14/03/2015
Thứ Bảy Tuần III
Mùa Chay Năm A
BÀI
ĐỌC I: Hs 6, 1b-6
"Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ".
Trích
sách Tiên tri Hôsê.
Đây
Chúa phán: Trong cảnh khốn khổ, từ ban mai, họ chỗi dậy chạy tìm kiếm Ta.
"Hãy đến, và chúng ta quay trở về với Chúa, vì Chúa bắt chúng ta, rồi sẽ
tha chúng ta; Chúa đánh chúng ta, rồi sẽ lại chữa chúng ta. Sau hai ngày Người
cho chúng ta sống lại, đến ngày thứ ba, Người đỡ chúng ta đứng lên, và chúng ta
sẽ sống trước mặt Người. Chúng ta hãy nhận biết Chúa và hãy ra sức nhận biết
Chúa. Người sẵn sàng xuất hiện như vừng đông, và sẽ đến cùng chúng ta như mưa
thuận và như mưa xuân trên mặt đất".
Hỡi
Ephraim, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giuđa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Tình thương
các ngươi như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi. Vì thế, Ta dùng các tiên
tri nghiêm trị chúng, và Ta dùng lời từ miệng Ta phán ra mà giết chúng. Án phạt
các ngươi bừng lên như ánh sáng. Vì chưng, Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy
lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 50, 3-4. 18-19. 20-21ab
Đáp:
Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ (Hs 6, 6).
1)
Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả
đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Đáp.
2) Bởi
vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu Chúa sẽ không ưng. Của
lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan
nát, khiêm cung. - Đáp.
3) Lạy
Chúa, xin thịnh tình với Sion theo lòng nhân hậu, hầu xây lại thành trì của
Giêrusalem. Bấy giờ Chúa con sẽ nhận những lễ vật chính đáng, những hy sinh với
lễ toàn thiêu. - Đáp.
CÂU
XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Ga 8, 12b
Chúa
phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".
PHÚC
ÂM: Lc 18, 9-14
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người
công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện,
một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện
rằng: 'Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất
công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và
dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi'. Người thu thuế đứng xa xa,
không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương
xót con là kẻ có tội'. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người
kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ
mình xuống, sẽ được nâng lên". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
SUY
NIỆM : Chìa Khoá Của Tự Do
Người
Hồi giáo nói về sự cầu nguyện bằng câu chuyện sau: cómột người thợ kim hoàn
nghèo nhưng thanh liêm bị giam tù vì một tội ông không bao giờ phạm. Vài tháng
sau khi người chồng bị giam giữ, người vợ đến gặp ban giám đốc và xin cho chồng
một ân huệ. Bà nói chồng bà là một tín hữu trung thành với các buổi cầu nguyện,
bà xin được gửi cho chồng một tấm thảm nhỏ để quì cầu nguyện năm lần một ngày
theo qui định của Hồi giáo. Lời thỉnh cầu được chấp nhận dễ dàng… Ngày nọ, người
thợ kim hoàn đến trình bày với các quản giáo: “Tôi là thợ kim hoàn, nếu các người
cho tôi một ít kim loại, tôi có thể vừa qua được thời giờ nhàn rỗi, vừa làm được
cho các người những nữ trang có thể dùng được”. Các quản giáo không thấy trở ngại
nào về điều đó. Một ngày nọ, các canh tù bỗng phát giác ra cánh cửa nhà tù bị mở
toang và người thợ kim hoàn đã tẩu thoát. Cùng lúc đó người ta cũng bắt giữ được
thủ phạm đích thực mà họ đã qui lầm cho người thợ kim hoàn. Bấy giờ người thợ
kim hoàn mới ra mặt và tiết lộ việc trốn thoát cuả ông. Sau khi ông bị bắt oan,
vợ ông liên lạc với kiến trúc sư đã vẽ hoạ đồ nhà tù. Ông này cho phép bà in
nguyên hoạ đồ chi tiết cuả nhà tù lên tấm thảm. Mỗi ngày năm lần dù phủ phục
trên tấm thảm để cầu nguyện, người thợ đã thuộc lòng đường ra lối vào của nhà
tù, thêm vào đó nhờ những mảnh kim loại các quản giáo cung cấp, người thợ đã có
thể mài dũa những chìa khoá để mở các cánh cửa nhà tù, đó là bí quyết đã giúp
ông trốn được khỏi nhà tù.
Cầu
nguyện là chìa khoá của tự do. Một tâm hồn khao khát tự do đích thực là một tâm
hồn biết cầu nguyện. Chúa Giêsu như muốn minh hoạ cho chân lý ấy qua dụ ngôn
hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Biệt phái lên giữa đền thờ đứng thẳng
người để kể về những thành tích của mình, trong khi đó người thu thuế tội lỗi đứng
trong góc đền thờ, không dám ngước mặt lên, nhưng cúi mình đấm ngực nói lên nỗi
khốn cùng tội lỗi của mình. Chúa Giêsu tuyên bố người thu thuế ra về được tha tội,
còn người Biệt phái vẫn tiếp tục ù lì trong sự tự phụ của mình. Phải chăng Chúa
Giêsu không muốn nói với chúng ta rằng câu chuyện đích thực chính là nỗi khao
khát được thoát khỏi những thứ nô lệ đang trói buộc tâm hồn con người.
Mùa
Chay là trường dạy cầu nguyện. Giáo hội mời gọi chúng ta gia tăng cầu nguyện,
điều đó có nghĩa là chẳng những dành nhiều thời giờ cho cầu nguyện, mà nhất là
thanh luyện thái độ chúng ta trong khi cầu nguyện, lời cầu nguyện đích thực
trong mùa chay phải là thái độ sám hối. Khởi đầu của cầu nguyện ấy là mọi nhận
thức sâu xa về thân phận, tội lỗi của chúng ta và từ đó nói lên tất cả tín thác
của chúng ta vào tình yêu tha thứ của Chúa. Lòng tín thác ấy sẽ xoá tan mọi tội
lỗi và mang lại cho chúng ta tự do đích thực của con cái Chúa.
Như
người con hoang đàng mong được trở về với cha, như người thu thuế nép mình nơi
lòng tha thứ của Chúa, xin cho chúng ta luôn được sống trong tâm tình sám hối
thực sự và cảm nhận được tình thương khoan dung vô bờ của Chúa.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần III MC
Bài đọc: Hos 5:15c-6:6; Lk
18:9-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết Thiên
Chúa và biết mình
Để
dễ sống hòa hợp với người khác, chúng ta cần biết họ là ai và mình là ai, tương
quan của chúng ta với họ, những điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng ta với họ,
những gì họ thích, không thích… Tương tự như vậy khi chúng ta đến với Thiên
Chúa, chúng ta cần phải biết Thiên Chúa là ai và mình là ai, điều khác biệt giữa
Thiên Chúa và mình; những gì Ngài thích hay không thích. Có như vậy, mối liên hệ
hai bên mới tốt đẹp, tránh những gì làm phiền lòng nhau, và gặt hái được những
kết quả mong muốn.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người sống mối liên hệ với Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, con người tưởng có thể qua mặt Thiên Chúa bằng lối sống hời hợt
bên ngòai như dâng các lễ vật hy sinh để đền bù tội lỗi, rồi sau đó cứ tha hồ
phạm tội. Con người có biết đâu Thiên Chúa thấu suốt tâm can, Ngài đâu cần những
lễ vật vì mọi sự trong trời đất thuộc quyền của Ngài. Điều Thiên Chúa muốn,
Ngài tỏ cho con người biết rõ ràng: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ,
thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.” Trong Phúc Âm,
hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người Biệt-phái và một người thu thuế.
Người Biệt-phái tưởng Thiên Chúa không có trí nhớ, nên ông nhắc lại cho Ngài nhớ
những việc ông đã làm; tưởng Thiên Chúa không đủ khôn ngoan nên ông giúp Chúa bằng
cách so sánh giữa cuộc sống của ông với của người thu thuế. Còn người thu thuế
biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự nên chỉ biết đấm ngực ăn năn: “Lạy
Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Hậu quả được Chúa Giêsu tuyên bố:
“người thu thuế, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn
người Biệt-phái thì không.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Thiên Chúa muốn tình yêu và được con người nhận biết.
1.1/
Lợi ích của hình phạt: Hình
phạt không cần thiết cho những người con luôn biết nghe lời cha mẹ; nhưng kinh
nghiệm thực tế cho thấy, con cái không luôn biết vâng lời cha mẹ vì ham chơi,
nên phải có hình phạt để sửa dạy. Hình phạt được ví như thuốc thang cho người bệnh,
tuy đắng khi vào miệng, nhưng sẽ mang lại sức khỏe cho họ. Trường hợp của dân tộc
Israel cũng thế, Thiên Chúa dạy dỗ họ nhiều điều; nhưng họ không chịu nghe và
tuân giữ; nên như một người Cha, Thiên Chúa phải sửa phạt bằng cách cho họ chịu
đau khổ, để giúp họ trở nên tốt hơn.
(1)
Sửa phạt rồi lại xót thương: Sửa phạt con cái là vì thương, chứ không phải vì
ghét bỏ, như lời tục ngữ Việt-nam: “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho
bùi.” Làm cha mẹ mà không chịu giáo dục con cái là đẩy chúng tới cõi chết. Con
cái buồn sầu và tức giận khi bị sửa phạt, nhưng sau khi hồi tâm suy nghĩ, chúng
sẽ nhận ra lỗi lầm của chúng và nhận ra tình thương của cha mẹ. Israel cũng thế,
họ nhận ra tội của họ và tình thương Thiên Chúa trong Thời Lưu Đày và khuyến
khích nhau: “Nào chúng ta hãy trở về cùng Đức Chúa. Người đã xé nát thân chúng
ta, nhưng rồi lại chữa lành. Người đã đánh đập chúng ta, nhưng rồi lại băng bó
vết thương.”
(2)
Làm cho chết rồi lại làm cho sống: “Sau hai ngày, Người sẽ hoàn lại cho chúng
ta sự sống; ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy, và chúng ta sẽ được sống trước
nhan Người.” Chủ đề được lãnh nhận ơn cứu độ trong ngày thứ ba xảy ra thường
xuyên trong Cựu Ước (x/c Gen 42:18, Exo 19:10-11, Jos 3:2, Hos 6:2, Jon 2:1,
Ezr 8:15, Est 5:1, Luk 13:32). Chúa Jesus xác tín niềm tin này bằng cách sống lại
vinh hiển từ cõi chết trong ngày thứ ba.
1.2/
Hai điều căn bản Thiên Chúa muốn nơi con người:
(1)
Phải ra sức học biết Thiên Chúa: Con người thường biếu quà cáp quí giá cho cha
mẹ, vì họ nghĩ cha mẹ sẽ hài lòng vì những quà tặng này. Nhưng điều cha mẹ hài
lòng hơn là con cái phải biết giữ đạo, yêu thương cha mẹ, và ăn ở hòa thuận với
mọi người. Tiên tri Hosea dạy: “Chúng ta phải biết Đức Chúa, phải ra sức nhận
biết Người; như hừng đông mỗi ngày xuất hiện,
chắc chắn thế nào Người cũng đến. Người sẽ đến với chúng ta như mưa rào, như mưa xuân tưới gội đất đai." Phải học biết Thiên Chúa thì con người mới biết Thiên Chúa muốn gì, trước khi con người có thể làm đẹp lòng Ngài. Không học biết về Thiên Chúa, con người không thể làm đẹp lòng Ngài. Chính Thiên Chúa xác nhận: “Ta thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.”
chắc chắn thế nào Người cũng đến. Người sẽ đến với chúng ta như mưa rào, như mưa xuân tưới gội đất đai." Phải học biết Thiên Chúa thì con người mới biết Thiên Chúa muốn gì, trước khi con người có thể làm đẹp lòng Ngài. Không học biết về Thiên Chúa, con người không thể làm đẹp lòng Ngài. Chính Thiên Chúa xác nhận: “Ta thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.”
(2)
Phải hết sức yêu mến Người: Thiên Chúa yêu mến con người, đó là lý do duy nhất
Ngài dựng nên, dạy dỗ, và chuẩn bị mọi sự cho con người. Một điều duy nhất con
người có thể trả ơn Thiên Chúa là yêu mến và vâng nghe những gì Ngài dạy. Không
một thứ quà cáp nào thay thế được tình yêu mà Thiên Chúa mong muốn nơi con người:
“Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ.”
2/
Phúc Âm:
Hai thái độ khi cầu nguyện
Cầu
nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa. Con người cần biết Thiên Chúa là ai và những
gì Thiên Chúa thích; đồng thời con người cũng cần biết mình là ai và những gì
mình ao ước. Vì thế, cần chuẩn bị tâm hồn và có thái độ xứng đáng trước khi cầu
nguyện. Để dẫn chứng thái độ thích đáng khi cầu nguyện, Đức Giêsu kể dụ ngôn
sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác:
(1)
Thái độ của người Pharisee: Người Pharisee đứng thẳng, nguyện thầm rằng:
"Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất
chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con
dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” Có nhiều điều sai trong cách cầu
nguyện này: Hành vi bên ngòai biểu lộ tâm hồn bên trong. Cách đứng thẳng biểu lộ
ông cho mình là công chính; và nếu ông đã công chính, ông đâu cần đến Thiên
Chúa. Lời nói của ông cũng xác tín điều này, ông so sánh mình với những lọai
người tội lỗi, và nhận thấy ông quá tốt lành.
(2)
Thái độ của người thu thuế: Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng
dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa,
xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Ông nhận ra Thiên Chúa là ai và ông là ai.
Hành động và lời nói của ông chứng tỏ ông là người tội lỗi và đang cần tới lòng
thương xót của Thiên Chúa. Ông biết ông không cần phải nói nhiều vì Thiên Chúa
đã thông suốt cả.
(3)
Hậu quả của cuộc cầu nguyện là mục đích mà cả hai người cùng nhắm tới: Chúa
Giêsu tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà,
thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình
lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Người thu thuế
đạt được mục đích, người Biệt-phái đã không đạt được đích, lại còn lãnh thêm tội
vào mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần cố gắng học biết về Thiên Chúa để có thể sống đúng đắn mối liên hệ
với Ngài; đồng thời sự hiểu biết sẽ giúp chúng ta nhận ra những gì Ngài đã làm
cho chúng ta, và sẽ giúp chúng ta yêu Ngài hơn.
-
Thiên Chúa sửa phạt vì yêu thương. Chúng ta cần vượt qua tính tự ái và kiêu ngạo
để nhận ra tội lỗi đã xúc phạm, và ăn năn trở lại cùng Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
14/03/15 THỨ BẢY TUẦN 3 MC
Lc 18,9-14
Lc 18,9-14
Suy niệm: Người
thu thuế đến đền thờ cầu nguyện và anh ý thức rõ thân phận tội lỗi, bất xứng
của mình: Anh không dám bước tới gần cung điện mà chỉ đứng xa xa ở cuối đền
thờ; thậm chí anh cũng không dám ngước mắt nhìn trời, mà chỉ cúi đầu, đấm ngực
và nói lên những lời thống thiết tỏ bày cõi lòng tan nát của mình: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót
con là kẻ tội lỗi.” Tâm tình của anh thật giống với tâm tình của vịnh gia trong
Thánh vịnh 50: - bày tỏ với Chúa tấm lòng “tan nát” vì tội lỗi: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài
là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát
dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê;” – và nài xin lòng từ bi
thương xót của Ngài: “Xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con
đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con xin Ngài thanh tẩy… (Tv 50). Cách cầu nguyện của anh là cách cầu
nguyện đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, anh được Chúa nhậm lời và kể anh là người
công chính.
Mời Bạn: Mùa
chay là mùa sám hối. Tinh thần sám hối của mùa chay được diễn tả trong cung
cách, thái độ và cả trong lời cầu nguyện. Chúa yêu thích tâm tình này hơn là
những “thành tích” mình đạt được qua việc giữ luật bên ngoài và lấy đó làm thoả
mãn rồi tự đánh giá mình là người mẫu mực.
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày lập lại nhiều lần lời sám hối đầu lễ: “Xin
Chúa thương xót chúng con…”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con sám hối để trở thành người công
chính. Xin cho chúng con trong mùa chay thánh này biết thật tình thống hối tự
đáy lòng.
Tự hào và khinh người
Suy niệm:
Tự hào về sự đạo đức của
mình và khinh người khác,
Đó chẳng phải chuyện của các
ông Pharisêu ngày xưa.
Đó là chuyện của con người
mọi thời, của chính các môn đệ hôm nay.
Chúng ta nghe Đức Giêsu kể
dụ ngôn này cho mình trong Mùa Chay thánh.
Hai nhân vật đối lập nhau,
được đặt bên nhau trong dụ ngôn.
Họ ở trong cùng một đền thờ,
cùng đứng cầu nguyện trước nhan Chúa.
Họ là một ông Pharisêu thánh
thiện và một người thu thuế tội lỗi.
Nghe lời cầu nguyện của họ,
chúng ta biết được lòng họ.
Người Pharisêu không xin gì
cho mình, ông chỉ tạ ơn Thiên Chúa.
Ông kể ra những điều xấu mà
ông không làm như bao kẻ khác,
hay như tên thu thuế mà ông
thoáng thấy đứng cuối đền thờ (c. 11).
Ông còn kể những việc đạo
đức tự nguyện về ăn chay và dâng cúng
mà ông đã làm vượt quá những
gì Luật đòi buộc.
Lời cầu nguyện của ông khiến
nhiều người Do Thái tử tế phải thèm.
Còn người thu thuế thì đứng
xa, cúi đầu, đấm ngực, cầu xin cách đơn sơ :
“Lạy Thiên Chúa, xin thương
xót con là kẻ tội lỗi” (c. 13).
Anh thấy mình bất xứng, bất
lực, chỉ biết cậy dựa vào tình thương tha thứ.
Kết luận của Đức Giêsu hẳn
đã làm nhiều người chưng hửng.
Người thu thuế được Thiên
Chúa làm cho nên công chính,
còn người Pharisêu thì không
(c. 14).
Thiên Chúa có bất công không
? Chúng ta có cần sống tử tế nữa không ?
Thật ra, ông Pharisêu không
được gì vì ông đã không xin gì.
Ông không xin vì ông thấy
mình quá ư giàu có về mặt đạo đức.
Ông ra trước Thiên Chúa với
một kho công trạng của mình.
Có bao nhiêu chữ con đầy tự
hào trong lời nguyện của ông.
Chúng ta tưởng ông mở ra khi
nói “con tạ ơn Thiên Chúa”
nhưng thực tế ông đã khép
lại, quay vào mình, ngắm nghía vẻ đẹp của mình.
Rốt cuộc Thiên Chúa là người
thừa, cùng lắm chỉ là người ông đến đòi nợ.
Ngược lại, anh thu thuế tuy
có nhiều tiền, nhưng thấy mình tay trắng, lỗi tội.
Chính điều đó khiến anh hết
sức cần đến Thiên Chúa.
Ngài đã nghe tiếng kêu của
anh từ xa, từ cuối đền thờ.
Không cần Thiên Chúa và coi
thường tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở.
Nên thánh không phải là
chuyện “tôi làm”
mà là chuyện để Thiên Chúa
tự do làm nơi đời tôi.
Chỉ ai nhìn nhận sự yếu đuối
của mình,
lời cầu nguyện của người đó
mới đánh động được trái tim Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ
bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được
tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên
cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao
dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho
Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14
THÁNG BA
Hãy
Đến Và Hãy Gặp
Nước
hằng sống – nước đem lại sự sống đời đời – đã biến đổi cuộc sống của người phụ
nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy như thế nào? Nếu chúng ta xem xét sự chuyển biến tâm linh
của người phụ nữ này, chúng ta có thể thấy rằng cuộc gặp gỡ của chị với Đức
Kitô sản sinh hoa trái tâm linh rất lớn lao. Thực vậy, chúng ta có thể nhận ra
nơi chị một cuộc hoán cải đích thực – cuộc hoán cải đưa chị đến chỗ nhìn nhận Đức
Giêsu là Đấng Mê-si-a: “Các người hãy đến và hãy gặp con người đã nói với tôi về
tất cả những gì tôi đã làm! Chắc hẳn người ấy phải là Đấng Mê-si-a!” (Ga 4,29).
Người
phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy đã loan báo Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ cho hàng xóm và bạn
bè chị. Chị nói với họ về cuộc hoán cải của chị và về quyền năng cứu độ của Đức
Giêsu. “Ông ấy đã kể cho tôi về mọi sự mà tôi đã làm”. Chị biểu lộ một nghị lực
và niềm vui mới có sức thúc bách chị loan báo cho người khác về sự thật và về
ân sủng mà mình đã nhận được. “Các người hãy đến và hãy gặp” – chị bảo họ như
thế. Có thể nói, chị đã trở thành một sứ giả của Đức Kitô và của Tin Mừng cứu độ,
như trường hợp Maria Mác-đa-la vào buổi sáng ngày Phục Sinh.
Cũng
vậy, chúng ta được mời gọi uống thứ nước hằng sống có thể thanh tẩy tâm hồn ta
và biến đổi cuộc sống ta. Và cũng vậy, chúng ta có thể trở thành những sứ giả của
Tin Mừng. Như trường hợp người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy, chúng ta cũng phải để
cho Đức Kitô đưa dẫn mình tới một cuộc khảo sát nghiêm túc lương tâm mình, nhờ
đó chúng ta có thể quay lưng lại với tội lỗi và được ngập tràn niềm vui. Rồi
chúng ta sẽ muốn chia sẻ cho người khác niềm vui về ơn cứu độ mà mình đã lãnh
nhận được nơi Đức Kitô.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
14-3
Hs
6,1-6; Lc 18,9-14.
LỜI
SUY NIỆM: Tôi nói cho các ông
biết: “người này khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn
người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống
sẽ được tôn lên.”
Chúa
Giêsu đưa dụ ngôn hai người cùng lên Đền Thờ cầu nguyện. Trong khi người
Pha-ri-sêu đứng thẳng người gần bàn thờ kể những công trạng của mình đã làm được,
kèm theo sự so sánh sự đạo đức của mình với người khác, lại còn lên án người
thu thuế. Trong khi đó người thu thuế chỉ biết sấp mình không dám ngước mặt
lên, đấm ngực thống hối: xin Chúa thương xót con, đến ba lần, mong được ơn tha
thứ, và Chúa đã kết luận: người thu thuế khi trở về sẽ nên công chính còn người
kia thì không. Điều này, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng đang đánh thức mọi tín hữu
trước mỗi khi đi tham dự Thánh lễ, phải nhận mình đang là tội nhân trước mặt
Chúa và anh em mình, với một tâm hồn thật sự sám hối để nhận được tình thương
tha thứ của Thiên Chúa và được làm hòa với anh em mình.
Lạy
Chúa Giêsu, dẫn vào Thánh lễ đều có phần sám hối; trước phần ngôn lễ cũng có phần
cầu xin lòng thương xót của Ba Ngôi Thiên Chúa, và trước phần hiệp lễ cũng có
hai lần xin Chúa thương xót và một lần xin ơn bình an để được Rước Lễ nên. Xin
cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn ý thức thật sự khi đọc những lời
sám hối này, để được Chúa yêu thương tha thứ và cùng cám ơn nhau trong lời nguyện
xin này.
Mạnh
Phương
14
Tháng Ba
Tôi Muốn Con Tôi Sống
"Tôi
muốn con tôi sống" đó là lời của bà Suzanna Petrosyan đã thốt ra và được
báo chí nhắc lại. Thực ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống
đâu? Thế nhưng trường hợp của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà không
giống như những trường hợp của nhiều bà mẹ khác, vì hai mẹ con bà này là nạn
nhân của cơn động đất khủng khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Xô Viết hồi tháng
12 năm 1987.
Sau
khi động đất, cũng giống như hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà Petrosyan đều
bị lấp vùi dưới hàng trăm ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ may mắn nằm lọt
vào trong một khoảng trống nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi. Tất cả lương thực
họ có chỉ là một hũ mứt và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó, cô gái
4 tuổi mới kêu: "Mẹ ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước". Nhưng lấy
nước đâu bây giờ? Tiếng kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa đau lòng
vừa lúng túng. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo:
đó là lấy những giọt máu cuối cùng của bà cho con uống để cầm cự với tử thần.
Lúc đó, người mẹ đáng thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính bể.
Bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo con
mút. Em bé mút ngón tay của mẹ một lúc rồi nói: "Mẹ cắt một ngón tay nữa
cho con mút thêm". Bà liền cắt một ngón tay nữa nhưng vì trời lạnh quá nên
bà không thấy đau đớn gì nữa... Sau khi được cứu sống, người đàn bà thuật lại rằng:
"Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống".
Tấm
gương hy sinh cao cả của bà mẹ trên đây có thể gợi lên Tình Yêu của Ðấng đã
nói: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì
người mình yêu".
Cũng
giống như một người mẹ sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để cho đứa con
được sống. Chúa Giêsu cũng đã hy sinh chính mạng sống của mình cho con người được
sống. Sự sống thần linh mà Chúa Giêsu muốn thông ban cho con người cũng chính
là tình yêu của Ngài. Chịu treo trên thập giá, đổ ra cho đến giọt máu cuối
cùng, Chúa Giêsu chỉ muốn cho con người được sống và sống trong tình yêu. Ai sống
trong tình yêu, người đó đang sống thực sự, bởi vì người đó đang sống trong
Chúa.
Nhờ
phép Rửa Tội, người Kitô chúng ta đang sống bằng sự sống của Thiên Chúa. Ðó là
kết quả của những giọt máu của Ðấng đã chịu chết vì chúng ta trên thập giá...
Những giọt máu thần linh ấy một cách nào đó, đang châu lưu trong chúng ta. Máu
ngừng chảy, máu không châu lưu, tình yêu không được san sẻ cho người khác, cũng
sẽ làm cho con người chết khô cằn... Bao lâu chúng ta khước từ không san sẻ
tình yêu cho người khác, chúng ta cũng chối bỏ chính tình yêu của Chúa.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét