05/06/2017
Thứ Hai tuần IX thường niên
Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh tại Anh quốc quãng năm
673. Người nhập đan viện I-xơ-te và được Đức Giáo Hoàng
Ghê-gô-ri-ô II đổi tên Uyn-phơ-rít thành Bô-ni-pha-xi-ô.
Người là tông đồ của nước Đức và là người tổ chức lại Hội Thánh nhiều miền. Sau khi được Đức Giáo Hoàng
tấn phong giám mục (năm 722),
người rảo khắp nước Đức, thành lập các giáo phận và các đan
viện trong đó có đan viện Phun-đa. Người bị sát hại ở Đốc-cum (Hà
Lan) cùng với năm mươi hai đồng bạn năm 754.
Bài Ðọc I: (Năm I) Tb 1, 1a. 2; 2,
1-9
"Tôbia kính sợ Thiên Chúa
hơn là nhà vua".
Khởi đầu sách Tôbia.
Tôbia, người chi họ và thành Nephthali, ông bị bắt lưu đày trong đời
Salmanasar, vua xứ Assyria. Mặc dầu bị lưu đày, ông không bỏ đường chân lý.
Khi đến lễ trọng kính Chúa, trong gia đình Tôbia có dọn bữa ăn thịnh soạn,
ông nói với con trai ông rằng: "Con hãy đi mời mấy người, thuộc chi họ
chúng ta biết kính sợ Chúa, đến dự tiệc với chúng ta". Con ông đi, rồi trở
về báo tin cho ông hay rằng: "Một người con cái Israel bị bóp cổ chết nằm
ngoài đường". Lập tức, ông bỏ bàn ăn, ra khỏi phòng, bụng còn đói, chạy đến
chỗ tử thi. Ông lén vác xác về nhà, để chờ lúc mặt trời lặn sẽ chôn cất cẩn thận.
Sau khi đã giấu xác rồi, ông vừa dùng bữa vừa than khóc và run sợ, vì nhớ lại lời
Chúa dùng miệng tiên tri Amos mà phán rằng: "Ngày lễ của các ngươi sẽ trở
thành ngày than khóc và tang chế". Khi mặt trời lặn, ông đi chôn xác. Tất
cả các người bà con chỉ trích ông rằng: "Ông đã bị lên án tử hình cũng vì
công việc đó, và may là ông thoát khỏi án tử, nay ông lại đi chôn kẻ chết nữa
sao?" Nhưng Tôbia kính sợ Thiên Chúa hơn là sợ nhà vua, vẫn lấy trộm xác kẻ
bị giết, giấu trong nhà, rồi đến nửa đêm ông đem đi chôn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Phúc đức thay người tôn sợ Chúa (c. 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật
pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc
phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.
2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi
muôn đời. Trong u tối, người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người
nhân hậu, từ bi và công chính. - Ðáp.
3) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản
mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức
sẽ được ghi nhớ muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 21
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong
lòng, lời đó có thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12, 1-12
"Chúng bắt cậu con trai giết
đi và quăng xác ra vườn nho".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế, luật sĩ và kỳ
lão rằng: "Có người trồng một vườn nho, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp
nho và xây một tháp, đoạn cho tá điền thuê vườn nho và trẩy đi phương xa.
"Ðến kỳ hạn, ông sai đầy tớ đến với tá điền thu phần hoa lợi vườn
nho. Nhưng những người này bắt tên đầy tớ đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại
sai đầy tớ khác đến với họ. Người này cũng bị chúng đánh vào đầu và làm sỉ nhục.
Nhưng người thứ ba thì bị chúng giết. Ông còn sai nhiều người khác nữa, nhưng kẻ
thì bị chúng đánh đập, người thì bị chúng giết chết.
"Ông chỉ còn lại một cậu con trai yêu quý cuối cùng, ông cũng sai đến
với họ, (vì) ông nghĩ rằng: "Chúng sẽ kiêng nể con trai ta". Nhưng những
tá điền nói với nhau rằng: "Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và
cơ nghiệp sẽ về ta". Ðoạn chúng bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn
nho. Chủ vườn nho sẽ xử thế nào? Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn
nho cho người khác. Các ông đã chẳng đọc đoạn Thánh Kinh này sao: "Tảng đá
những người thợ xây loại ra, trở thành đá góc tường. Ðó là việc Chúa làm, thật
lạ lùng trước mắt chúng ta".
Họ tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người nói
dụ ngôn đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm : Ðá tảng góc tường
Tin Mừng hôm nay nói về vườn nho của Chúa được trao cho các tá điền để
làm sinh lợi thêm những hoa trái mới. Vườn nho cũ là Israel đã được Thiên Chúa
chọn làm dân riêng, nhưng những kẻ có trách nhiệm chăm sóc vườn nho ấy đã không
chu toàn bổn phận của mình; còn vườn nho mới chính là Israel mới, tức Giáo Hội
đã được Chúa Giêsu thiết lập và trao cho những tá điền mới. Qua dụ ngôn này,
Chúa Giêsu muốn các vị lãnh đạo Do thái thời đó hiểu rằng giai đoạn mới trong lịch
sử cứu độ đã bắt đầu và không còn ngược lại được nữa; lòng độc ác của những tá
điền không thể phá hủy chương trình hành động của Thiên Chúa, Ðấng nhân từ,
kiên nhẫn, nhưng cũng rất công bằng và đòi hỏi sự cộng tác của con người.
Những chi tiết trong dụ ngôn vườn nho gợi lên những giai đoạn của lịch sử
cứu độ Thiên Chúa thực hiện cho nhân loại. Cái chết của người con của ông chủ
vườn nho thoạt xem ra là kết quả của lòng thù ghét của con người đối với Thiên
Chúa. Như những tá điền muốn giết người con được sai đến để cướp vườn nho khỏi
tay ông chủ, những kẻ thù nghịch Thiên Chúa cũng muốn loại bỏ Chúa Giêsu, Con Một
Thiên Chúa, để tự do làm chủ vận mệnh nhân loại. Qua hình ảnh tảng đá xây đã trở
nên đá tảng góc tường, Chúa Giêsu mở ra chìa khóa để con người có thể hiểu được
ý nghĩa sâu xa liên hệ đến việc cứu chuộc của Ngài.
Chúa Giêsu Phục Sinh sau biến cố Vượt Qua của Ngài đã trở thành nền tảng
cho vườn nho mới là Giáo Hội. Giáo Hội và mỗi thành phần Giáo Hội đều thuộc về
Chúa Kitô. Mỗi người phải xây dựng và phát triển đời sống mình trên nền tảng
duy nhất là Chúa Kitô. "Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là chính
Chúa Kitô sống trong tôi", đó là bí quyết của mỗi môn đệ Chúa Kitô ở mọi
thời và mọi hoàn cảnh, đó là bí quyết duy nhất để Chúa Kitô trở thành đá tảng
nâng đỡ đời sống người Kitô hữu.
Lời của Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta trước trách nhiệm phải làm sao để
dung mạo của Chúa được chiếu tỏa trong đời sống chúng ta và trong Giáo Hội.
Chúa Giêsu là Ðá Tảng góc tường, là nền tảng và là sức sống cho cuộc đời chúng
ta, xin cho chúng ta đừng bao giờ lìa xa Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA
MỖI NGÀY
Thứ Hai
Tuần 9 TN1, Năm lẻ
Bài đọc:
Tob 1:3, 2:1-9; Mk 12:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Có cần phải ăn ở theo
sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày trong cuộc đời?
Nhiều người cho là không, vì những lý do "cụ thể" sau đây:
(1) Óc "thực tiễn:" Đòi hỏi của Thiên Chúa quá khó khăn, họ phải
làm những gì vượt sức con người. Họ đang sống trong "thế gian," chứ
có gọi là "thế ngay" đâu? Nếu họ làm như thế, họ trở thành
"thánh" mất rồi, mà họ còn đang muốn làm người. Họ quên đi đòi hỏi của
Chúa: Hãy sống thánh thiện như Cha của các con trên trời là Đấng Thánh. Hơn nữa,
nếu Thiên Chúa truyền những gì vượt sức con người, Thiên Chúa không còn là
Thiên Chúa, vì Ngài bắt con người làm điều không thể.
(2) Óc "khiêm nhường giả tạo:" Họ đang sống trong một xã hội
mà chẳng ai làm như thế; không muốn sống khác người. Họ muốn sống như một người
tầm thường, ẩn dật để không ai biết tới. Nhưng Thiên Chúa đòi hỏi họ: Giữa một
thế hệ gian tà và sa đọa, họ phải chiếu sáng như những vì sao sáng cho thế
gian. Nếu họ không dám sống chứng nhân như đòi hỏi của người Kitô hữu, họ cũng
không có quyền đòi được hưởng những ân huệ Chúa dành cho các chứng nhân.
(3) Óc "kinh doanh, nhỏ mọn:" Làm gì cũng phải có lợi nhuận
trước mắt. Khi làm việc phúc đức, không biết Chúa có biết hay không? Nếu biết,
Chúa có thưởng cho điều gì ngay không? Người kinh doanh khôn ngoan không nhắm lợi
nhuận tạm thời trước mắt; nhưng những giá trị vĩnh cửu. Đúng ra, họ chẳng bao
giờ có thể sống công bằng với Chúa, vì Người đã làm cho họ vượt quá những gì họ
có thể thấy. Hơn nữa, họ không nhìn thấy phần thưởng của những người làm theo ý
Chúa trong tương lai.
(4) Óc "hài hòa, thông cảm:" Chúa biết con người yếu đuối nên
Ngài sẵn lòng tha thứ mọi khuyết điểm. Vì thế, cứ việc sống không vâng phục;
khi nào tiện, vào tòa giải tội một lần là xong. Nếu Thiên Chúa khó quá, ai có
thể vào Nước Trời được. Nếu sự thực Chúa khó như vậy, chết cả đám như phần đông
nhân loại cũng được!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sống trong nơi lưu đày,
gia đình Tobit vẫn kính sợ và giữ Luật Thiên Chúa.
1.1/
Tobit dạy con: cho kẻ đói ăn. Ông Tobit là người Do-thái bị lưu đày qua Nineveh,
Babylon. Sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã của nơi lưu đày, đa số đã óan trách
Thiên Chúa và không giữ Lề Luật của Ngài; nhưng Tobit vẫn cố gắng ăn ở theo sự
thật và lẽ ngay. Ông đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào, những người
cùng đi đày với ông. Dưới triều vua Esarhaddon, ông được trở về nhà. Người ta
đã trả lại cho ông Anna, vợ ông, và Tôbia, con trai ông. Trong ngày lễ Các Tuần,
người ta dọn cho ông một bữa ăn ngon.
(1) Phản ứng của ông Tobit: Khi thấy người ta bày bàn, dọn cho mình nhiều
món, Tobit nói với Tôbia, con ông: "Con ơi, con hãy đi tìm trong số các
anh em chúng ta bị đày ở Nineveh, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Thiên
Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha. Này, con ơi, cha đợi con
cho đến khi con về."
+ Có đau mắt mới biết thương người mù: Ông Tobit đã có kinh nghiệm đói
khát nơi lưu đày Nineveh nên ông nghĩ đến những người đói khổ, và muốn họ cùng
chia sẻ hạnh phúc có của ăn ngon với ông.
+ Ông là người biết kính sợ Thiên Chúa và muốn thực thi những gì Ngài dạy:
Con người phải biết chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khó. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu cũng đã từng nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi
khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng
giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi
ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ
không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ
trong ngày các kẻ lành sống lại." Làm cho những người nghèo khó, tàn tật,
què quặt, đui mù là làm cho chính Chúa; và như thế, mới xứng đáng được hưởng
phúc lành trong Ngày Tận Thế.
(2) Phản ứng của hầu hết con người sẽ như sau:
+ Không nên làm như thế vì phải chờ đợi! và không được thưởng thức ngay
những món ăn ngon còn nóng sốt, làm phí của Thiên Chúa ban cho!
+ Không nên làm như thế vì phải vất vả đi tìm người nghèo. Cứ việc ăn
trước, sau này khi gặp người nghèo cho họ vài đồng là xong!
+ Không nên làm như thế vì đồ ăn ngon còn phải tùy thuộc vào bạn hiền và
chỗ ăn nữa. Người nghèo là khách lạ mình có biết tính khí họ làm sao? Trên hết
mọi sự, mình phải chịu đựng những "mùi" của người nghèo; không biết
khi chịu rồi, có còn muốn ăn nữa hay không!
1.2/
Tobit dạy con: chôn xác kẻ chết. Tôbia vâng lời cha ra đi, tìm một người nghèo trong số
các anh em chúng tôi. Khi trở về, nó nói: "Cha ơi!" Tôi bảo nó:
"Cha đây, con." Nó trả lời: "Thưa cha, có một người trong đồng
bào chúng ta đã bị giết và quăng ngoài chợ, là nơi bây giờ người ấy còn đang bị
thắt cổ."
(1)
Phản ứng của ông Tobit: Tobit liền chồm dậy, bỏ cả ăn, chẳng kịp nếm chút gì.
Ông đem người ấy ra khỏi quảng trường và đặt trong một căn nhà nhỏ, chờ lúc mặt
trời lặn sẽ đem chôn. Khi trở về nhà, ông tắm rửa, rồi ăn uống mà lòng cảm thấy
ưu sầu tang tóc. Ông nhớ lại lời ngôn sứ Amos đã nói về Bethel rằng: "Những
ngày lễ của các ngươi sẽ biến thành tang tóc, mọi bài hát của các ngươi sẽ nên
khúc ai ca." Khi mặt trời lặn, ông đào huyệt chôn người ấy.
(2)
Phản ứng của con người: Láng giềng nhạo cười tôi rằng: "Hắn vẫn còn chưa sợ!
Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn
chôn cất người chết!"
2/ Phúc Âm: Ông sẽ đến tiêu diệt các tá
điền, rồi giao vườn nho cho người khác.
Để
dẫn chứng sự bất công và chống lại Thiên Chúa của những người trong THĐ, Chúa
Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: "Có người kia trồng được một vườn
nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá
điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền
để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp.
2.1/
Hành động của các tá điền: Đã không nộp hoa lợi thì chớ, họ còn bắt người đầy tớ,
đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh
vào đầu anh ta và hạ nhục. Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi
ông lại sai nhiều người khác: kẻ thì họ đánh, người thì họ giết. Ông chỉ còn một
người nữa là người con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ;
ông nói: "Chúng sẽ nể con ta." Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: "Đứa
thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta." Thế là
họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. Tại sao các tá điền hành động như
thế?
+ Trước tiên, họ khinh thường Lề Luật của Thiên Chúa và của loài người,
hay họ nghĩ lấy của nhà giàu không có tội. Họ là những người dân nghèo và nghĩ
Thiên Chúa sẽ đứng về phía họ.
+ Họ không biết ông chủ phải vắng mặt đi xa; không biết ông có còn sống
không hay chết rồi! Những tên đầy tớ dụng danh ông chủ để bắt chẹt họ và thu
hoa lợi.
2.2/
Hành động của ông chủ: Ác giả ác báo! Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho
người khác. Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ
diệu trước mắt chúng ta! Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng; quả
vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại
đó mà đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cố gắng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày trong
cuộc đời. Trường hợp không thể vì yếu đuối con người, Thiên Chúa thấu hiểu những
cố gắng của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta phải nhắm tới điều thiện hảo và niềm
vui khi sống theo những gì Chúa muốn.
- Cố gắng sống theo sự thật là cách chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa và
biến đổi thế giới chung quanh. Sống theo trào lưu của thế gian là chúng ta đã bị
thế gian đồng hóa bởi họ.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Th. Bô-ni-phát, giám mục, tử đạo Mc 12,1-12
SỐNG ĐÚNG THÂN PHẬN
“Ông sẽ tiêu diệt tá điền rồi giao vườn nho
cho người khác.” (Mc
12,9)
Suy niệm: Những yếu kém trong việc quản lý tài sản
nhà nước (sử dụng sai mục đích, chiếm dụng, lãng phí, thất thoát ngân sách, đầu
tư không hiệu quả,...) đang là một bất công nhức nhối cho xã hội. Qua dụ ngôn
hôm nay, Chúa Giê-su “nhắm” đến những người ở vị trí lãnh đạo; họ như những tá
điền bất lương: Họ quên rằng mình chỉ là người thay quyền Chúa quản lý thế giới
này và những tài nguyên của nó. Khi họ phủ nhận chủ quyền của Thiên Chúa thì đồng
thời họ cũng sẵn sàng chà đạp lên mọi chuẩn mực đạo đức và đang tâm xúc phạm đến
anh em đồng loại. Chúa Giê-su cảnh báo những con người như thế sẽ bị Ngài phế bỏ.
Mời Bạn: Đức Giáo hoàng Bê-nê-đi-tô
trong cuốn ‘Đức Giêsu Na-da-rét’ cảnh báo rằng sự phát triển ‘chỉ dựa thuần túy trên
nguyên tắc kỹ thuật vật chất không những loại bỏ Thiên Chúa nhưng còn đẩy con
người lìa xa Thiên Chúa do sự kiêu ngạo về sự hiểu biết của mình.’ Khi
sùng thượng vật chất và tôn mình lên làm chủ hoàn toàn sự sống, con người lấy
chính mình làm chuẩn mực đạo đức. Đây chính là nguồn gốc của bao nhiêu sai lầm
và hỗn loạn trong đời sống cá nhân gia đình và xã hội.
Chia sẻ về một trường hợp cụ thể: Tình trạng
ngừa thai nhân tạo, phá thai lan tràn trong xã hội xúc phạm thế nào đến chủ quyền
của Thiên Chúa trên sự sống?
Sống Lời Chúa: Tôi tâm niệm rằng: Con người chỉ
là quản lý chứ không phải là chủ quyền tuyệt đối trên sự sống.
Cầu nguyện: Lạy Cha là Đấng Tạo Thành, xin cho chúng
con luôn biết sống đạo làm con theo gương Chúa Giê-su và biết lấy Lời Ngài làm
ánh sáng soi đường trên trần gian.
(5 phút Lời Chúa)
Tảng đá góc
(5.6.2017 – Thứ hai Tuần 9 Thuờng niên)
Đức Giêsu phục sinh chính là tảng
đá góc cho một tòa nhà mới. Đó là cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài, thuộc
cả dân Do thái và dân ngoại.
Suy niệm:
Dụ ngôn Đức Giêsu kể trong bài Tin Mừng hôm nay làm ta
khó chịu.
Chúng ta không chấp nhận được sự độc ác của những tá
điền,
những người làm công cho ông chủ,
và có bổn phận phải nộp hoa lợi vườn nho cho ông khi đến
mùa.
Tại sao họ lại đánh đập người đầy tớ đầu tiên do ông
chủ sai đến?
Tại sao họ lại tiếp tục đánh đập và làm nhục người đầy
tớ thứ hai?
Tại sao họ dám cả gan giết người thứ ba
và tiếp tục làm như thế với nhiều đầy tớ khác? (cc.
2-5).
Cuối cùng, ông chủ đã sai đến với các tá điền người
con yêu dấu của mình,
người cuối cùng trong số những người được ông sai.
Ông nghĩ người con của ông sẽ có đủ uy tín để khiến
các tá điền phải vị nể.
Nhưng đáng thương thay, cậu con thừa tự dấu yêu đã bị
bắt,
bị giết và bị quăng xác ra ngoài vườn nho.
Chúng ta không hiểu được sự độc ác tàn nhẫn của các tá
điền.
Nhưng chúng ta lại càng không hiểu được
sự cam chịu kiên trì và sự ngây thơ lạ lùng của ông chủ.
Tại sao ông lại không phản ứng mạnh mẽ ngay từ tội ác
đầu tiên?
Tại sao ông lại thiếu cương quyết khiến cho nhiều đầy
tớ,
và chính con yêu dấu của mình phải chết như vậy?
Dụ ngôn Đức Giêsu kể nhắm vào các nhà lãnh đạo Do Thái
giáo,
những thượng tế, kinh sư và kỳ mục (Mc 11,27; 12,12).
Các đầy tớ trong dụ ngôn là những ngôn sứ đã được sai
đến với dân Ítraen.
Các tá điền chính là những nhà lãnh đạo dân Ítraen từ
bao đời.
Người con yêu dấu chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa,
người đã được Thiên Chúa gọi là Con yêu dấu khi chịu
phép rửa
và khi được biến hình (Mc 1, 11; 9, 7).
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu báo trước cuộc khổ nạn và
cái chết sắp đến
bởi tay các nhà lãnh đạo đang đứng trước mặt Ngài đây.
Thiên Chúa như ông chủ vườn nho đau khổ,
có sức chịu đựng vô bờ dù bao lần dân Ítraen quay lưng
từ chối.
Nhưng cuối cùng ông sẽ tiêu diệt các tá điền và giao
vườn nho cho người khác.
Như thế dụ ngôn này vẫn mang nét tươi,
vì mọi sự không chấm dứt với cái chết của người con.
Tảng đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc (c.
10).
Đức Giêsu phục sinh chính là tảng đá góc cho một tòa
nhà mới.
Đó là cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài,
thuộc cả dân Do thái và dân ngoại.
Cả một lịch sử cứu độ nằm trong một dụ ngôn, mới nhìn
có vẻ buồn.
Nhưng nơi đây ta bắt gặp tình yêu Thiên Chúa làm chủ
suốt dòng lịch sử.
Một tình yêu kiên nhẫn chịu đựng, có vẻ dại dột và
ngây thơ.
Một tình yêu bị bẽ bàng và làm nhục qua cái chết của
Người Con yêu dấu.
Nhưng cuối cùng tình yêu ấy đã chiến thắng vẻ vang nơi
sự phục sinh,
và nơi công trình kỳ diệu là Giáo Hội (c.11).
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của
con.
Con tin Cha là Tình
yêu,
và mọi sự Cha làm đều
vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh
tay cắt tỉa,
cả những khi Cha
thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha
như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là
Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không
chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt
thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi
lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa
của sự thiện,
được vùi sâu dưới
những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của
tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa
ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng
có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại
nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến
thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu
sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch
sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến
về với Cha,
qua trung gian
tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động
mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần
dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi
tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt,
thành kiến,
để cùng nắm tay
nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là
nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm
tin của con.
Xin Cha cho con
dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng
Tâm Hồn Lên Tháng Sáu
5 THÁNG SÁU
Mạc Khải
Và Thuyết Tiến Hóa
Trong thời hiện đại của chúng ta, giáo thuyết mạc khải rằng con người được
tạo dựng như một hữu thể gồm cả hồn lẫn xác đã gặp một khó khăn đặc biệt do
thuyết tiến hóa dấy lên. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu nguồn gốc con người chủ
trương rằng không những có một mối liên kết giữa con người và toàn bộ thế giới
tự nhiên mà, hơn nữa, con người đã tiến hóa từ các động vật thượng đẳng. Vấn đề
nguồn gốc con người đã taọ ra sự tranh luận công khai và rộng rãi. Nó đã trở
thành mối quan tâm chủ yếu của nhiều nhà khoa học trong hơn một thế kỷ nay.
Câu trả lời của huấn quyền được tìm thấy trong Thông Điệp Humani
generis(1950) của Đức Piô XII: “Huấn quyền Giáo Hội không có gì chống lại học
thuyết tiến hóa, trong mức độ mà thuyết tiến hóa tìm kiếm nguồn gốc của thân
xác con người nơi một chất thể sống động và hiện hữu trước – vì đức tin Công
Giáo khẳng định rằng linh hồn người ta do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng…” (DS
3896).
Vì thế, từ quan điểm giáo thuyết, không có gì trở ngại để tin rằng thân
xác con người đã tiến hóa từ các loài động vật thượng đẳng. Song cũng cần phải
nhớ rằng thuyết tiến hóa cũng chỉ là một giả thuyết. Nó nêu lên một khả tính rằng
một điều gì đó có thể đúng. Nó không phải là một sự chắc chắn về mặt khoa học.
Đàng khác, giáo huấn đức tin dạy chúng ta một cách chắc chắn rằng linh hồn
thiêng liêng của con người được Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng.
Nói vậy có nghĩa là thân xác con người có thể đã được chuẩn bị từng bước
cho con người, theo một thứ tự do Đấng Tạo Hóa vạch định. Nhưng, linh hồn con
người không thể phát xuất từ vật chất, vì linh hồn có bản tính thiêng liêng. Và
chính linh hồn là yếu tố quyết định định mệnh cuối cùng của con người.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên
tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Gương Thánh nhân
Ngày 05-06
Thánh BÔNIFACIÔ
Giám Mục Tử Đạo (673 - 754)
Thánh Bônifaciô có tên sơ khởi là Winfrid. Ngài là người Saxon miền nam,
sinh ở Creditôn gần Exêter, năm 673, thời đó, phong trào truyền giáo rất mạnh mẽ
ở nước Anh. Gia đình Ngài thường là nơi dừng chân của rất nhiều nhà truyền
giáo. Winfrid rất thích gần gũi ở những con người thánh thiện này và không bỏ mất
một lời nào các Ngài kể lại và năng hỏi thăm về những chân lý các Ngài rao giảng.
Một ngày kia Winfrid hỏi các Ngài phải làm gì để được cứu rỗi ? Các vị thừa sai
trả lời: - Phải nỗ lực để nên tốt lành với mọi người và đừng nghĩ đến mình.
Nghe những lời này, Winfrid muốn lên đường ngay để rao giảng Tin Mừng
cho lương dân. Ngài đã xin cha đi tu nhưng cha Ngài đã từ chối. Ngài ngã bệnh
khiến cha Ngài hốt hoảng và đã chấp nhận.
Winfrid nhập dòng ở Exeter và vì thiện chí học hỏi của Ngài, người ta gởi
Ngài tới Nursling để học kinh thánh, thơ văn và văn phạm, năm 717, Winfrid đã
trở thành một giáo sĩ nổi bật của miền nam Saxon và được đề nghị làm tu viện
trưỏng tu viện Nursling. Nhưng Ngài đã quyết định gia nhập nhóm truyền giáo.
Angle-saxon lên đường tới Frisia. Vẫn quan tâm đến các công việc của nước Anh
cho đến hết đời, Ngài giữ liên lạc thư từ rất thường xuyên nhưng không hề viếng
nước Anh lần nào nữa.
Miền đất Winfrid muốn đến rao giảng Tin Mừng là một vùng thuộc nước Đức
và nằm giữa hai giòng sông Rhin và Danube. Cả người Rôma lẫn người Pháp đã
không thuần hoá được dân chúng hung dữ của miền này. Nhưng một cuộc chiến bùng
nổ giữa bá ước Ratborol và Charles Martel, khiến Ngài không cập bến được. Ngài
hướng về Roma với một nhóm hành hương và xin sự chẩn nhận của Đức giáo hoàng. Đức
Thánh cha Grêgoriô II đã chúc lành cho tu sĩ này và ban cho mọi người quyền hạn
để mang Nước Chúa đến cho dân Đức còn đang thờ ngẫu tượng.
Rời Rôma, Người rảo qua các miền Lombardie, Baviere và Thuringia học hiểu
ngôn ngữ và giữ các phong tục địa phương của đám dân. Ngài muốn truyền bá Tin Mừng.
Ngài đã đến Frisia, đến giữa nước Đức, và lập được nên một nhà nguyện, một tu
viện ở Hambourg. Thành quả này làm phấn khởi cũng như thúc đẩy tình yêu nơi vị
tông đồ. Những cuộc trở lại đạo này ngày một nhiều.
Năm 722 Đức giáo hoàng gọi Winfrid về Roma và tấn phong Ngài làm giám mục.
Đức Giáo hoàng nói : - Từ nay con sẽ mang tên là Bônifaciô, nghĩa là "người
thi ân". Đây là lần đầu tiên một tòa giám mục ở xa đã theo thực hành địa
phương của Italia và đã tỏ bày sự tuân phục đối với Đức Giáo hoàng .
Bônifaciô lại lên đường truyền giáo với tư cách giám mục. Ngài sẽ không ở
Frisia dưới quyền Willibord, nhưng muốn mở ra một lãnh địa mới ở Tây Đức. Ngài
đã bắt đầu ở Hesse miền Thuringia là nơi Ngài đã đến đốn một cây sồi cổ thụ.
Dân chúng đặt tên cho cây sồi này là "sức mạnh thần Jupiter". Thánh
nhân đã triệt hạ cây cổ thụ cách dễ dàng lạ lùng rồi dùng cây dựng nhà thờ kính
thánh Phêrô. Dân chúng thờ ngẫu thần đã giận dữ vì sợ bị thần minh oán phạt. Họ
tuốn đến đe dọa thánh nhân. Nhưng khi nghe Ngài nói rất hay và đầy tình đầy
nghĩa, nhiều người đã trở lại đạo.
Charles Martel lúc ấy sẵn sàng đem binh lực phục vụ Kitô giáo. Tuy nhiên
Đức Giám mục Bônifacio đã không muốn cậy dựa vào sức mạnh mà chỉ dùng tình
thương để cải hóa các tâm hồn. Ngài đã thiết lập nhiều tu viện và kêu gọi sự trợ
giúp từ nước Anh gởi tới. Đã có nhiều linh mục, nghệ sĩ, văn sĩ, tới góp công
và nhiều người khác đóng góp của cải cho việc truyền giáo. Cứ như thế mà thánh
Bônifacio đã có thể trao phó cộng đoàn nhỏ bé và mới mẻ cho các tu sĩ coi sóc rồi
lại lên đường tiếp tục mở mang nước Chúa.
Đức giáo hoàng Gregoriô III phong đức Bônifacio lên chức Tổng giám mục
và trao cho trách nhiệm thiết lập các toà giám mục ở nước Đức. Sau cuộc viếng
thăm Rôma lần thứ ba, Ngài nhận sứ mệnh tổ chức Giáo hội ở hữu ngạn sông Rhin.
Suốt 7 năm đi rao giảng Tin Mừng ở Hesse, Ngài đi vào khu rừng phân cách Hesse
và Thuringia. May mắn, nhà truyền giáo được hứơng dẫn tiến về thung lũng
Fuloda. Cùng với các tu sĩ, Ngài phá rừng đào đất và xây dựng tu viện Fulda. Tu
viện này sẽ trở nên thành trì của đời sống tôn giáo trí thức của dân man rợ thời
Trung Cổ.
Đức Tổng giám mục Bônifacio chọn Mayence làm toà tổng giám mục. Carlôan
con của Charles martel chọn đời sống tu trì và nhường quyền kế vị cho Pépin.
Ông này muốn được một đức giám mục lớn phong vương. Trong một lễ nghi long trọng
ở Soissons, vị tông đồ đã đặt vương miện lên đầu Pépin le Brej. Sau đó không kể
gì đến tuổi già, Ngài lại lên đường truyền giáo.
Ngài xuống thuyền với 50 người tùy tùng gồm có các linh mục, tu sĩ và
các sinh viên. Đoàn thuyền tới giữa các cánh đồng lầy lội. Cư dân của vùng này
còn sống rất hoang dại. Các nhà truyền giáo rao giảng Tin Mừng cho họ. Đức cha
Bônifacio hẹn các tân tòng ở Dokum, gần bờ bể, ngày 5 tháng 6 năm 756, hôm ấy
là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lúc vừa cử hành thánh lễ thì một đoàn người
mang khí giới xông tới, Bônifacio quay về với các bạn và nói: - Can đảm lên,
khí giới này không làmgì được linh hồn.
Các lương dân xông vào sát hại các nhà truyền giáo. Một nhát búa bổ xuống
Đức Tổng giám mục và cuốn Phúc âm Ngài đang cầm trong tay.
Xác thánh nhân được đưa về chôn cất ở nhà thờ chánh tòa Fulda. Thư viện
còn lưu giữ được cuốn sách bị chặt đứt của thánh nhân.
(daminhvn.net)
05 Tháng Sáu
Hãy Cho
Một Nụ Cười
Một bệnh nhân nọ được đưa vào một
bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều trị trong
một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một
phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân
khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không
mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh
nhân khác.
Không chịu đựng nổi trò chơi quái
ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách. Anh
trình như sau: "Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh nhân xung
quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu
như tôi".
Vị phụ trách mỉm cười đáp:
"Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một
bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không
tin".
Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy.
Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu. Ngài lấy một
hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên... Ngài giải
thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây.
Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn đá
biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân
bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường
sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không
phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy
làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối".
Cái chết của Ðức Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó
là Tình Yêu được dâng hiến cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi
người. Ðó là Lý Tưởng của một người sống và chết cho mọi người.
Nhìn ngắm Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực
về con người: con người chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống
cho người khác. Càng sống cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản
thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú...
Có của cải, có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người
còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất
hạnh, những hy sinh âm thầm của mình.
Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng
luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những
chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Vác lấy khổ đau để trở thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong
những chia sẻ cao quý nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện
cho tha nhân: đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới
thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét