Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2016

05-06-2016 : (phần I) CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN năm C

05/06/2016
Chúa Nhật tuần 10 thường niên năm C
(phần I)


Bài Ðọc I: 1 V 17, 17-24
"Ðây, con trai bà sống lại rồi đây".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, con trai bà chủ nhà đau liệt, cơn bệnh nguy kịch đến nỗi chẳng còn hơi thở. Bà ấy liền nói với Êlia rằng: "Thưa người của Thiên Chúa, giữa tôi với ông có liên can gì? Ông đến nhà tôi để khơi lại những tội của tôi và giết chết con tôi sao?" Êlia đáp lại: "Bà hãy giao con bà cho tôi". Rồi ông bế lấy đứa trẻ từ lòng mẹ nó, mang lên trên lầu nơi ông cư trú và đặt nó lên giường ông. Ðoạn ông kêu lên cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, cớ sao Chúa giáng hoạ, giết con trai bà chủ nhà, nơi con cư ngụ đây?" Ông ấp mình ba lần trên đứa trẻ và kêu lên cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con xin Chúa cho linh hồn đứa trẻ này trở về trong nó". Và Chúa nhậm lời Êlia, cho hồn nhập lại đứa trẻ, và nó sống lại. Êlia liền ẵm đứa trẻ xuống nhà dưới, trao lại cho mẹ nó và nói rằng: "Ðây, con trai bà sống lại rồi đây". Bà ta thưa cùng Êlia rằng: "Bây giờ nhờ việc này, tôi biết rõ ông là người của Thiên Chúa, và lời của Chúa nơi miệng ông là lời chân thật".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11-12a và 13b.
Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con; lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Gl 1, 11-19
"Người đã mạc khải cho tôi biết Con của Người, để tôi rao giảng Người cho dân ngoại".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, tôi cho anh em biết rằng Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận, cũng không học với loài người, nhưng là do Ðức Giêsu Kitô mạc khải. Anh em nghe nói về đời sống của tôi trước kia khi theo đạo Do-thái: tôi đã bắt bớ và phá hoại Hội thánh của Thiên Chúa thái quá. Trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi.
Nhưng khi Ðấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, đã thương mạc khải Con Người trong tôi, để tôi rao giảng Ngài trong các dân ngoại, thì không lúc nào tôi bàn hỏi người xác thịt máu huyết, và tôi không lên Giêrusalem, để gặp các vị làm tông đồ trước tôi, nhưng tôi đi ngay đến Arabia, rồi lại trở về Ðamas. Ðoạn ba năm sau, tôi mới lên Giêrusalem để gặp Phêrô, và lưu lại với ông mười lăm ngày. Tôi không gặp một tông đồ nào khác, ngoài Giacôbê, anh em của Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 7, 11-17
"Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia, và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Ðừng khóc nữa". Ðoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó. Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Thiên Chúa Ðã Viếng Thăm Dân Của Người
Tiên tri Êlya đã làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Ðức Giêsu Kitô cũng đã làm phục sinh người thanh niên con bà góa thành Naim. Nhưng hai câu chuyện, hai cách thức làm cho kẻ chết sống lại khác nhau làm sao!
Tuy nhiên phụng vụ Lời Chúa hôm nay không muốn so sánh Êlya với Ðức Giêsu. Phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về mặt đạo đức. Và bài học của phụng vụ nằm trong cả ba bài đọc. Không tất nhiên ba bài Kinh Thánh đều nói lên một ý; nhưng đọc kỹ chúng ta vẫn có thể nhận ra một chủ đề nào đó với nhiều ý tưởng phụ xoay quanh. Chủ đề ấy chúng ta sẽ dễ thấy nổi lên sau khi đọc lại các bài Kinh Thánh vừa nghe.

1. Tôi Biết Là Người Của Thiên Chúa
Bài sách Các Vua thuật lại một câu chuyện trong cuộc đời của tiên tri Êlya. Chúng ta chẳng có một sách tiểu sử đầy đủ nào về nhà tiên tri này. Sách Các Vua quyển I kể nhiều chuyện về ông. Nhưng đó là những "mẩu" chuyển rời rạc không dính vào nhau để làm thành một cuốn tiểu sử. Câu chuyện hôm nay chẳng hạn. Người ta thường gọi là chuyện Êlya làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Nhưng như chúng ta vừa nghe, chẳng có chữ nào trong bài kể hôm nay nói rằng bà góa ấy ở thành Sarepta. Chỉ vì trước đó sách Các Vua kể rằng Êlya theo lệnh Chúa đi đến Sarepta và lưu lại ở đó. Ông đã gặp một bà góa đi mót củi. Ông xin bà cho bánh ăn và nước uống. Và bà ta có một đứa con. Tuy nhiên chẳng có gì chắc chắn khiến người ta có thể bảo bà góa con côi ấy cũng chính là mẹ góa con côi trong chuyện này. Ngược lại, chỉ cần lưu ý ít nhiều đến danh từ và cách kể, người ta thấy đây là hai chuyện khác nhau. Bà góa đi mót củi ở Sarepta không phải là "bà chủ nhà" trong câu chuyện này. Tiếng "bà chủ nhà" khiến người ta phải nghĩ đến một mệnh phụ quí phái hơn người đàn bà đi mót củi. Và nhất là cuộc đối thoại giữa bà chủ nhà với nhà tiên tri trong câu chuyện hôm nay cho thấy giữa hai người dường như chưa hiểu nhau. Ðang khi bà góa ở Sarepta đã hiểu biết nhà tiên tri rồi.
Ðằng khác, ai hiểu biết Kinh Thánh có thể nhận ra ngay rằng câu chuyện kể trong sách Các Vua quyển II về tiên tri Êlya. Ông này cũng làm cho con một bà lớn ở Shumen sống lại. Do đó có người nghĩ câu chuyện kể hôm nay đã được môn đồ của Êlya viết thêm vào cuộc đời của Êlya làm cho nhà tiên tri này sáng giá hơn.
Quả thật, dường như đây là mục đích của chính bài tường thuật hôm nay. Người muốn viết cho mọi người biết Êlya là người của Thiên Chúa. Thoạt tiên bà góa kia cũng như hầu hết các người đồng thời không biết như vậy. Họ thấy Êlya là người khác thường. Họ biết ông có một nhiệt tình lạ lùng đối với Giavê. Luôn luôn ông kêu gọi người ta sống trung thành với giao ước và đừng thờ một thần nào khác ngoài Giavê. Lắm lúc ông đe dọa người ta những hình phạt khủng khiếp. Kể cả vua Israen thời bấy giờ. Nhà vua tránh né Êlya chỉ sợ gặp lại phải nghe các đòi hỏi của Thiên Chúa và các hình phạt theo sau nếu nhà vua không đáp ứng những đòi hỏi kia.
Do đó người ta sợ Êlya hơn là muốn nghe theo ông. Người ta chưa chắc ông là người của Thiên Chúa. Nói đúng hơn, vì yếu đuối và sợ các đòi hỏi của tôn giáo chân thật, người ta chưa muốn công nhận ông là người của Thiên Chúa.
Chính vì Êlya khiến người ta sợ hơn là lôi cuốn được hạ theo mình, nên khi Êlya ở tại nhà bà góa kia mà con bà bị bệnh chết, thì bà ta đã đổ tội cho nhà tiên tri. Bà nói: Ngài và tôi có việc gì (với nhau) mà ngài lại đến tôi để hạch tội tôi và làm con tôi chết? Nhà tiên tri bị buộc tội như vậy chẳng biết làm gì hơn để giải oan là xin lấy xác đứa con để làm sao cho nó sống lại.
Chúng ta thấy ông nằm dài trên đứa trẻ ba lần, khác nào như làm phù phép. Nhưng rõ ràng không phải cử chỉ và hành động này đã làm cho đứa trẻ sống lại, nhưng là lời Êlya cầu nguyện xin Thiên Chúa cho hồn vía đứa trẻ trở về lại mình nó. Chính lời cầu nguyện này đã kéo Êlya ra khỏi cảnh lúng túng và đem sự kiện lạ lùng này mà bà chủ nhà cũng như mọi người sẽ nghe biết chuyện mới thấy rõ Thiên Chúa ở với Êlya và ông thật là người của Thiên Chúa.
Do đó câu chuyện này xảy ra để giúp Êlya. Chủ ý của người viết là làm sáng giá cho nhà tiên tri. Tuy nhiên câu chuyện cũng dạy dân Do Thái một bài học: Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Và chết chưa phải là hết. Nếu người ta tin vào Chúa và biết cầu xin với Người thì Người có thể làm cho con người sống lại. Một niềm tin như thế đòi hỏi ta phải biết sống như thế sẽ có sự phục sinh. Ai không thấy đó là một mạc khải lớn lao và đầy hy vọng cho con người, nhất là ở thời xa xôi và tại những nơi chưa có lời giảng dạy chắc chắn nào về đời sau. Riêng đối với chúng ta, cần nhờ câu chuyện trong bài sách Các Vua hôm nay để hiểu hơn về bài Tin Mừng trong thánh lễ này.

2. Thiên Chúa Ðã Viếng Thăm Dân Của Người
Người ta có thể nói tác giả Luca đã vay muộn một số nét của bài kể trong sách Các Vua. Nhưng những điểm dị đồng đáng để ý hơn nhiều, nhất là chủ ý của hai tác giả rất khác nhau.
Luca thuật lại một câu chuyện đã xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, có đông đảo dân chúng chứng kiến, đang khi bài sách Các Vua chỉ tường thuật việc xảy ra trong nhà một mẹ góa con côi. Và như vậy có thể nói một việc đã xảy ra có hệ đến toàn dân, còn việc kia chỉ liên quan đến một gia đình, nếu không muốn nói là một người. Chúng ta hãy tạm bỏ câu chuyện xưa xảy ra thời Êlya, để chú ý đến việc xảy ra dưới thời Chúa Giêsu mà Luca đã thuật lại để nói rằng nó rất có hệ đến chúng ta thời bây giờ.
Hôm ấy Ðức Giêsu đi với môn đồ và đông đảo quần chúng đến một thành gọi là Naim. Người đi vào xã hội loài người vì theo Kinh Thánh "thành" là nơi loài người sinh sống. Và "thành" mà không có Chúa thường được ví như một góa phụ. Hơn nữa "bà góa" ấy không nuôi nổi con mình. Cố gắng của loài người không có thể làm cho con người được sống thật và sống đời đời.
Do đó khi Ðức Giêsu đến gần cửa thành, thì này người ta đang khiêng đi chôn đứa con gái của bà góa. Thật là não nuột. Có một đứa con mà bà góa vẫn không giữ được. Xã hội loài người cũng bất lực bó tay. Dân chúng trong thành chỉ biết đi chôn đứa con với bà.
Người thường, nếu nhìn thấy cũng chỉ biết cảm thông. Ðức Giêsu thì khác, Người đi vào thế gian là để cứu sống nên tác giả Luca viết: "Chúa chạnh lòng thương". Lần đầu tiên trong tác phẩm của ông, Luca xưng Ðức Giêsu là "Chúa". Từ ngữ này, các tác giả Tân Ước chỉ dùng để nói về Người sau khi Người đã sống lại. Luca còn dùng kiểu nói "chạnh lòng thương" là kiểu nói chỉ dùng để nói về chính Thiên Chúa khi Người muốn biểu lộ tình thương cứu độ đối với dân Người. Như vậy trong câu nói vắn tắt kia, Luca đã nhìn thấy nơi Ðức Giêsu, chính Thiên Chúa đang muốn tỏ lòng thương cứu độ nhân loại khổ sở nằm chết trong tội lỗi. Hơn nữa tác giả còn ngầm ý bảo rằng: nơi Ðức Giêsu có sự phục sinh.
Thật vậy, ở đây Ðức Giêsu không cầu nguyện như Êlya. Người bảo bà góa đừng khóc lóc nữa. Người đụng đến quan tài. Các kẻ khiêng đứng lại tức khắc. Sao Người uy quyền như vậy? Người ta đã tin ở Người rồi, vì nếu không, các kẻ kia không dễ vâng lời như thế. Rồi Người truyền lệnh: "Thanh niên! Ta bảo ngươi hãy chỗi dậy". Và người chết ngồi chồm dậy và lên tiếng nói, (để làm chứng đã sống lại thật).
Phản ứng của mọi người là kinh sợ trước quyền và công việc Thiên Chúa. Thiên Chúa đang ở trước mặt họ. Người vừa cho họ thấy một biểu dương uy quyền của Người. Bà góa thành Sarepta thấy Êlya cầu nguyện mà làm cho con bà sống lại, thì nhận ra Êlya là người của Thiên Chúa nên được Chúa nhận lời, còn ở đây người ta thấy sự sống lại do chính Ðức Giêsu mà đến, nên Người là một tiên tri cao cả, và đúng hơn, Người là chính Thiên Chúa cứu độ mà loài người chết trong tội lỗi đang chờ đợi.
Do đó như các bài sách Các Vua đã muốn chứng tỏ Êlya là người của Thiên Chúa, thì bài Tin Mừng Luca muốn làm chứng Ðức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Nơi Người có sự phục sinh để làm cho loài người sống lại, nên Người là vị tiên tri cao cả và là Thiên Chúa đến viếng thăm dân của Người. Chúng ta hãy tin vào sức mạnh cứu độ của Người. Và điều này bài thư Phaolô cũng muốn làm chứng.

3. Thiên Chúa Ðã Mạc Khải Con Của Người Trong Tôi
Quả vậy, Phaolô viết thư cho người Galát để ít ra trong đoạn trích hôm nay - Xác minh mình là tông đồ chân chính. Trước đây người Galát vẫn tin như vậy. Nhưng nay có mấy người Do Thái đến đặt điều vu khống và dèm pha uy tín của người, để lôi kéo người Galát trở về với những tập tục Do Thái là cắt bì và giữ luật Môsê. Họ nói rằng Phaolô đã không được đặt làm tông đồ. Người đã làm việc tự ý. Tin Mừng người rao giảng không đáng tin.
Phaolô phản kháng mạnh mẽ. Trong đoạn văn này. Người khẳng định chính Thiên Chúa đặt người làm tông đồ, khi mạc khải Ðức Giêsu Kitô cho người. Quả vậy, xưa người không như thế. Người cũng chỉ biết đạo Do Thái và chỉ hơn đồng đạo ở điểm hăng say phục vụ.người đã tình nguyện đi bắt bớ và ra công triệt hạ Hội Thánh của Thiên Chúa. Tại đâu người đã thay đổi ra như ngày nay? Chính nhờ Thiên Chúa đã tách người ra ngay từ lòng mẹ và kêu gọi người. Phaolô ý thức ơn người đã được là do lòng thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã tuyển chọn và kêu gọi người như Giêrêmia ở đây để nói lên niềm tin ấy. Hơn nữa khi kêu gọi người, Thiên Chúa đã không mạc khải một sứ điệp, hoặc một sứ mệnh, như trong trường hợp các tiên tri. Thiên Chúa cho Phaolô biết Con của Ngài là Ðức Giêsu Kitô, để từ nay người phải rao giảng Ngài.
Do đó Phaolô không cần học với một ai. Chính Thiên Chúa đã dạy Phaolô biết Chúa Giêsu, biết tất cả các chân lý về Ngài và mọi điều phải rao giảng về Ngài. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác không cần thiết tuyệt đối theo nghĩa Phaolô phải cần học hỏi thêm với các ngài. Khi đã nhận được mạc khải của Ðức Giêsu Kitô và được đặt làm tông đồ rồi, người ta muốn nắm vững các chân lý của đạo. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác chỉ có ý nghĩa hiệp thông, duy nhất. Và nếu nó có làm giàu thêm cho kho tàng mạc khải mà mỗi người đã lãnh nhận, thì cũng chỉ là một sự soi sáng thêm để đi sâu hơn vào chân lý mà thôi. Phaolô không những được quyền lợi và vinh dự như mọi tông đồ; nhưng vì đã được mạc khải một cách đặc biệt và độc đáo, người còn xứng đáng được tôn vinh như một tông đồ độc hạng và kiệt xuất. Và được như vậy, một lần nữa người ta nên biết, là tự người đã được ơn hiểu biết Chúa Giêsu Kitô một cách phi thường. Do đó, hiểu biết Chúa Giêsu Kitô là điều quan trọng và quan trọng hơn hết. Bài Tin Mừng đã muốn làm cho người ta được sự hiểu biết này. Bài thư Phaolô làm chứng khi sự hiểu biết này sâu sắc đặc biệt, thì người ta cũng được chọn một cách đặc biệt. Vinh dự và hạnh phúc của người ta vượt xa sự sung sướng của bà góa thành Sarepta khi hiểu biết tiên tri Êlya.
Chúng ta tự nhiên muốn được sự hiểu biết này. Hội Thánh muốn giúp đỡ chúng ta không ngừng. Ðặc biệt trong các thánh lễ. Phụng vụ Lời Chúa là một mạc khải liên tục về Chúa Giêsu Kitô. Và nhất là Bí tích cử hành nơi bàn thờ. Tại đây Chúa Giêsu Kitô không muốn cho chúng ta gặp Người như Phaolô trên đường Ðamas sao? Chúng ta phải nói còn hơn thế nữa. Chúng ta sẽ lãnh nhận chính mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là chính mầu nhiệm của Người, là chính mầu nhiệm biểu lộ Người hoàn toàn và đầy đủ hơn hết. Người không những là Ðấng Tiên Tri của Thiên Chúa, nhưng còn là chính Con Thiên Chúa sinh ra làm người để tha thứ tội lỗi và làm cho chúng ta được sống lại và sống sự sống mới. Chúng ta hãy có lòng tin yêu để  đón nhận và để sống sự sống của Chúa Giêsu Kitô.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



LI CHÚA MI NGÀY
Ch Nht 10 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: 1 Kgs 17:17-24; Gal 1:11-19; Lk 7:11-17.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa giải thoát con người khỏi đau khổ và sự chết.
             Con người sợ nhiều thứ trong cuộc đời: sợ mất mát, sợ thất nghiệp, sợ đau khổ, sợ bệnh tật, và cái sợ hơn cả là sợ chết; vì sự chết lấy đi tất cả hy vọng của con người. Sợ chết nhưng không ai thoát nổi cái chết. Con người cảm thấy đứt ruột khi chứng kiến cảnh các người mẹ phải khóc con: “Lá vàng còn ở trên cây. Lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời.” Đau khổ hơn nữa là tình cảnh những người mẹ chỉ có một con. Bà mẹ tưởng con sẽ là người săn sóc cho mình khi về già, nhưng có ai học được sự quan phòng của Thiên Chúa khi các bà phải chôn cất người con một của mình, nguồn hy vọng duy nhất của cuộc đời!
            Các bài đọc hôm nay cho chúng ta hai tình cảnh của hai bà mẹ góa chứng kiến đứa con côi duy nhất của mình phải chết; nhưng tình thương của Thiên Chúa đã làm cho cả hai đứa con được sống lại. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elijah cầu xin Thiên Chúa cho người con của bà thành Zarephat được sống lại. Bà là người đã hy sinh của ăn, nước uống, và chỗ ở cho ngôn sứ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cho người con trai duy nhất của bà mẹ thành Nain sống lại, tuy bà không kêu xin. Ngài không thể cầm lòng trước nỗi khổ vô cùng to lớn của bà. Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhận ra tình thương của Thiên Chúa trong biến cố ngã ngựa trên đường đi Damascus. Lẽ ra ngài đáng tội phải chết vì đã bắt bớ các tín hữu theo đạo, nhưng Thiên Chúa đã mở mắt cho ngài khỏi mù lòa, và trao cho ngài sứ vụ mang ơn cứu độ cho Dân Ngoại và cho chính ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Đức Chúa nghe tiếng ông Elijah kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống.
           
1.1/ Nỗi đau khổ của người mẹ có đứa con duy nhất bị chết. Bà góa thành Zarephat đã hy sinh tính mạng của bà và con trai để cho ngôn sứ Elijah có bánh ăn và nước uống (1 Kgs 17:7-16). Bù lại, ngôn sứ Elijah đã làm cho hũ bột và bình dầu của bà không cạn cho tới ngày mưa rơi xuống (1 Kgs 17:14-15). Sau các sự việc này, đứa con trai của bà ngã bệnh. Bệnh tình trầm trọng đến nỗi nó tắt thở. Bà nói với ông Elijah: "Hỡi người của Thiên Chúa, việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải chết?"
            Bà không đổ lỗi cho ngôn sứ Elijah là sự hiện diện của ông làm cho con bà phải chết; nhưng sự hiện diện của ông nhắc lại các tội lỗi của bà đã phạm, và làm cho con trai của bà phải chết. Bà tin tội lỗi của bà là nguyên nhân của đau khổ và sự chết của con trai bà.
1.2/ Thiên Chúa lắng nghe lời kêu cầu của tiên tri Elijah. Chúng ta thấy Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng rộng lượng cho đi của con người dành cho các ngôn sứ hay những nhà lãnh đạo của Ngài. Lịch sử Cựu Ước đã nhiều lần chứng thực điều này. Trong trình thuật hôm nay, ngôn sứ Elijah nhắc lại những gì bà đã làm cho ông: "Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao?"
            Ngôn sứ Elijah kiên nhẫn cầu nguyện và nằm trên đứa trẻ ba lần để cứu sống nó. Sau cùng, Thiên Chúa nhận lời ngôn sứ Elijah và cho đứa trẻ được sống. Ngôn sứ trao đứa trẻ cho mẹ nó và nói: "Bà xem, con bà đang sống đây!"
            Lời thú nhận của bà góa vào quyền năng Thiên Chúa và sứ vụ của ngôn sứ Elijah: "Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng."
2/ Bài đọc II: Đức Kitô giải thoát Phaolô khỏi tội lỗi và sự chết.
2.1/ Sự nhiệt thành mù quáng của Phaolô trước khi trở lại: Chính Phaolô đã thú nhận tội lỗi của ông trước khi trở lại như sau: “Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.” Biến cố ngã ngựa và trở thành mù lòa trên đường đi Damascus đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của ông. Chính Đấng mà ông đang hăng say bách hại đã hiện ra và chỉ cho ông thấy tai hại của sự nhiệt thành mù quáng: “Khốn cho ngươi nếu ngươi cứ giơ chân đạp mũi nhọn.”
            Biến cố ngã ngựa đã giúp Phaolô cảm nghiệm sâu xa tình thương của Thiên Chúa dành cho ông. Ngài mặc khải cho ông biết đâu là chính đạo: tin theo Đức Kitô, chứ không phải mù lòa chạy theo niềm tin của những người Pharisees nhiệt thành. Ngài thương và ban ơn cứu độ cho ông ngay khi ông còn là một tội nhân đáng chết. Điều này chứng minh con người không thể làm gì cho xứng với ơn cứu độ; nhưng phải hoàn toàn trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa.
2.2/ Giai đọan học hỏi về các mặc khải của Thiên Chúa trong sa mạc: Sau đó, Thiên Chúa đã mặc khải ý định của Ngài là muốn Phaolô trở thành Tông Đồ rao giảng Tin Mừng đặc biệt cho Dân Ngọai. Thay vì lên Jerusalem để gặp tất cả các Tông Đồ khác, ngài đã vào hoang địa Arabia để dành trọn 3 năm với Thiên Chúa. Trong quãng thời gian chiêm niệm này, Thiên Chúa đã dùng Đức Kitô để mặc khải và chuẩn bị cho Phaolô sứ vụ rao giảng tương lai. Sau thời gian này, Phaolô mới lên Jerusalem để gặp Phêrô và một số các Tông Đồ. Đây là giai đoạn học hỏi quan trọng cho Phaolô. Ông nhắc đi nhắc lại việc ông trở thành Tông Đồ là do ý định của Thiên Chúa và sự dạy bảo trực tiếp của Đức Kitô, vì ông đã không có cơ hội nghe những lời giảng dạy của Đức Kitô như những Tông Đồ khác, khi Ngài còn sống trên dương gian.
2.3/ Sự nhiệt thành rao giảng Tin Mừng của Phaolô sau 3 năm chiêm niệm: Thiên Chúa đã không cất đi đức tính nhiệt thành của Phaolô, nhưng Ngài tiếp tục dùng sự nhiệt thành của ông làm khí cụ sắc bén cho việc rao giảng Tin Mừng, như chính ông đã tự thú: “Viết cho anh em những điều này, tôi cam đoan trước mặt Thiên Chúa là tôi không nói dối. Sau đó tôi đến miền Syria và miềnCilicia. Nhưng lúc ấy các Hội Thánh Đức Kitô tại miền Judah không biết mặt tôi. Họ chỉ nghe nói rằng: "Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt," và vì tôi họ tôn vinh Thiên Chúa.”
            Nhìn lại cuộc đời của thánh Phaolô, chúng ta thấy rõ sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ngài không tiêu diệt sự nhiệt thành của ông để ông đừng bách hại các tín hữu; nhưng Ngài hướng dẫn cho ông thấy những mục đích cao đẹp mà ông có thể góp phần vào; và sai ông đi rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngọai. Từ đó, ông trở thành người say mê rao giảng Lời Chúa, bất chấp tất cả đau khổ, bắt bớ, tù đày, và ngay cả cái chết cho việc rao giảng Tin Mừng.
            Cuộc đời của Phaolô dạy cho chúng ta một bài học quan trọng. Thiên Chúa không muốn cho chúng ta phải chết đời đời, nhưng Ngài luôn tạo cơ hội để chúng ta được sống. Điều quan trọng là chúng ta phải có can đảm để nhận ra những lầm lỗi của mình để ăn năn trở lại và can đảm thực hành những gì Thiên Chúa truyền dạy. Cãi lời Thiên Chúa chỉ gây ra đau khổ và cái chết đời đời cho con người mà thôi.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu động lòng thương và cho con trai duy nhất của bà mẹ Nain sống lại.
3.1/ Thiên Chúa đồng cảm với những đau khổ của con người: Đứng trước cái chết con người hoàn toàn bất lực và hoảng sợ khi phải đương đầu với cái chết, nhất là những cái chết trẻ, cái chết của nhiều người nhiều người, và cái chết đột ngột, như bà mẹ thành Nain hôm nay. Bà đã góa chồng và chỉ có một con duy nhất là niềm hy vọng để nâng đỡ Bà trong cuộc sống trên dương gian; thế mà anh đã vĩnh viễn ra đi. Chắc Bà không bao giờ nghĩ là Bà sẽ phải chôn con. Thiên Chúa có lòng thương đặc biệt với những người lâm cảnh mẹ góa con côi, vì họ thiếu cánh tay của người chồng hay người cha để nâng đỡ gia đình. Ai đối xử bất công với họ là đụng đến chính Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay bênh vực và giải thoát họ (Psa 68:5; Isa 10:2; Jer 49:11; Eze 22:25).
            Người Hy-lạp, nhất là những người theo chủ thuyết Khắc Kỷ, họ tin có Đấng Tối Cao; nhưng không tin Ngài có cảm xúc trước những đau khổ của con người. Họ lý luận: Nếu con người có thể làm cho Ngài vui hay buồn, tức là con người có ảnh hưởng trên Ngài; khi con người có ảnh hưởng trên Ngài là con người lớn hơn Ngài; nhưng không ai có thể lớn hơn Đấng Tối cao. Vì vậy, Đấng Tối Cao phải là Đấng không có cảm xúc. Niềm tin này hoàn toàn ngược lại với niềm tin của người Công Giáo, Thiên Chúa cảm thương với nỗi đau khổ của con người. Thánh Lucas tường thuật Chúa Giêsu chạnh lòng thương Bà mẹ góa chỉ có đứa con côi mà giờ đây cũng không còn nữa, Ngài an ủi: "Bà đừng khóc nữa!" Trước khi cho Lazarus sống lại, Gioan tường thuật “Chúa khóc” (Jn 11:35) và “Chúa thổn thức trong lòng” (Jn 11:38).
3.2/ Thiên Chúa có quyền trên cả sự sống và sự chết: Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Trong Cựu Ước, ngoài tiên tri Elijah trong bài đọc I hôm nay, tiên tri Elisha cũng làm cho con trai của Bà góa miền Shunem sống lại bằng cách kề miệng ông trên miệng nó (2 Kgs 4:34-37). Trong Phúc Âm, có ít nhất 3 lần Chúa làm cho kẻ chết sống lại: cho con gái của ông trưởng hội đường Jairus sống lại (Mt 9:24-25, Mc 5:41-43, Lk 8:54-56); Chúa Giêsu làm cho anh thanh niên sống lại và trao anh lại cho bà mẹ Nain hôm nay (Lk 7:11-17); và Chúa cho Lazarus chết 3 ngày được sống lại (Jn 11:38-44). Sách Công Vụ Tông Đồ cũng tường thuật sự kiện Phêrô cho bà Dorcas, một người luôn bác ái giúp đỡ người khác, được sống lại (Acts 9:40-41), và Phaolô cho Eutychus, một người ngủ gật khi Phaolô giảng bị té lầu chết được sống lại (Acts 20:9-10).
            Khi chứng kiến quyền năng của Thiên Chúa cho kẻ chết sống lại, con người kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa. Họ nói: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người." Năng quyền làm cho kẻ chết sống lại đã được báo trước bởi ngôn sứ Isaiah về Đấng Thiên Sai (Isa 25:8-9; 35:4-6).
            Sự kiện Chúa Giêsu sờ vào quan tài là một hành động không sạch theo Luật Levi (Lev 21:11), và ngăn cản Ngài không được vào Đền Thờ. Nhưng Ngài sẵn sàng trở nên không sạch để làm cho con người được sống, như lời tác giả Thư Do-thái mô tả về Đức Kitô: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Heb 4:14-16).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            - Chúng ta có một Thiên Chúa luôn cảm thông với những đau khổ của con người. Chúng ta hãy dâng mọi đau khổ cho Thiên Chúa và cầu nguyện: Nếu đẹp ý Ngài, xin Ngài cất đi đau khổ. Nếu Ngài muốn cho chúng ta chịu, xin Ngài ban thêm sức để chúng ta có thể chịu.
            - Thiên Chúa có quyền trên sự chết và sự sống. Ngài có quyền làm cho chết và làm cho sống. Được một Thiên Chúa quyền năng như thế quan phòng cuộc đời, chúng ta còn sợ chi nữa!
            - Chúng ta đừng sợ bất cứ một quyền lực nào trên cuộc đời, ngay cả sự chết. Vì Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Sự chết không có quyền chi đối với Người nữa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

05/06/16 CHÚA NHT TUN 10 TN – C 
Lc 7,11-17

Suy nim: Trên cung đường “t thn” hai xe khách chy ngược chiu đâm trc din, bc cháy, nhiu thi th cháy đen, nhiu hành khách khác b thương nguy kch… Đàng sau đó là tiếng khóc thm thiết ca bao người trước s ra đi đt ngt và thm khc ca thân nhân h. Các tin tc như thế khiến cho người đc, du không trc tiếp chng kiến, cũng phi xúc đng rơi l. Trước cnh não lòng ca người đàn bà goá mt đi người con trai duy nht, Chúa Giê-su chnh lòng thương không ch bng tình cm ca mt con người mà còn bng trái tim ca Người Con Mt ca Thiên Chúa Tình Yêu na. Chúa dng li an i:“Bà đng khóc na!” Ngài còn hin thc li an i đó bng lnh truyn đy quyn năng ca Thiên Chúa: “Hi thanh niên, hãy chi dy!”
Mi Bn: Phi chăng bn cm bt lc trước nhng đau kh, bt công mà con người chung quanh bn, và có khi c chính bn, đang phi hng chu? Thc ra, bn có th làm nhiu hơn bn tưởng: Trước hết, bn đng đ lòng mình vô cm trước thm cnh ca người khác. Mt câu nói tích cc, mt n cười cm thông có th vc dy mt linh hn đang tuyt vng. Hơn na, trước khi bn làm mt nghĩa c tt đp cho người khác, bn còn có mt ngun tr giúp vô song đó là li cu nguyn ca bn dâng lên Chúa là Đng giàu lòng thương xót. Ngài s lng nghe và đáp li bn.
Sng Li Chúa: “Không bao gi tuyt vng nhưng luôn hy vng vào Chúa.”
Cu nguyn: Ly Chúa Giê-su là Đng Thương Xót, con tín thác vào Ngài.

THIÊN CHÚA VING THĂM DÂN NGƯỜI
Thiên Chúa Ba Ngôi vn đến thăm tôi qua bao người khác, và Ngài mun tôi đi thăm đ lau khô nước mt cho người bn gn bên. 


Suy nim:
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.
Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).
Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:
Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.
Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,
khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ

05 Tháng Sáu
Hãy Cho Một Nụ Cười

Một bệnh nhân nọ được đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh nhân khác.
Không chịu đựng nổi trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách. Anh trình như sau: "Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu như tôi".
Vị phụ trách mỉm cười đáp: "Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không tin".
Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu. Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên... Ngài giải thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối".
Cái chết của Ðức Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng hiến cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một người sống và chết cho mọi người.
Nhìn ngắm Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú...
Có của cải, có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của mình. 
Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Vác lấy khổ đau để trở thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy.

Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét