Ngày 11 tháng 6
Lễ Thánh Barnaba, Tông
Ðồ
Lễ Nhớ
Bài
Ðọc I: Cv 11, 21b-26; 13, 1-3
"Họ
cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh
Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc ơn
Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi
Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người
đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa
Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần
chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đệ lần đầu tiên nhận tên là
"Kitô hữu".
Bấy
giờ trong hội thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có
Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua
Hêrôđê lúc còn thư ấu, và Saolô.
Ðang
khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các
ông rằng: "Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã
chỉ định". Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn
đưa hai ông lên đường.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 97, 1. 2-3a. 3cd-4. 5-6
Ðáp: Chúa đã công
bố ơn cứu độ trước mặt chư dân (c. 2a).
Xướng:
1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng.
Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. -
Ðáp.
2)
Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người
đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối nhà Israel. - Ðáp.
3)
Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa
chúng tôi. Toàn thể địa cầu hãy hân hoan mừng Chúa, hãy vui mừng hoan lạc và
đàn ca. - Ðáp.
4)
Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm thụ, với đàn cầm thụ, với nhạc cụ râm ran: Hãy thổi
sáo và rúc tù và, hân hoan trước thánh nhan Chúa là Vua. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Chúng con ca ngợi Thiên Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa; lạy Chúa,
ca đoàn vinh quang của các Tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 10, 7-13
"Các
con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy đi rao giảng rằng:
Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại,
hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận
nhưng không thì hãy cho nhưng không.
"Các
con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem
theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì
ở lại đó cho tới lúc ra đi.
"Khi
vào nhà nào, các con hãy chào rằng: "Bình an cho nhà này". Nếu nhà ấy
xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng
đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với các con".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Người con có biệt tài
khuyên nhủ hay an ủi
Hôm
nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông đồ. Là một người Do Thái sinh trưởng tại
đảo Sýp vào khởi đầu của đạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc
Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn.
Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân được
các thánh tông đồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là "người con có biệt
tài khuyên nhủ hay an ủi". Sau khi trở lại, thánh Phaolô đến Giêrusalem,
nhưng cộng đoàn tín hữu tại đây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.
Chính
thánh Barnaba là người đứng ra bảo đảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông
đồ, nhưng sau đó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều
năm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông đồ sai Barnaba đến
Antiokia để điều tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng
Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba đã nhận ra ngay ơn Chúa trong công việc của
thánh Phaolô. Ðây là lý do để nối kết hai người lại với nhau trong cánh đồng
truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một
năm. Một trận đói lớn đã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô đã quyên góp để
mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang
theo một người bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị thánh sử tương lai.
Từ
Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên đường đi đến đảo Sýp, quê hương
của Barnaba và từ đó sang Tiểu Á. Tại một trạm đầu tiên ở Tiểu Á, Marcô đã chia
tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt đầu những trạm truyền giáo cam
go nhất. Mỗi một bước đi là mỗi một lần bị chống đối và bách hại từ phía những
người Do Thái. Những người này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông đồ.
Tại
Líttra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một người tàn tật, dân thành xem các
ngài như những vị thần. Họ định giết bò để tế cho các ngài nhưng liền sau đó bị
người Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị
gây thương tích. Dù bị chống đối và bách hại, hai vị tông đồ vẫn hoán cải được
nhiều người cũng như tổ chức được giáo đoàn. Bị người Do Thái và dân ngoại chống
đối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khăn ngay cả từ phía cộng đoàn
Giêrusalem. Vấn đề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị
thánh này đã tranh đấu và cuối cùng đã tìm được giải pháp trong cộng đoàn
Giêrusalem.
Về
sau, trong chuyến đi trở lại để viếng thăm các cộng đoàn, Barnaba và Phaolô đã
chia tay nhau mỗi người một ngả. Barnaba đi với Marcô đến Sýp; Thánh Phaolô
cùng với một người môn đệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những năm tháng còn lại của
Barnaba không còn được nhắc đến nữa. Nhưng cũng như thánh Phaolô, thánh Barnaba
vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma,
Marcô đã trở thành môn đệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.
Theo
truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục đầu tiên của thành Milanô. Dù thế
nào đi nữa, tất cả mọi truyền thuyết đều gặp nhau trong cùng một điểm là xem
Barnaba như con người được mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô đầu tiên. Trong
sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con người tốt, đầy tràn
Chúa Thánh Thần. Thái độ của ngài đối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim
nhân hậu và đại lượng.
Veritas Asia
Thứ
Năm sau Chúa Nhật 10 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 3, 15 - 4, 1. 3-6
"Thiên
Chúa chiếu sáng trong lòng chúng ta, hầu làm sáng tỏ sự hiểu biết về vinh quang
của Người".
Trích
thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, cho đến nay, mỗi lần đọc sách Môsê, vẫn còn có cái màn che lòng
con cái Israel. Nhưng khi người ta đã trở lại cùng Chúa, màn ấy mới được cất
đi. Chúa là Thần linh, và ở đâu có Thần linh Chúa, thì ở đấy có tự do. Phần
chúng ta hết thảy, không màn che mặt, chúng ta phản ảnh vinh quang của Chúa, được
biến hoá giống hình ảnh Chúa, từ vinh quang này đến vinh quang khác, xứng với
tác động của Thần Linh Chúa.
Bởi
thế, đảm nhiệm việc phục vụ do lòng thương xót chúng tôi đã được hưởng, chúng
tôi không ngã lòng. Nếu Phúc Âm chúng tôi còn ẩn khuất, thì cũng chỉ ẩn khuất
cho những ai hư mất, cho những ai không tin, vì thần thế gian này đã làm cho
tâm trí họ trở thành mù quáng, khiến họ không còn thấy sáng chói Phúc Âm của
vinh quang Ðức Kitô, Người là hình ảnh của Thiên Chúa. Thật vậy, chúng tôi
không rao giảng bản thân chúng tôi, nhưng rao giảng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng
tôi: chúng tôi chỉ là tôi tớ anh em vì Ðức Giêsu, bởi Thiên Chúa, Ðấng đã phán:
"Sự sáng hãy từ bóng tối toả ra", chính Người chiếu sáng trong lòng
chúng ta, hầu làm sáng tỏ sự hiểu biết về vinh quang của Người trên tôn nhan của
Ðức Giêsu Kitô.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14
Ðáp: Vinh quang
Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi (c. 10b).
Xướng:
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ
phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa,
để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.
2)
Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau
âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.
- Ðáp.
3)
Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông
trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước
của Người. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 29
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy
sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 5, 20-26
"Bất
cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính
hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
"Các
con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ
bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ
với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc",
thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa
địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có
điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với
người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ
thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà,
quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho
con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối
cùng!"
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Sự
thánh thiện đích thực
Chân
phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản
và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như
sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt
nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng
con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ
không còn hình tượng con người nữa.
Mang
đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
-
Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người
đàn bà trả lời:
-
Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt
mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello
tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
-
Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người
đàn bà liền nói:
-
Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ
rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.
Ngạc
nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
-
Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người
đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
-
Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu
nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả
những ai giúp đỡ trung tâm này.
Chân
phước Marchello ngắt lời bà:
-
Bà không cầu nguyện cho bà sao?
Với
một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
-
Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh
phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
Thái
độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh
thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác
làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa,
một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi
người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một:
thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.
Chúa
Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một
mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt
Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện
là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không
màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với
những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ
tha nhân.
Ðả
phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa
Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề
luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người
đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và
Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống:
"Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ
chẳng được vào Nước Trời."
Quả
thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc
sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha
nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người,
nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính
là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui
và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một
vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?
Nguyện
xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc
đích thực trong yêu thương và phục vụ.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 10 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: 2 Cor 3:15-18,
4:1, 3-6; Mt 5:20-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải cảm nhận được
tình thương Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô.
Điều
quan trọng nhất trong cuộc đời này và sẽ tồn tại trong cuộc đời sau là tình yêu
Thiên Chúa. Các Bài Đọc hôm nay mở mắt cho chúng ta thấy những hậu quả tốt lành
khi một người có được tình yêu này. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô xác nhận tình
yêu Thiên Chúa, biểu tỏ cho con người qua Đức Kitô, có khả năng biến đổi con
người thành tạo vật mới. Sau khi được thấm nhuần tình yêu này, con người sẽ biết
cách đáp trả thích đáng tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, và biết yêu thương tha
nhân như những người con của Chúa và như những chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ cụ thể là hậu quả của tình yêu Thiên
Chúa: người môn đệ Đức Kitô phải luôn biết tha thứ và sống hòa thuận với mọi
người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Khi người ta quay lại với Đức Kitô, tấm màn mới được cất đi.
1.1/
Con người phải tin vào Đức Kitô: Nếu chỉ tin vào Lề Luật của Moses, con người chỉ hiểu
vinh quang Thiên Chúa lờ mờ như qua một tấm màn, như Phaolô xác quyết: "Phải,
cho đến nay, mỗi khi họ đọc sách ông Moses, tấm màn vẫn che phủ lòng họ."
Điều này có lịch sử trong Sách Xuất Hành: vì dân Do-thái không thể chịu đựng được
khi Thiên Chúa tỏ uy quyền, nên họ xin Thiên Chúa nói với ông Moses, và ông sẽ
nói lại cho dân chúng. Sau khi Moses đàm đạo với Thiên Chúa và xuống núi để nói
với dân chúng, họ vẫn không thể nhìn mặt Moses vì vinh quang Thiên Chúa phản
chiếu trên mặt ông; nên Moses đã phải đeo một khăn che mặt để khỏi làm nhức mắt
dân chúng.
Tấm
màn này cũng có lịch sử trong Đền Thờ để phân chia nơi Thánh và nơi Cực Thánh,
là nơi Thiên Chúa ngự. Không ai có thể vào nơi Cực Thánh ngoại trừ Thầy Thượng
Tế, ông chỉ được vào đó mỗi năm một lần trong Ngày Yom Kippur. Khi Chúa Kitô
trút hơi thở trên Thập Giá, bức màn này trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống
dưới. Tác giả Thư Do Thái chú giải: Nhờ Đức Kitô, từ nay con người có thể trực
tiếp đến với Thiên Chúa mà không cần phải đợi tới ngày Yom Kippur, và cũng chẳng
cần vào Đền Thờ tại Jerusalem.
Thánh
Phaolô ví khi con người đọc Cựu Ước mà không nhận những mặc khải của Đức Kitô,
như đọc sách qua một tấm màn; họ chỉ có thể hiểu lờ mờ những mầu nhiệm và vinh
quang của Thiên Chúa. Nhưng nếu họ tin vào những mặc khải của Đức Kitô, bức màn
này sẽ bị lấy đi, và họ có thể hiểu rõ ràng các mầu nhiệm và vinh quang của
Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác quyết với các tín hữu: ''Tất cả chúng ta, mặt
không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy,
chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ
hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.''
1.2/
Khó khăn của người môn đệ khi rao giảng về Đức Kitô: Chinh phục tha nhân
về cho Thiên Chúa là công việc rất khó khăn và đòi hỏi người môn đệ phải kiên
nhẫn, vì họ phải đối phó với quyền lực của ác thần và của thế gian. Thánh Phaolô
tường thuật kinh nghiệm của Ngài: "Tin Mừng chúng tôi rao giảng có bị che
khuất, thì chỉ bị che khuất đối với những người hư mất, đối với những kẻ không
tin. Họ không tin, vì tên ác thần của đời này đã làm cho tâm trí họ ra mù
quáng, khiến họ không thấy bừng sáng lên Tin Mừng nói về vinh quang của Đức
Kitô, là hình ảnh Thiên Chúa."
Tuy
nhiên, người môn đệ phải xác tín: Quyền lực của Đức Kitô có thể thắng vượt mọi
quyền lực của ác thần và của thế gian. Nếu người môn đệ thành tâm, yêu thương,
có đủ kiên nhẫn, và luôn sống kết hiệp với Đức Kitô, Thiên Chúa sẽ ban những ơn
cần thiết để giúp ông chinh phục con người về cho Ngài.
2/
Phúc Âm:
Phải ăn ở công chính hơn các kinh sư và luật sĩ để được vào Nước Trời.
Môn
đệ của ai phải nói và hành động như môn đệ của người ấy. Người môn đệ của Đức
Kitô cũng phải nói năng và hành động theo những gì Đức Kitô dạy. Trình thuật
hôm nay nêu bật hai đặc điểm chính là hậu quả khi con người đã cảm nhận được
tình yêu Thiên Chúa.
2.1/
Không được giận dữ với tha nhân: Chúa Giêsu phân biệt đòi hỏi của Lề Luật và của tình
yêu; đồng thời Ngài cũng thách đố các môn đệ phải sống theo đòi hỏi của tình
yêu, những điều mà Lề Luật không thể đạt tới: "Anh em đã nghe Luật dạy người
xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy
bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh
em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh
em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt."
Lề
Luật không thể kết tội những gì xảy ra bên trong con người vì không nhìn thấy
những điều đó. Lề Luật cũng không kết tội khi con người chửi mắng người khác,
vì đó là những cảm xúc nhất thời của con người. Lề Luật chỉ kết tội con người
khi có bằng chứng rõ ràng như giết người, gây thương tích thân xác hay tài sản
... Ngược lại, đối với Thiên Chúa, Ngài có thể thấu hiểu bên trong tâm hồn mỗi
người và biết rõ những thiệt hại cho cả người làm lẫn người bị xúc phạm; nên
Ngài đòi hỏi các môn đệ phải đi xa hơn trong tiến trình nên trọn lành.
2.2/
Phải ăn ở thuận hòa với mọi người: Chúa Giêsu nêu ra hai lý do người môn đệ phải sống
hòa thuận với mọi người:
(1)
Mối liên hệ với Thiên Chúa không thể tách rời khỏi mối liên hệ với tha nhân:
Theo truyền thống Do-thái, mỗi khi vô tình phạm tội, hối nhân phải dâng lễ vật
để xin Thiên Chúa tha thứ cho những tội đã phạm. Trường hợp liên quan tới mối
liên hệ với con người, họ phải làm hòa với nhau trước khi có thể giao hòa với
Thiên Chúa. Thần học về Bí-tích Giải Tội cũng đòi hối nhân phải tha thứ cho người
xúc phạm đến mình như Thiên Chúa đã tha thứ cho hối nhân.
(2)
Ăn ở hài hòa giúp con người tránh được những nhức đầu trong cuộc sống: Cha ông
chúng ta vẫn dạy "dĩ hòa vi quí;" người hiền lành sẽ được mọi người
thương mến. Ngược lại, những người khó chịu, cau có, sẽ chuốc cho mình những
ghen ghét, tranh tụng, và mất bình an. Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: ''Anh hãy
mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa
công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và
anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước
khi trả hết đồng xu cuối cùng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa trước khi có thể đáp trả lại,
và yêu thương tha nhân như Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
-
Chúng ta có được tình yêu Thiên Chúa là qua sự kết hiệp và ở lại trong Đức
Kitô. Nếu không có Đức Kitô, chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa và tha nhân
như được đòi hỏi.
-
Để đáp ứng ơn gọi làm môn đệ của Đức Kitô, chúng ta không phải chỉ giữ những Lề
Luật bên ngoài, mà còn phải luôn đối xử với nhau bằng tình yêu Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Suy niệm: Chúa
đòi buộc các tông đồ phải rao giảng lời của Chúa, để lời của các tông đồ rao
giảng phải là lời của Thiên Chúa và phải được đón nhận như lời của Thiên Chúa.
Trong Giáo Hội tiên khởi, thánh Phao-lô cho biết, các tín hữu đầu tiên đã ý
thức và đón nhận lời các tông đồ rao giảng “không phải như lời người phàm,
nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy” (1Th 2,13). Vì thế, khước từ lời rao giảng Tin
Mừng của các tông đồ cũng là khước từ lời rao giảng của Chúa Giê-su và khước từ
những người Chúa Giê-su sai đến là khước từ chính Chúa Giê-su. Người ta không
thể ngụy biện rằng, chúng tôi tin Chúa Giê-su và nghe lời Ngài, nhưng chúng tôi
không nghe lời các tông đồ Chúa sai đến. Lối ngụy biện đó không có đất sống, vì
lời Chúa đã nói: “Ai nghe các con là nghe Thầy ;
và ai khước từ các con là khước từ Thầy ; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng
đã sai Thầy” (Lc
10,16). Chính vì tầm quan trọng của lời rao giảng, các tông đồ được đòi hỏi
phải trung thành với lời Chúa hơn.
Mời Bạn: Những
lời rao giảng và khuyên bảo của các linh mục được bạn và gia đình đón nhận như
thế nào? Như lời của Thiên Chúa hay như lời người phàm? Nghe những lời Chúa dạy
hôm nay, bạn quyết tâm thực hiện điều gì?
Sống Lời Chúa: Lắng
nghe lời các linh mục giảng dạy hay khuyên bảo và cám ơn Chúa đã gởi các linh
mục đến coi sóc, chỉ bảo.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con có lòng kính trọng các linh mục và cầu
nguyện cùng cộng tác với các ngài lo việc tông đồ như cộng tác với Chúa vậy.
Nước Trời đã đến gần
Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách
đây hai ngàn năm. Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an.
Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm.
Suy niệm:
Chúng ta không rõ Thầy Giêsu
đã sai các môn đệ lên đường
sau thời gian họ sống với
Ngài bao lâu.
Nhưng chúng ta biết chắc là
Thầy có sai các môn đệ.
Thầy sai họ đi để làm những
việc Ngài đã và đang làm (Mt 9, 35),
như rao giảng Tin Mừng về
Nước Trời, chữa bệnh, trừ quỷ (c. 8a).
Như thế họ trở nên những
cộng sự viên của Ngài trong cùng một sứ vụ.
Thầy Giêsu không độc quyền
trong công việc.
Ngài cũng không giữ riêng
cho mình quyền trên các thần ô uế (Mt 10,1).
Việc chia sẻ quyền và mời
gọi cộng tác đã có từ thời Thầy Giêsu,
và vẫn kéo dài trong Giáo
Hội.
Lời dặn dò của Đức Giêsu
trước khi sai họ đi đã đánh động nhiều tâm hồn,
đặc biệt những vị sáng lập
các dòng tu.
Đặt mình vào bối cảnh vùng
Galilê cách đây gần hai mươi thế kỷ,
chúng ta mới hình dung được
khuôn mặt của những vị tông đồ đầu tiên.
Trước hết họ được sai đến
với chính đồng hương của họ,
“những chiên lạc nhà
Israel”, vất vưởng không người chăn dắt (Mt 9, 36).
Loan báo Tin Mừng là lên
đường, đường đất đá hay đường núi đồi,
và đi bằng đôi chân của
mình, không giày dép.
Những bước chân nhẹ nhàng vì
hành trang chẳng có gì.
Thắt lưng chẳng mang tiền
vàng, bạc, đồng, để dùng khi hữu sự.
Cả những điều một người lữ
hành thường có cũng không:
một bao bị, một cái áo dự
phòng, một cái gậy để chống khi đi đường xa.
Người tông đồ được đặt ở
trong tình trạng bấp bênh, không chỗ dựa.
Chỗ dựa duy nhất của họ là
lòng tốt của Thiên Chúa,
được thể hiện qua lòng tốt
của người đón nghe Tin Mừng.
Chuyện ăn, chuyện ở, họ đều
phải tin tưởng phó thác (cc. 10b. 11).
Hành trang nhẹ nhàng, tâm
hồn nhẹ nhàng,
nên các tông đồ cũng thi
hành sứ vụ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát.
Họ làm mọi sự mà chẳng đòi
hỏi gì (c. 8b).
Vừa rao giảng Tin Mừng rằng
Nước Trời đã đến rồi,
vừa minh chứng Tin Mừng ấy
bằng bao niềm vui đem đến cho người khác.
Bệnh nhân được khỏi, người
chết sống lại, người phong được sạch,
và nhất là ma quỷ không còn
chỗ cư ngụ trong lòng con người (c. 8a).
Bình an là lời chúc trên môi
dành cho mọi căn nhà họ đến ở (c. 12).
Rõ ràng hành trình truyền
giáo là một kinh nghiệm đầy ắp niềm vui hứng khởi,
cho đoàn chiên và cho chính
các tông đồ.
Nếu Thầy Giêsu dặn dò các
tông đồ hôm nay, Ngài sẽ nói gì?
Ngài sẽ bảo chúng ta đừng
mang gì và nên làm gì cho con người hôm nay?
Chắc Ngài cũng sẽ khuyên hãy
nhẹ nhàng hơn, phó thác hơn, vô vị lợi hơn.
Thế giới hôm nay vẫn yếu đau
và bị ám như cách đây hai ngàn năm.
Thế giới hôm nay vẫn chờ một
Tin Vui, một lời chúc Bình an.
Chúng ta vẫn được mời gọi để
làm điều Ngài và các môn đệ đã làm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả
năng bản thân
hay vào những phương tiện
trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm
đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm
được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về
một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ,
bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể
xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá
nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm
lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11
THÁNG SÁU
Biết
Phân Định Tốt Xấu
Con
người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa”; mầu nhiệm này còn được
trình bày trong các sách khác của Thánh Kinh. Chẳng hạn, ta đọc thấy trong Sách
Huấn Ca: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người… rồi lại đưa con người trở về đất.
Người cho nó quyền thống trị vạn vật trên mặt đất. Người mặc cho nó sức mạnh
tương xứng với mình, và theo hình ảnh mình mà làm ra nó. Người phú bẩm cho mọi
xác phàm lòng kính sợ Người, để chúng thống trị muôn chim cầm thú. Người ban
cho chúng trí khôn, luỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Người làm cho
chúng đầy kiến thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Người đặt
con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người
… Người còn ban kiến thức cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống;
Người đã lập với chúng một giao ước muôn đời, và tỏ cho thấy những điều Người
phán quyết” (Hc 17,1. 2b – 7. 9 – 10).
Cần
phải suy niệm thật kỹ bản văn phong phú và sâu sắc trên của Sách Huấn Ca. Hãy
ôm ấp những lời ấy trong lòng mình và hãy xích lại gần hơn với Thiên Chúa.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
11-6
Thánh
Barnaba, tông đồ
LỜI
SUY NIỆM: “Anh em đã được cho không, thì
cũng phải cho không như vậy”
Trong
cuộc sống của chúng ta, suy cho cùng, thì mỗi người đã nhận được biết bao ơn lớn
nhỏ của Chúa một cách nhưng không; như là trí tuệ, sức khỏe, khôn ngoan...,
nhưng phần đông trong chúng ta đã không nhận ra, mà cứ tưởng những khả năng mà
mình đang có, là do trí óc, sức lực và sự khôn ngoan, khéo léo của riêng mình
mà có được; rồi khi dùng những cái “có” đó, mà phục vụ người khác, lại đòi hỏi
sự trả ơn của người thụ ơn. Lời Chúa đang đánh thức mỗi người hãy xem xét lại,
để nhận ra, là mình đã được lãnh nhận “nhưng không” từ nơi Chúa những gì? thì
phải trao lại cho người khác cũng cách “nhưng không” như vậy.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúng con tất cả đều yếu đuối và thường là kẻ vô ơn đối với Chúa và
với anh em. Xin cho chúng con được ơn của Chúa, để nhận ra tất cả những gì
chúng con đang có, đang hưởng là do ơn ban nhưng không của Chúa; mà tạ ơn Chúa.
Và biết trao lại một cách nhưng không cho những người đang cần, đang sống chung
quanh, để cùng nhau chúc tụng, tạ ơn Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
11-06: Thánh BARNABA TÔNG ĐỒ
Thánh
Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách công vụ
tông đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn
sách. Ngài là một người Do thái được sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong
Giáo hội sơ khai ở Giêrusalem.
Chính
ở địa vị này mà khoảng năm 39 tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các
tông đồ (Cv 9-27). Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn
cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này
rất quan trọng, chỉ kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân. Một
lần nữa, cùng với Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi
về cho Giáo hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được Gioan Maccô
là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn.
Ba
người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14). Từ đây
Barnaba dần dần ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhưng chính Saolê
dưới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc âm. Phaolô và đoàn tùy tùng
lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba
được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes.
Đây
là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau Phaolô trở về
và được cộng đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo trong chuyến hành
trình (Cv 15,1-35). Nămsau, dự định hành trình truyền giáo thư hai có sự tranh
chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành
khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên
Ngài không còn được nhắc đến trong sách Công vụ nữa. Trong việc trao đổi thư từ
của Phaolô với Giáo hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống
(1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Roma (2Tm4). Sự kiện này
cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
Một
truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới
Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là giám mục tiên khởi. Một truyền
thống đáng tin hơn cho biết Ngài chết vì ném đá ở Salamis,sinh quán của Ngài.
Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc âm thánh Barnaba và của một tác
phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhưng những tài liệu này
không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công vụ các tông đồ.
Cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào thơ mục thánh kinh,
nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do thái theo Kitô giáo ở
Alexandria.
Người
ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc
âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay.
(daminhvn.net)
11
Tháng Sáu
Kẻ Tháo Ðinh
Một
trong những chi tiết trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục gợi hứng
cho các họa sĩ: đó là việc hạ xác Ngài xuống khỏi Thập giá. Tin Mừng theo thánh
Gioan ghi lại việc ông Nicôđêmô và một người môn đệ kín đáo khác của Chúa Giêsu
tên là Giuse Arimahtia đã đến xin phép Philatô được tháo gỡ xác Ngài xuống khỏi
Thập giá. Trong hầu hết các bức tranh mô tả biến cố này, người ta đều thấy hình
ảnh tiều tụy, không còn hình tượng của Chúa Giêsu mà hai người môn đệ đỡ xuống
khỏi thập giá. Một người tháo đinh ra khỏi tay Ngài, còn một người thì tháo
đinh ra khỏi chân Ngài.
Một
họa sĩ nọ, thay vì vẽ lại chân dung của hai người môn đệ của Chúa Giêsu đã chọn
những khuôn mặt của thời đại ông. Và người tháo đinh ra khỏi bàn chân của Chúa
Giêsu không ai khác hơn là chính ông. Khi được hỏi lý do tai sao ông lại đồng
hóa mình với một trong hai người môn đệ, nhà họa sĩ đã giải thích như sau:
"Những người như tôi rất thường đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Và những
đinh sắt tôi dùng để đóng đinh Chúa chính là tội lỗi của tôi. Ðã đến lúc, tôi cảm
thấy cần phải tháo gỡ chiếc đinh của tội lỗi ra khỏi thân xác của Ngài".
Chúng
ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: "Người chịu đóng đinh vào thập giá vì
chúng tôi". Ðiều đó có nghĩa là do tội lỗi của chúng ta, chúng ta góp phần
vào việc đóng đinh Ngài vào thập giá.
Thập
giá vẫn luôn mãi là một lời tố cáo, một bản án cho tội lỗi. Nhưng đó không chỉ
là một biểu tượng, mà là một hiện thực. Nếu Ðức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi
mãi vẫn là Một, nếu Ðức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người và nếu tội
lỗi là một chối bỏ, thì mỗi lần chúng ta phạm tội, chúng ta cũng chối bỏ chính
Ngài, chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá một lần nữa. Nếu Ðức Kitô vẫn tiếp tục
sống trong lịch sử con người, nếu Ngài tự đồng hóa với con người, nhất là những
kẻ khốn cùng, những kẻ thấp hèn nhất trong xã hội, thì mỗi một lần chúng ta khước
từ hay xúc phạm đến người anh em, là mỗi lần chúng ta chối bỏ Ngài và đóng đinh
Ngài vào thập giá. Qua mỗi người anh em của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục
bị chối bỏ và chịu đóng đinh.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét