13/06/2016
Thứ Hai tuần 11 thường niên
Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội
Thánh.
Lễ nhớ
* Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô. Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221). Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là
người đầu tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm
mùa Chay tại đó (năm 1231).
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 21, 1-16
"Noboth đã bị ném đá chết".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Khi ấy, ông Naboth, người Giêrahel, có một vườn
nho, sát cạnh đền của Acáp vua xứ Samaria. Acáp nói với Naboth rằng: "Hãy
nhượng vườn nho cho ta, để ta làm vườn rau, vì nó gần đền ta: bù lại, ta sẽ đổi
cho ngươi vườn nho khác tương đương". Nhưng Naboth thưa lại rằng:
"Xin Chúa đừng để tôi nhượng cho đức vua phần gia nghiệp của tổ tiên
tôi". Acáp tức giận bỏ về nhà, và căm hờn vì lời ông Naboth, người
Giêrahel đã nói: "Tôi sẽ không nhượng cho đức vua phần gia nghiệp của tổ
tiên tôi". Vua nằm lăn xuống giường, quay mặt vào vách và không ăn uống
gì.
Giêzabel, vợ vua, đến cùng vua và nói rằng:
"Tại sao đức vua buồn phiền, và không ăn uống gì?" Vua đáp: "Tôi
đã nói với Naboth người Giêrahel rằng: "Hãy bán vườn nho lại cho ta, hoặc
nếu ngươi muốn, ta sẽ đổi cho vườn nho khác tốt hơn". Nó lại nói:
"Tôi không thể nhượng vườn nho tôi cho đức vua". Giêzabel vợ vua liền
nói với vua rằng: "Quyền thế nhà vua cao cả biết bao, và nhà vua cai trị
nước Israel khéo như thế nào! Thôi, dậy ăn uống đi, và cứ yên tâm. Thiếp sẽ tặng
cho nhà vua vườn nho của Naboth người Giêrahel".
Bà ta nhân danh Acáp mà viết thơ, lấy ấn vua
đóng vào, và gởi cho các bậc kỳ lão và chức sắc ở cùng thành với Naboth. Nội
dung bức thư như thế này: "Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh, và đặt
Naboth ngồi giữa hàng nhân sĩ trong dân. Hãy xúi hai đứa gian ác thuộc phường
Bêlial đến trước mặt nó và cáo gian nó thế này: "Nó đã nguyền rủa Thiên
Chúa và đức vua". Các ngươi hãy điệu nó đi mà ném đá cho nó chết". Vậy
dân chúng ở cùng thành với Naboth, các kỳ lão và chức sắc cùng ở một thành với
ông, làm như Giêzabel đã truyền, đúng như đã viết trong thư bà gởi cho họ. Họ
công bố một thời kỳ chay tịnh, đặt ông Naboth ngồi giữa hàng nhân sĩ trong dân.
Họ dẫn đến hai thằng con cái ma quỷ, đặt chúng ngồi đối diện với ông. Và hai đứa
này, đúng là hạng quỷ sứ, đã cáo trước mặt dân chúng rằng: "Naboth đã nguyền
rủa Thiên Chúa và đức vua". Nghe thế, họ liền điệu ông ra khỏi thành, và
ném đá hạ sát ông. Rồi họ sai người đi nói với Giêzabel rằng: "Naboth đã bị
ném đá chết rồi".
Khi nghe tin Naboth đã bị ném đá chết,
Giêzabel liền nói với Acáp rằng: "Nhà vua hãy chỗi dậy và chiếm lấy vườn
nho của Naboth người Giêrahel, kẻ đã không muốn theo ý nhà vua nhượng lại vườn
nho mà lấy tiền: Naboth không còn sống nữa, nhưng đã chết rồi". Khi hay
tin Naboth đã chết, Acáp chỗi dậy và xuống chiếm lấy vườn nho của Naboth người
Giêrahel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 5, 2-3. 5-6. 7
Ðáp: Lạy Chúa, xin lưu
tâm đến tiếng con than thở (c. 2b).
Xướng: 1) Xin lắng tai nghe lời con, thân lạy
Chúa, xin lưu tâm đến tiếng con than thở. Xin để ý nghe tiếng con cầu khẩn, ôi
Ðại Vương và Thiên Chúa của con! - Ðáp.
2) Ngài không phải là Chúa tể ưa điều gian ác;
kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài; đứa bất nhân không thể đứng trước thiên
nhan; Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác. - Ðáp.
3) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc
ác và gian xảo thì Chúa ghê tởm không nhìn. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán,
vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 38-42
"Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với
kẻ hung ác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Còn Thầy, Thầy
bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải
của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo
trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm,
thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì
con đừng khước từ".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðừng báo thù
"Mắt đền mắt, răng đền răng", đó là
công thức của luật báo thù. Người ta xúc phạm đến tôi bao nhiêu, tôi phải làm lại
cho người đó bấy nhiêu. Kẻ lý luận như thế là dựa trên sự công bằng, nhưng đây
là sự công bằng theo mức độ của loài người. Luật trả thù này đã được ghi chép
thành văn trong bộ luật của vua xứ Babylon năm 1750 TCN. Trong Bộ Ngũ Kinh, người
ta cũng có thể đọc thấy vài công thức của luật trả thù này, và đó là sự bất
toàn của Luật Môsê thời Cựu Ước.
Nhưng luật trả thù này không những có trong những
bộ luật lâu đời, mà còn nằm trong tâm hồn con người mọi thời. Chúa Giêsu muốn
nhắc cho các môn đệ Ngài xưa cũng như nay, là cần phải sẵn sàng dập tắt ngay
nơi bản thân mầm mống của bạo động: "Ðừng chống cự người ác". Ngài nhấn
mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, vượt qua
điều anh em xúc phạm đến mình. Ðây là hình thức cao cả của tình yêu Kitô: yêu
thương một cách nhưng không, không đòi lại điều gì, cũng không chờ đợi điều gì.
Như vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Ai muốn lấy áo trong của con, thì hãy cho
nó cả áo ngoài" không phải là thái độ thụ động, mà là thái độ tích cực sống
yêu thương tha thứ như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá khi Ngài cầu nguyện:
"Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa
Giêsu đã yêu thương và tha thứ đến cùng, và Ngài dạy chúng ta sống theo gương
Ngài, nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ đích thực của Ngài.
Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời kinh hòa
bình của thánh Phanxicô Assisiô: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và
phụng sự Chúa trong mọi người. Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để
con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa
vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn u sầu.
Veritas
Asia
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ
Hai Tuần 11 TN2
Bài
đọc: 1 Kgs 21:1-16; Mt 5:38-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người Kitô hữu sẵn sàng
chịu thiệt thòi vì danh Đức Kitô.
Chống cự lại kẻ thù bằng cách chửi rủa, đánh đập,
báo thù... không bao giờ là giải pháp tốt đẹp của những người mang danh Kitô hữu;
nhưng vẫn có những người tín hữu nhân danh công lý để chửi rủa, công kích, và
đòi dùng bạo lực.
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta hiểu tại sao
Thiên Chúa dạy chúng ta phải cư xử khác với người xưa và những người vô đạo.
Trong bài đọc I, Sách Các Vua tường thuật một câu truyện bất công. Vua Ahab muốn
có vườn nho của Naboth để bành trướng đất đai của mình, nên đã đồng lõa với kế
hoạch gian ác của bà hoàng hậu Jezebel vợ mình, để Naboth bị hai kẻ gian ác tố
cáo Naboth đã phạm thượng nói xấu Thiên Chúa và vua. Hậu quả là Naboth bị ném
đá chết và vườn nho thuộc vua Ahab và nhà vua không phải trả đồng nào. Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu phân biệt hai cách đối xử của người xưa và của môn đệ Chúa:
Người môn đệ Đức Kitô không được chống cự người ác, không được trả thù, không
được kiện cáo; nhưng luôn phải rộng lượng tha thứ và cho đi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Xin Đức Chúa đừng
để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài!"
1.1/ Vua Ahab muốn vườn nho của Naboth vì nhà vua
muốn khuếch trương cung điện của mình: Nhà Vua nói với ông
Naboth rằng: "Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta, để ta làm vườn rau, vì
nó ở ngay sát cạnh nhà ta. Để bù lại, ta sẽ cho ngươi một vườn nho tốt hơn, hay
là, nếu ngươi muốn, giá bao nhiêu, ta sẽ trả bằng bạc." Nhưng ông Naboth
thưa với vua Ahab: "Xin Đức Chúa đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên
tôi cho ngài!"
Nhượng gia sản hay bán đất đai của tổ tiên là
xóa tên của tổ tiên trong quốc gia, một điều ô nhục cho con cháu (Num 27:4).
Ông Naboth nhân danh Thiên Chúa nhắc cho vua Ahab để đừng bắt ông phải làm chuyện
đó. Vua Ahab biết Lề Luật ngăn cấm việc tịch thu gia sản tổ tiên của hàng xóm
(Deut 19:14; Num 27:7-11; Jer 32:6-9); ngay cả nhà vua cũng không được quyền
đó, nên thương lượng với Naboth để mua; nhưng Naboth không bằng lòng. Vua Ahab
trở về nhà buồn rầu và bực bội vì lời ông Naboth.
1.2/ Kế hoạch chiếm vườn nho của hoàng hậu
Jezebel: Hoàng hậu Jezebel con của vua Sidon. Bà thờ thần Baal; vì thế,
bà không quan tâm đến Lề Luật như vua Ahab. Là người gian manh, nên mục đích của
bà là chiếm được vườn nho, cho dù có phải đổ máu người ngay lành. Bà đã phác họa
ngay một kế hoạch gian ác trong đầu nên nói với nhà vua: "Vua cai trị
Israel hay thật! Mời vua dậy mà ăn cho lòng phấn khởi lên! Thiếp sẽ tặng vua vườn
nho của Naboth người Jezreelite.”
Vua Ahab đoán biết những gì vợ làm nhưng không
ngăn cản, vì ông đang muốn có vườn nho của Naboth. Nhà vua nghĩ ông không trực
tiếp ra tay nên không phạm tội với Thiên Chúa và chịu tai tiếng trước dân
chúng. Đây là kế hoạch: bà nhân danh vua Ahab viết thơ, rồi dùng con dấu của
vua mà đóng ấn, và gửi cho các kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành với ông
Naboth. Trong thơ bà viết rằng: "Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt
Naboth ngồi ở hàng đầu dân chúng. Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó,
để chúng tố cáo nó: "Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua. Và hãy đem
nó ra ngoài ném đá cho chết."
Để có màu sắc tôn giáo thành thật, Bà truyền
công bố thời kỳ chay tịnh để đánh lạc hướng dân chúng. Thời kỳ chay tịnh thường
được làm để tỏ lòng ăn năn vì đã xúc phạm đến Đức Chúa (x/c Joel 1:14; 1 Sam
7:6). Các nhà lãnh đạo địa phương có thể biết kế hoạch gian tà của bà; nhưng phải
khuất phục trước quyền hành và làm theo sắc chỉ của vua Ahab, vì họ biết nếu họ
chống lại thế lực nhà vua chỉ chuốc thêm thiệt hại vào thân. Bà dùng hai kẻ
gian ác để tố cáo ông Naboth. Hai kẻ vô lại không khó kiếm trong bất cứ thời đại
nào. Đây là những kẻ không biết xấu hổ khi gian dối. Người ta chỉ cần cho chúng
tiền là chúng sẽ làm bất cứ điều gì. Khi nghe biết ông Naboth đã chết, vua Ahab
đứng dậy, xuống chiếm đoạt vườn nho của ông Naboth.
2/ Phúc Âm: Ai xin, thì hãy cho; ai muốn
vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.
2.1/ Đừng chống lại kẻ gian ác: Chúa
Giêsu dạy các môn đệ: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền
răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả
má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.”
Luật “mắt đền mắt răng đền răng là Luật
Talionis, đây là luật xưa nhất trên thế giới, được tìm thấy trong Bộ Luật
Hammurabi, khỏang 2250 BC. Luật này cũng được tìm thấy trong Cựu Ước ít là 3 lần
(Exo 21:23-25; Lev 24:19-20, Deut 19:21). Mấy điều quan trọng về Luật này cần
lưu ý:
(1) Nó ngăn cấm việc gia tăng báo thù; vì nếu
cứ để hai bên báo thù liên tục, cái chết sẽ xảy ra không những cho cá nhân mà
còn cho bộ tộc.
(2) Nó được thi hành bởi các quan án, chứ
không để cá nhân hay gia đình định liệu.
(3) Nó không được thi hành theo nghĩa đen: hư
mắt phải đền mắt, hư răng phải đền răng; nhưng được tính bằng số tiền mà nạn
nhân được bồi thường.
(4) Nó không phải là tất cả Luật của Cựu Ước,
vì vẫn còn những luật yêu thương và tha thứ (x/c Lev 19:18; Pro 25:2; Lam
3:30).
Điều Chúa Giêsu dạy các môn đệ họ không được
báo thù dưới bất cứ hình thức nào. Trước tiên, đây là lời dạy rất khôn ngoan,
vì chống lại kẻ gian ác sẽ mất mạng sống; vì thế, tục ngữ Việt Nam khuyên hãy để
“của đi thay người.” Thứ đến, việc báo thù chỉ gia tăng sự hận thù; nhưng hành
động tha thứ sẽ dập tắt hận thù và có tiềm năng để biến kẻ thù thành bạn. Sau
cùng, người môn đệ Đức Kitô tin Thiên Chúa vẫn đang quan phòng thế gian. Ngài
không để cho kẻ gian ác mặc sức tung hoành và người ngay lành phải chịu đựng
quá mức.
Chúa Giêsu cũng ngăn cấm cả việc kiện cáo khi
Ngài nói: “Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy
cả áo ngoài.” Giống như lý luận ở trên, mang nhau ra kiện cáo ở tòa đời là việc
làm rất tốn kém tiền cho luật sư, mất nhiều thời gian và công sức; mà vẫn chưa
chắc đã được xét xử công bằng hay không. Thứ đến, của cải trần gian không phải
là mục đích của cuộc đời. Ai cần hơn, cứ để cho họ dùng. Sau cùng, người tín hữu
tin Chúa là cha nhân lành, Ngài sẽ không để cho con cái trung thành giữ Luật
Ngài phải chết đói.
2.2/ Người môn đệ phải sẵn sàng giúp đỡ tha nhân:
Ngoài ra, người Kitô hữu còn phải sẵn sàng và vui lòng giúp đỡ mọi
người: “Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm.” Chúa
Giêsu có ý muốn nói người môn đệ không dừng ở chỗ chu toàn bổn phận, mà còn vui
lòng làm nhiều hơn những gì bị đòi hỏi. Người Kitô hữu cũng không tiếc nuối của
cải đời này: “Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người Kitô hữu phải sống khác với những người
đạo khác để họ nhận ra tính bác ái và sự hoàn thiện của đạo và tin tưởng vào
Chúa của chúng ta.
- Chúng ta đừng quá tiếc nuối của cải vật chất.
Hãy dùng như của cải chóng qua và đừng từ chối tha nhân khi họ cần đến.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
13/06/16 THỨ HAI TUẦN 11 TN
Th. An-tôn Pa-đô-va, linh mục, tiến sĩ HT
Mt 5,38-42
Th. An-tôn Pa-đô-va, linh mục, tiến sĩ HT
Mt 5,38-42
Suy niệm: Trong xã hội cổ thời, giữa các bộ lạc thường xảy ra những cuộc trả thù dã man. Luật Mô-sê trong Cựu Ước đã cho phép báo thù, nhưng giới hạn việc “ăn miếng trả miếng” ở mức tương đương: “Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta: chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng”(Lv
24,19-20). Như vậy, luật Cựu Ước không cho phép hành động theo bản năng trả thù mù quáng vô độ nhưng theo sự công bằng. Đây là khởi điểm của lòng thương xót. Chúa Giê-su còn đi xa hơn. Ngài xóa bỏ mọi hình thức trả thù và công bố luật mới về lòng thương xót. Chính Ngài đã tha thứ cho những kẻ sỉ nhục, đánh đập, đóng đinh Ngài và dạy chúng ta lấy tình thương xóa bỏ hận thù.
Mời Bạn: Theo ý của Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô: Năm Thánh Lòng Thương Xót là thời gian để mọi người cùng nhau học tha thứ và thương xót như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Mỗi người phải trở nên một tia ánh sáng, một sứ giả lòng xót thương của Thiên Chúa cho anh em qua cách sống quảng đại của mình.
Sống Lời Chúa: Chúa đã
tha thứ cho tôi rất nhiều, nên tôi sẵn sàng tha thứ cho người xúc phạm đến tôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết con đã làm theo thánh ý Chúa. Amen.
Ai xin, hãy cho
Chính vì con người muốn sống theo khuynh hướng tự nhiên, nên thế giới hôm nay mới không ngớt chiến tranh và đau khổ.
Suy
niệm:
Đoạn
Tin Mừng hôm nay dễ bị đem ra nhạo cười,
vì
có vẻ nó dung túng sự ác và biểu lộ một tinh thần yếu hèn bạc nhược.
Người
ta hay nghĩ rằng nếu cứ sống theo tinh thần của Chúa Kitô
thì
hẳn kẻ ác sẽ tha hồ tác oai tác quái trong thế giới này.
Tuy
nhiên, chính vì con người muốn sống theo khuynh hướng tự nhiên,
nên
thế giới hôm nay mới không ngớt chiến tranh và đau khổ.
Đánh
phủ đầu là đánh trước khi người kia kịp đánh mình.
Trên
thế giới mỗi ngày có biết bao vụ sát nhân chỉ vì một chút hờn oán.
“Mắt
đền mắt, răng đền răng”
câu
này thường được dùng để cho thấy sự tàn nhẫn của Cựu Ước.
Thật
ra, Cựu Ước chẳng bắt người ta phải móc mắt, nhổ răng kẻ thù.
Câu
này chỉ nhằm giới hạn việc báo thù trong mức độ cân xứng.
Trong
xã hội mang tính bộ tộc của Ítraen thuở ban đầu,
“mắt
đền mắt” đã là một tiến bộ đáng kể.
Đức
Giêsu đi xa hơn khi đòi hỏi đừng chống cự lại người ác,
nghĩa
là đừng lấy ác báo ác, đừng sống theo luật báo phục (lex talionis).
“Nếu
bị ai vả má bên phải, hãy đưa cả má kia ra nữa” (c. 39).
Bị
vả má bên phải nghĩa là bị tát bằng mu bàn tay phải.
Không
phải là đau hơn, nhưng là nhục nhã hơn nhiều.
Đức
Giêsu đã từng có kinh nghiệm này trong cuộc Khổ Nạn (Mt 26, 67).
“Đưa
má kia” đơn giản chỉ có nghĩa là tránh trả thù, chịu mình ở thế yếu,
vì
báo oán là chuyện của Thiên Chúa (Rm 12, 19-20).
“Đừng
để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,21).
“Nếu
ai muốn kiện anh để lấy áo trong, hãy để cho hắn lấy cả áo ngoài nữa” (c. 40).
Ở
Đông phương, áo ngoài là quan trọng để chống cái lạnh ban đêm,
nên
nếu bị cầm cố, thì cũng phải trả lại cho người ta có cái mà đắp (Đnl 24, 13).
Đưa
cả áo trong lẫn áo ngoài cho kẻ kiện cáo mình
là
chấp nhận bị trần trụi và xấu hổ, nếu ai đó chỉ có một bộ thôi.
Trong
xã hội Paléttin bị đô hộ bởi đế quốc Rôma,
chuyện
bị ép vác đồ dùm cho lính tráng vẫn hay xảy ra (x. Mt 27, 32).
“Người
bắt anh đi một dặm, hãy đi với người ấy hai dặm” (c. 41).
Môn
đệ Đức Giêsu, trước những ép buộc không mấy chính đáng,
chẳng
những được mời ưng thuận, mà còn làm hơn cả điều bị ép buộc.
Câu
cuối của bài Tin mừng cho thấy thái độ bác ái của Kitô hữu
trước
những yêu cầu của có thật của tha nhân (c. 42).
Mở
lòng ra trước người xin, người muốn vay mượn,
dù
kẻ ấy là kẻ thù hay người không có khả năng hoàn trả.
Lời
của Đức Giêsu hôm nay làm chúng ta choáng váng.
Lời
này không đòi dẹp bỏ hệ thống pháp luật, cảnh sát hay nhà tù.
Nhưng
nếu các Kitô hữu cứ để cho Lời này thấm vào lòng từ từ,
đời
sống của họ sẽ được thay đổi một cách kỳ diệu,
và
bộ mặt thế giới sẽ đổi khác.
Hiền
hậu, bao dung, quảng đại, đó là điều thế giới hôm nay thiếu trầm trọng.
Gandhi,
người say mê những câu Lời Chúa hôm nay, đã than phiền:
“Tôi
thích Đức Kitô của các anh, nhưng tôi không thích các Kitô hữu.
Vì
các Kitô hữu thì chẳng giống Đức Kitô mấy.”
Chỉ
mong chúng ta có trái tim hiền hậu giống Đức Kitô hơn.
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa,
xin
cho con quả tim của Chúa.
Xin
cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng
xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn
lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để
mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin
cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi
trả thù ti tiện.
Xin
cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không
một biến cố nào làm xáo trộn,
không
một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin
cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng
đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin
cho quả tim con đủ lớn
để yêu
người con không ưa.
Xin
cho vòng tay con luôn rộng mở
để
có thể ôm cả những người thù ghét con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG SÁU
Hơn Hết Mọi Loài Thụ Tạo
Chúng ta vừa nới mô tả khuôn mặt độc đáo của
con người trong tư cách là kẻ có thể hiểu biết và suy lý để đạt đến sự thật
trong tận bản chất mọi sự. Con người có thể tự do chọn lựa làm điều đúng và tốt.
Như vậy, con người được mời gọi nhận định những nhu cầu đích thực của đồng loại
mình và thiết lập công lý. Và, thông thường, con người được mời gọi đảm nhận đời
sống hôn nhân, trong đó người này tự nguyện trao hiến chính mình cho người kia
và xây dựng một cộng đồng hiệp thông nhân vị. Chính mối hiệp nhất này là nền
móng của gia đình và xã hội.
Nhưng tất cả không chỉ có vậy. con người còn
được mời gọi đi vào trong một giao ước với Thiên Chúa. Quả thật, con người
không chỉ là một tạo vật của Đấng Tạo Hóa mà còn là hình ảnh của Thiên Chúa. Mối
quan hệ đặc biệt này giữa Thiên Chúa và con người làm cho việc thiết lập giao ước
trở thành có thể. Chúng ta nhận ra giao ước này trong trình thuật về cuộc sáng
tạo ở ba chương đầu Sách Sáng Thế. Chính sáng kiến đi trước của Thiên Chúa, Đấng
Sáng Tạo, lập nên giao ước này. Và giao ước này vẫn không thay đổi xuyên qua lịch
sử cứu độ cho đến khi Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu với con người
trong Đức Giêsu Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời
Chúa Trong Gia Đình
Ngày 13 – 6
Thánh Antôn Pađôva, linh mục tiến sĩ Hội Thánh
1V 21,1-16; Mt 5,38-42.
Lời suy niệm: “Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn thì đừng
ngoảnh mặt đi.”
Trong đoạn Tin Mừng “Chớ trả thù” Nếu chúng ta
chỉ đọc mà không có niềm tin, không có ơn ban của Chúa, thì đó chỉ là những con
chữ khó chấp nhận, lời văn khó thực thi. Nhưng với người tín hữu khi đọc Lời
Chúa; tin có sự hiện diện của Người với ơn ban của Người kèm theo giúp cho
chúng ta dễ dàng thực thi và cảm thấy bình an trong tâm hồn, tạo cho đời sống
thêm vui tươi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con tự xóa đi
những sự muốn trả thù; không kháng cự lại với người ta, và sẵn sàng phục vụ
theo yêu cầu của người khác. Xin ban cho chúng con những ơn cần thiết, nhất là
ơn khiêm nhường trong mọi lúc để chúng con luôn được sự binh an.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
Ngày 13-06: Thánh ANTÔN PADUA
Linh mục và tiến sĩ Hội Thánh (1195 - 1231)
Lòng tôn sùng rộng rãi và mạnh mẽ đối với
thánh Antôn Padua thật lạ lùng so với những sự kiện đời Ngài. Ngài sinh năm
1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô. Cha Ngài là hiệp sĩ và viên
chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua nước Bồ Đào Nha. Fernadô được
gởi đi học trường nhà thờ chánh tòa tại Lisbonne. Nhưng vào tuổi 15, Ngài gia
nhập dòng thánh Augustinô.
Sau hai năm tại nhà dòng, Ngài xin được chuyển
về Coimbra vì bạn bè đến thăm quá đông. Tu viện Coimbra có một trường dạy Thánh
kinh rất danh tiếng. Tám năm trời Fernadô nỗ lực học hỏi và đã trở thành học giả
sâu sắc về thần học và kinh thánh.
1. Biến cố thay đổi
Ngày kia với nhiệm vụ tiếp khách, Ngài săn sóc
cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Morocco. Về sau họ bị tàn sát dã man
và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc táng. Fernadô mong ước hiến đời
mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm.
Nôn nóng với ước vọng mới, Fernadô phải tiến một
bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng Augustinô để nhập dòng Phanxicô. Nhà
dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận cho Ngài tới Moroccô. Nhưng vinh dự tử
đạo không được dành riêng cho Ngài. Ngài ngã bệnh và phải trở về nhà, Trên đường
về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicyly. Thế là An tôn nhập đoàn với
anh em Phanxicô nước Ý. Có lẽ thánh nhân có mặt trong cuộc họp ở Assisi. Năm
1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây. Ít lâu sau Ngài được gởi tới viện tế bần ở
Forli gần Emilia để làm những công việc hèn hạ.
2. Biến cố hai.
Dầu vậy một biến cố bất ngờ khiến người ta
khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân. Trong một lễ nghi phong chức ở
Forli nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt. Không ai dám thay thế. Cha giám tỉnh
truyền cho An tôn lên tòa giảng. Antôn làm cho khán giả kinh ngạc. Người ta thấy
ngay trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất. Hậu quả tức thời
không Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Italia. Đây là một thời
mà Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để chống lại các lạc
thuyết.
Kể từ đó nhà tế bần Forli không còn gặp lại
Antôn nữa. Ngài du hành không ngừng bước từ miền nam nước Ý tới miên Bắc nước
Pháp, hiến trọn thời gian và năng cực cho việc giảng dạy. Sự đáp ứng của dân
chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người đến nghe. Người
ta phải làm bục cho Ngài đứng ngòai cửa. Nhưng rồi đường phố và quảng trường đã
lại chật hẹp quá và người ta lại phải mang bục ra khỏi thành phố tới những cánh
đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người đến nghe
Ngài. Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn phiên họp,
tòa ngưng xử án. Suốt đêm dân chúng từ khắp hướng đốt đuốc tụ về. Dường như bất
cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại được sự lôi
cuốn bởi các bài giảng của Ngài.
3. Chủ trương.
Ngài thường mạnh mẽ chống lại sự yếu đuối của
hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội đường thời như: tính tham lam, nếp
sống xa hoa, sự độc đoán của họ. Đây là một giai thoại điển hình: khi Ngài được
mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges, dưới sự chủ tọa của tổng giám mục
Simon de Sully. Với những lời mở đầu "Tibi loquor cornute" (Tôi xin
thưa cùng Ngài đang mang mũ giám mục trên đầu), thánh nhân tố giác vị giám mục
mới Ngài tới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.
Cũng tại Bourges, nên ghi lại một phép lạ lừng
danh về một con lừa thờ lạy bí tích cực trọng. Với một người Do thái không tin
phép Bí tích Mình Thánh.
Thánh nhân nói: - Nếu con lừa ông cưỡi mà quỳ
xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có tin không ?
Người Do thái nhận lời thách thức. Hai ngày
ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một bên là lúa mạch và
bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, con vật quên đói quay sang thờ
lạy Chúa.
Mùa chay cuối cùng thánh Antôn giảng ở Padua.
Và người ta còn nhớ mãi về sau nhiệt tình mà thánh nhân đã khơi dậy. Dân địa
phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho đoàn người đông đảo kéo tới.
Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức. Ngài xin các bạn đồng hành đưa
về nhà thờ Đức Maria ở Padua để khỏi làm phiền cho chủ nhà trọ. Không nói được
nữa. Ngài dừng chân ở nhà dòng Đức Mẹ người nghèo ở Arcella.
Tại đây, người ta đặt Ngài ngồi dậy và giúp
Ngài thở. Ngài bắt đầu hát thánh thi Tạ ơn và qua đời giữa tiếng ca ngày 13
tháng 6 năm 1231.
(daminhvn.net)
13 Tháng Sáu
Hãy
Mai Táng Chính Mình
Một vị linh mục nọ đã có một sáng kiến rất ngộ
nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ. Một buổi sáng Chúa Nhật nọ, dân
chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau: "Một nhân vật trong giáo xứ vừa
qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng thứ Tư tới". Nghe lời loan báo ấy,
cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan trọng ấy là
ai.
Ðúng ngày tang lễ, mọi người trong giáo xứ nườm
nượp kéo nhau đến nhà thờ. Từ cung thánh cho đến cuối nhà thờ, không còn một chỗ
trống. Người ta đến không phải để cầu nguyện cho người quá cố cho bằng để nhìn
mặt lần cuối cùng con người mà ai cũng muốn biết.
Sau thánh lễ, vị linh mục đến mở nắp quan tài
để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối cùng người quá cố. Ai ai cũng sắp
hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai cũng đều ngạc nhiên, bởi vì thay
cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn thấy trong quan tài một tấm
gương và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi người chỉ nhìn thấy dung nhan
của mình mà thôi.
Chờ cho mọi người làm xong nghi thức từ biệt ấy,
vị linh mục mới giải thích: "Như anh chị em đã có thể nhận thấy, tôi đã
cho đặt vào trong quan tài một tấm kính. Con người mà anh chị em nhìn thấy
trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi người trong chúng ta. Vâng, đúng
thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần phải mai táng chính mình... Thánh
lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng ta".
Bắt đầu sứ mệnh công khai của Ngài bằng cử chỉ
dìm mình xuống dòng nước sông Giodan, Chúa Giêsu muốn loan báo cho mọi người thấy
rằng Ngài đã vâng phục Ý� Chúa Cha để đi vào Cái Chết và nhờ đó cứu rỗi nhân loại. Một
cách nào đó, mầu nhiệm của Sự Chết và Sống lại đã được diễn tả qua việc Chúa
Giêsu dìm mình trong dòng nước.
Thiết lập Phép Rửa như cửa ngõ để đưa chúng ta
vào cuộc sống trường sinh, Chúa Giêsu cung muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm
chết và sống lại của Ngài. Dìm mình trong nước của Phép Rửa, chúng ta khởi đầu
cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết. Sống đối với chung ta có nghĩa là chết:
chết cho những khuynh hướng xấu, chết cho những đam mê xấu, chết cho tội lỗi,
chết cho ích kỷ, chết cho hận thù. Cuộc sống do đó đối với chúng ta cũng là một
cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất phải thối đi, cũng thế
chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét