
xử án tiếp tục. Chúa Giêsu bị giải nạp cho nhà cầm quyền La Mã và bị
cáo buộc là Đấng Mêssia Vua (Mc 15:2; Mc 15:25). Những
người khác thì đề nghị để thay thế cho Baraba, “bị giam cùng với những kẻ phiến
loạn” (Mc 15:7). Họ xem Chúa Giêsu như một Đấng Cứu Thế Anh
Hùng chống lại đế quốc La Mã. Sau khi bị kết án, họ khạc nhổ
vào mặt Chúa Giêsu, nhưng Người sẽ không mở miệng. Ở đây một lần nữa,
chúng ta thấy Đấng Cứu Thế Tôi Tớ được công bố bởi ngôn sứ
Isaia (xem Is 50:6-8).
* Mc
15:21-39: Trước cây Thập Giá của Chúa Giêsu trên đồi Canvê
21 Chúng gặp một người qua
đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở
ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. 22Chúng
điệu Người đến nơi kia gọi là Gôngôtha, nghĩa là Núi Sọ. 23 Chúng
cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. 24 Chúng
đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm
xem ai được phần nào. 25 Vào lúc giờ thứ ba, chúng
đã đóng đinh Người vào thập giá. 26 Và có bản án ghi rằng:
Vua dân Do Thái!27 Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên
trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. 28 Như
vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian
ác. 29 Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và
nói: "Kìa! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba
ngày: 30 hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá
đi!" 31 Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo
báng Người và nói với nhau: "Nó đã cứu được những kẻ khác mà
không tự cứu mình! 32 Bây giờ Đấng Kitô Vua Israel, hãy xuống
khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" Cả những kẻ cùng
chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. 33 Từ giờ
thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. 34 Và
đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: "Eloi, Eloi, lema
sabachtani!" Nghĩa là: "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa
bỏ con!" 35 Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: "Kìa,
nó gọi Elia!" 36 Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng
bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: "Hãy
đợi xem Êlia có đến đem nó xuống không?" 37 Nhưng
Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ
gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
38 Màn trong đền thờ xé ra
làm đôi từ trên xuống dưới. 39 Viên sĩ quan đứng trước mặt
Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: "Đúng
người này là Con Thiên Chúa!"
Mc
15:21-22: Ông Simon vác đỡ thập giá.
Khi
Chúa Giêsu đang bị điệu đi đến nơi đóng đinh vào thập giá, ông Simon quê ở
Xyrênê, là một người cha trong gia đình, đã bị bắt vác đỡ Thập
Giá. Simon là một môn đệ lý tưởng, ông đi theo con đường mà Chúa
Giêsu đi. Theo nghĩa đen, ông vác thập giá đi theo chân Chúa Giêsu
lên đồi Canvê
Mc
15:23-32: Đóng đinh vào thập giá.
Chúa
Giêsu bị đóng đinh như kẻ bị ức hiếp, ở giữa hai tên trộm. Một lần nữa,
Tin Mừng của Máccô gợi nhớ lại hình ảnh của Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, Đấng
mà ngôn sứ Isaia đã nói: Người bị chôn cất giữa bọn ác ôn” (Is
53:9). Tội gán cho Người là “Vua dân Do Thái!” (Mc 15:25) Những
kẻ có thẩm quyền tôn giáo nhạo báng và xúc phạm đến Chúa Giêsu và nói rằng: “hãy
xuống khỏi thập giá ngay đi để chúng ta thấy mà tin nào!” (Mc
15:321). Họ cũng giống như Phêrô. Họ sẽ chỉ chấp nhận
Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai, nếu Người xuống khỏi cây thập giá. Như
bài thánh vịnh viết rằng: “Họ chỉ muốn có một vị vua vĩ đại hùng
dũng, thống trị, và vì điều này, họ đã không tin vào Ngài và đã giết Đấng Cứu Độ”.
Mc
15:33-39: Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Bị
tất cả mọi người bỏ rơi, Chúa Giêsu kêu lên một tiếng và trút hơi thở. Viên
sĩ quan, một người dân ngoại, có nhiệm vụ canh gác, đã thốt lên một lời tuyên
xưng đức tin long trọng: “Đúng người này là Con Thiên
Chúa!” Một người dân ngoại đã khám phá ra và chấp nhận những gì các
môn đệ đã không thể khám phá và chấp nhận, đó là trông thấy sự hiện diện của Con
Thiên Chúa trong tấm hình hài bị tra tấn, loại trừ và bị đóng đinh
này. Giống như người phụ nữ vô danh ở đầu của hai chương này (Mc
14:3-9), vì thế tại phần cuối xuất hiện một mẫu mực môn đệ khác, viên sĩ quan,
một người dân ngoại!
* Mc
15:40-16:8: Tại
ngôi mộ của Chúa Giêsu
40 Cũng có những phụ nữ đứng
nhìn từ đàng xa. Trong số có bà Maria Magđalêna, bà Maria mẹ của ông
Giacôbê trẻ và của ông Giôsết, và bà Salômê, 41 là những kẻ
đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác
cũng đã lên Giêrusalem với Người. 42 Trời đã xế chiều và
hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbát. 43 Ông Giuse
quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong Công Nghị, cũng là người trông đợi
Nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. 44 Philatô
ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã
chết thật chưa. 45 Khi được viên sĩ quan phúc trình,
quan trao xác Người cho Giuse. 46 Giuse đã mua một khăn trắng,
hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn
trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mồ. 47 Lúc đó bà
Maria Magđalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.
16:1 Vừa hết ngày Sabbát,
bà Maria Magđalêna với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để
đi ướp xác Chúa Giêsu. 2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất
trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. 3 Các bà bảo
nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm chúng ta đây?” 4 Nhưng
vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn
lắm. 5 Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh
niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. 6 Nhưng
người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức
Giêsu Nagiarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì? Người đã trỗi dậy rồi,
không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này! 7 Xin
các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilêa trước các
ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các
ông.” 8 Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy
bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ
hãi.
Mc
15:40-47: Táng xác Đức Chúa Giêsu.
Một
nhóm các người phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa: Maria Magđalêna, Maria mẹ
của Giacôbê và bà Salômê. Họ đã không chạy trốn. Họ vẫn
trung thành cho đến cùng. Các bà chứng kiến cuộc tử nạn của Chúa
Giêsu. Từ nhóm nhỏ này mà lời công bố mới về Chúa Nhật Phục Sinh sẽ
xảy đến. Các bà đi với ông Giuse quê ở Arimathia là người đã xin
phép để chôn Chúa Giêsu. Sau đó, hai bà trong số họ, các bà Maria
Magđalêna và Maria, ở gần ngôi mộ đã lấp. Họ cũng chứng kiến việc
táng xác Chúa Giêsu.
Mc
16:1-8: Công bố sự phục sinh
Ngày
thứ nhất trong tuần, vào lúc sáng tinh sương, những người phụ nữ ấy cùng đi để
ước xác Chúa Giêsu. Họ thấy ngôi mộ đã mở ra. Các bà là
những nhân chứng của sự phục sinh. Một thiên thần nói với các bà rằng
Chúa Giêsu đã sống lại và trao cho họ một mệnh lệnh: “đi
và nói với các môn đệ Người và ông Phêrô rằng: ‘Người sẽ đến Galilêa trước
các ông; ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.’” (Mc
16:7). Trong miền Galilêa, trên bờ hồ, nơi mà tất cả mọi sự đã khởi
xướng, ở đó tất cả mọi thứ cũng sẽ bắt đầu lại. Chúa Giêsu đã mời gọi! Người
sẽ không bỏ cuộc, ngay cả khi đối mặt với việc các môn đệ từ bỏ Người! Người
sẽ gọi lần nữa! Người luôn luôn gọi!
c) Sự
thất bại cuối cùng như là lời kêu gọi mới trở thành môn đệ
Đây
là câu chuyện về cuộc thương khó, khổ nạn và sự phục sinh của Chúa
Giêsu được nhìn thấy từ quan điểm của các môn đệ. Số lần mà câu chuyện
này nói về việc kém hiểu biết và thất bại của các môn đệ, có lẽ tương ứng nhất
với một sự kiện lịch sử. Nhưng điểm quan tâm chính
của tác giả Tin Mừng không phải là để kể lại những gì đã xảy ra trong quá khứ,
mà ông muốn tác động một sự hoán cải trong các Kitô hữu của thời ấy và khơi dậy
trong họ và trong chúng ta một niềm hy vọng mới, có khả năng khắc phục được sự
nản lòng và cái chết. Có ba điều nổi bật và cần phải được suy nghĩ kỹ
lưỡng:
i) Sự
thất bại của những người được chọn: Nhóm
Mười Hai là những người đã được Chúa Giêsu gọi và chọn cách đặc biệt (Mc
3:13-19) và được Người sai đi trong sứ vụ (Mc 16:7-13), đã thất bại. Thất
bại hoàn toàn. Giuđa phản bội, Phêrô chối Thầy, tất cả đều bỏ chạy,
không một ai ở lại. Tất cả phân tán! Dường
như, không có sự khác biệt nhiều giữa họ và những kẻ có thẩm
quyền đã quyết định về cái chết của Chúa Giêsu. Cũng giống như
Phêrô, họ cũng muốn loại bỏ cây thập giá và muốn có một Đấng Cứu Thế vinh quang, một
vì vua, Con Thiên Chúa được ơn phúc. Nhưng có một sự khác biệt
thật sự và sâu xa! Mặc dù với tất cả nhữnglỗi lầm và yếu
kém của mình, các môn đệ đã không có dã tâm. Các
ông không có bất kỳ một ý định xấu xa nào. Họ gần như là một bản sao
trung thực của tất cả chúng ta là những kẻ đang đi trên con đường của
Chúa Giêsu, mãi mãi vấp ngã nhưng lại luôn gượng dậy!
ii) Lòng
trung thành của những người không được chọn: Là một đối trọng với sự thất bại
của một số người, sức mạnh đức tin của những người khác đã được bày tỏ, những
người không thuộc về nhóm Mười Hai môn đệ được chọn:
1. Người
phụ nữ vô danh từ Bêtania. Bà chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu ThếTôi
Tớ và do đó, bà đã xức dầu cho Người trong dự đoán về việc
chôn cất Người. Chúa Giêsu khen bà. Bà là một gương mẫu cho tất
cả chúng ta.
2. Ông
Simon quê ở Xyrênê, một người cha trong gia đình. Ông đã bị các quân
lính bắt buộc phải làm điều mà Chúa Giêsu đã yêu cầu Nhóm Mười Hai làm mà họ đã
bỏ chạy. Ông vác cây thập giá đi theo chân Chúa Giêsu lên đồi Canvê.
3. Viên
sĩ quan, một dân ngoại. Vào lúc Chúa sinh thì, ông đã tuyên xưng đức
tin của mình và nhận ra Con Thiên Chúa trong hình hài người đàn ông bị đánh
đập và đóng đinh trên thập giá, người bị nguyền rủa chiếu theo luật
Do Thái.
4. Bà
Maria Magđalêna, bà Maria mẹ của ông Giacôbê và bà Salômê, “và nhiều phụ nữ
khác ở đó đã lên Giêrusalem cùng với Người (Mc 15:41). Họ đã không bỏ
rơi Chúa Giêsu, nhưng kiên quyết ở lại dưới chân cây thập giá và gần mồ Chúa
Giêsu.
5.
Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên của Công Nghị, người đã mạo hiểm bằng mọi
cách để xin xác Chúa Giêsu đem về mai táng. Nhóm Mười Hai đã không
làm tròn. Việc tiếp tục sứ điệp Nước Trời đã không thông qua các
ông, nhưng qua các người khác, đặc biệt là phụ nữ, những người sẽ được trao cho
một nhiệm vụ rõ ràng là đi tìm gọi lại những môn đệ thất bại
đó (Mc 16:7). Và ngày nay, sứ điệp được lưu truyền qua
những người nào?
iii) Thái
độ của Chúa Giêsu: Cách thức mà trong Tin Mừng
Máccô trình bày về thái độ của Chúa Giêsu trong khi nói về cuộc thương khó là
có ý mang lại niềm hy vọng ngay cả với các
môn đệ chán nản và thất vọng nhất! Bởi
vì cho dù sự phản bội của Nhóm Mười Hai có to lớn đến đâu thì tình yêu của Đức
Giêsu vẫn luôn bao la hơn! Khi Chúa Giêsu
loan báo rằng các môn đệ sẽ chạy trốn, Người đã nói với các ông rằng Người sẽ đợi
họ ở Galilêa. Mặc dù Người đã biết trước về việc phản bội (Mc
14:18), chối bỏ (Mc 14:30), tháo chạy (Mc 14:27), Chúa vẫn tiếp tục cử hành Bí
Tích Thánh Thể. Và vào tảng sáng Phục Sinh, thiên thần, qua các ngườiphụ
nữ, đã gửi một thông điệp đến Phêrô là người đã chối Chúa, và đến tất cả mọi
người khác là những kẻ đã bỏ trốn, rằng các ông phải đi đến
Galilêa. Nơi mà tất cả mọi việc đã khởi đầu cũng sẽ
là nơi mà tất cả mọi thứ được bắt đầu lại. Sự thất bại của Nhóm Mười
Hai không làm hủy đi giao ước đã được ký và đóng ấn bằng máu của Chúa Giêsu.
d) Khuôn
mẫu của người môn đệ: Đi theo, Phục vụ, Đi lên
Máccô
nhấn mạnh đến sự hiện diện của các phụ nữ là những người đi theo và giúp Chúa
Giêsu từ lúc Người còn ở Galilêa và đi lên Giêrusalem cùng với Người (Mc
15:40-41). Máccô xử dụng ba chữ để xác định mối quan hệ của những
người phụ nữ với Chúa Giêsu: Đi theo! Phục vụ! Đi
lên! Các bà “đã đi theo và giúp đỡ” Chúa Giêsu và cùng với
nhiều phụ nữ khác “đã cùng đi lên Giêrusalem với Người” (Mc
15:41). Đây là ba từ ngữ để định nghĩa một người môn đệ lý tưởng. Họ
là những gương mẫu cho các môn đệ khác là những kẻ đã tháo chạy!
* Đi
theo mô tả lời mời gọi của Chúa Giêsu và quyết định đi theo Người (Mc
1:18). Quyết định này ngụ ý là từ bỏ mọi sự và chấp nhận nguy cơ có thể bị
giết chết (Mc 8:34; 10:28).
* Phục
vụ nói rằng họ là những môn đệ đích thực, bởi vì sự phục vụ là
đặc tính của người môn đệ và của chính Chúa Giêsu (Mc 40:42-45).
* Đi
lên nói rằng họ đủ tư cách là chứng tá cho cuộc tử nạn và sự phục sinh
của Chúa Giêsu, bởi vì như các môn đệ, họ sẽ đi cùng với Người từ Galilêa đến
Giêrusalem (Cv 13:31).
Sau
khi chứng kiến sự phục sinh của Chúa Giêsu, họ cũng sẽ mục kích những gì họ đã
trông thấy và đã trải qua. Đó là kinh nghiệm của phép thanh tẩy của
chúng ta. “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã
cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại
từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống
một đời sống mới” (Rm 6:4). Nhờ bí tích rửa tội, tất cả chúng ta cùng chia
sẻ trong cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu.
3. Trợ
giúp cho việc suy gẫm
i) Trong cuộc thương
khó và tử nạn của Chúa Giêsu, điều gì khiến tôi cảm động nhất trong thái độ của
mười hai vị tông đồ và thái độ của những người phụ nữ? Bạn sẽ làm gì nếu bạn
đã có mặt vào lúc ấy? Bạn sẽ hành động như các vị tông đồ hay sẽ
hành động như các người phụ nữ?
ii) Điều gì đã làm bạn
cảm động nhất trong thái độ của Chúa Giêsu đối với các môn đệ của Người trong
bài tường thuật cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu? Tại sao?
iii) Bài tường thuật về
cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu theo Tin Mừng Máccô mang sứ điệp đặc
biệt gì? Bạn có đã tìm ra được những khác biệt giữa lời tường thuật
về cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Máccô và trong các
Tin Mừng khác chưa? Những khác biệt này là gì?
4. Lời
cầu nguyện bằng Thánh Vịnh: Thánh Vịnh 22 (21)
Bài
Thánh Vịnh mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện trên Thập Giá
Lạy
Chúa con thờ, muôn lạy Chúa,
Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?
Dù con thảm thiết kêu gào,
nhưng ơn cứu độ nơi nao xa vời!
Ngày kêu Chúa, không lời đáp ứng,
đêm van Ngài mà cũng chẳng yên.
Thế nhưng Chúa ngự nơi đền,
vinh quang của Israel là Ngài.
Xưa tổ phụ vẫn hoài cậy Chúa,
họ cậy trông, Ngài đã độ trì,
van nài liền được cứu nguy,
đã không thất vọng mỗi khi cậy Ngài.
Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?
Dù con thảm thiết kêu gào,
nhưng ơn cứu độ nơi nao xa vời!
Ngày kêu Chúa, không lời đáp ứng,
đêm van Ngài mà cũng chẳng yên.
Thế nhưng Chúa ngự nơi đền,
vinh quang của Israel là Ngài.
Xưa tổ phụ vẫn hoài cậy Chúa,
họ cậy trông, Ngài đã độ trì,
van nài liền được cứu nguy,
đã không thất vọng mỗi khi cậy Ngài.
Thân
sâu bọ chứ người đâu phải,
con bị đời mắng chửi dể duôi,
thấy con ai cũng chê cười,
lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai:
"Nó cậy CHÚA, mặc Người cứu nó!
Người có thương, giải gỡ đi nào! "
con bị đời mắng chửi dể duôi,
thấy con ai cũng chê cười,
lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai:
"Nó cậy CHÚA, mặc Người cứu nó!
Người có thương, giải gỡ đi nào! "
Đưa
con ra khỏi thai bào,
vòng tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn.
Chào đời con được dâng cho Chúa,
được Ngài là Chúa tự sơ sinh.
Xa con Ngài đứng sao đành,
nguy hiểm bên mình không kẻ giúp cho.
vòng tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn.
Chào đời con được dâng cho Chúa,
được Ngài là Chúa tự sơ sinh.
Xa con Ngài đứng sao đành,
nguy hiểm bên mình không kẻ giúp cho.
Quanh
con cả đàn bò bao kín,
thú Ba-san ùa đến bủa vây:
Há mồm đe doạ gớm thay,
khác nào sư tử xé thây vang gầm.
Tưởng mình như tan dần ra nước,
toàn thân con xương cốt rã rời,
con tim đau đớn bồi hồi,
mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan.
Nghe cổ họng khô ran như ngói,
lưỡi với hàm dính lại cùng nhau,
chốn tử vong Chúa đặt vào;
Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,
còn áo trong cũng bắt thăm luôn.
thú Ba-san ùa đến bủa vây:
Há mồm đe doạ gớm thay,
khác nào sư tử xé thây vang gầm.
Tưởng mình như tan dần ra nước,
toàn thân con xương cốt rã rời,
con tim đau đớn bồi hồi,
mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan.
Nghe cổ họng khô ran như ngói,
lưỡi với hàm dính lại cùng nhau,
chốn tử vong Chúa đặt vào;
Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,
còn áo trong cũng bắt thăm luôn.
Chúa
là sức mạnh con nương,
cứu mau, lạy CHÚA, xin đừng đứng xa.
Xin cứu mạng khỏi sa lưỡi kiếm,
gỡ thân con thoát miệng chó rừng,
khỏi nanh sư tử hãi hùng,
phận hèn khốn khổ thoát sừng trâu điên.
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
cho anh em tất cả được hay,
và trong đại hội dân Ngài,
con xin dâng tiến một bài tán dương.
Hỡi những ai kính sợ ĐỨC CHÚA,
hãy ca tụng Người đi!
Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp,
nào hãy tôn vinh Người!
Dòng dõi Israel tất cả,
nào một dạ khiếp oai!
Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường,
chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ,
cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ,
nhưng đã thương nghe lời cầu cứu.
Chịu ơn Người, tôi dâng lời ca tụng,
ngày đại hội toàn dân.
Điều khấn nguyền, tôi xin giữ trọn
trước mặt những ai kính sợ Người.
Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê,
người tìm CHÚA sẽ dâng lời ca tụng.
Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.
Toàn thế giới, muôn người nhớ lại
và trở về cùng CHÚA.
Mọi dân tộc dưới trần
phủ phục trước Tôn Nhan.
Bởi vì CHÚA nắm quyền vương đế,
Người thống trị chư dân.
Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất
sẽ đều bái lạy một mình Người,
phàm những ai trở về cát bụi
sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan.
Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa,
con cháu tôi sẽ phụng sự Người.
Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa
cho thế hệ tương lai,
truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người,
rằng: "Đức Chúa đã làm như vậy! "
cứu mau, lạy CHÚA, xin đừng đứng xa.
Xin cứu mạng khỏi sa lưỡi kiếm,
gỡ thân con thoát miệng chó rừng,
khỏi nanh sư tử hãi hùng,
phận hèn khốn khổ thoát sừng trâu điên.
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa
cho anh em tất cả được hay,
và trong đại hội dân Ngài,
con xin dâng tiến một bài tán dương.
Hỡi những ai kính sợ ĐỨC CHÚA,
hãy ca tụng Người đi!
Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp,
nào hãy tôn vinh Người!
Dòng dõi Israel tất cả,
nào một dạ khiếp oai!
Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường,
chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ,
cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ,
nhưng đã thương nghe lời cầu cứu.
Chịu ơn Người, tôi dâng lời ca tụng,
ngày đại hội toàn dân.
Điều khấn nguyền, tôi xin giữ trọn
trước mặt những ai kính sợ Người.
Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê,
người tìm CHÚA sẽ dâng lời ca tụng.
Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.
Toàn thế giới, muôn người nhớ lại
và trở về cùng CHÚA.
Mọi dân tộc dưới trần
phủ phục trước Tôn Nhan.
Bởi vì CHÚA nắm quyền vương đế,
Người thống trị chư dân.
Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất
sẽ đều bái lạy một mình Người,
phàm những ai trở về cát bụi
sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan.
Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa,
con cháu tôi sẽ phụng sự Người.
Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa
cho thế hệ tương lai,
truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người,
rằng: "Đức Chúa đã làm như vậy! "
5. Lời
Nguyện Kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm
của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức
Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp
nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét