06/06/2017
Thứ Ba tuần 9 thường niên.
Bài Ðọc I: (Năm I) Tob
2, 10-23
"Tuy bị mù
lòa, ông cũng không phiền trách Thiên Chúa".
Trích sách Tobia.
Xảy ra trong một ngày
nọ, Tobia đi chôn xác mệt nhọc, trở về nhà, ông liền nằm ngủ bên vách tường,
thì phân nóng chim én từ tổ rơi xuống mắt ông, khiến ông bị mù.
Chúa cho phép ông chịu
thử thách như thế, để nêu gương nhẫn nại cho hậu thế như thánh Gióp xưa.
Vì từ lúc còn bé, ông
có lòng kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn của Người, tuy bị mù lòa, ông
cũng không phiền trách Thiên Chúa.
Trái lại, ông vẫn một
lòng kính sợ Thiên Chúa, và tạ ơn Người hằng ngày trong đời ông.
Vả các vua xưa nhạo
báng thánh Gióp thế nào, thì nay bà con họ hàng cũng chê cười đời sống của ông
mà rằng: "Hy vọng của ông ở đâu? Ông làm phúc và chôn xác được ích gì?"
Nhưng Tobia quở trách
họ rằng: "Các ngươi đừng nói vậy, vì chúng ta là con cái các thánh, chúng
ta trông đợi cuộc sống mà Thiên Chúa sẽ ban cho những ai không bao giờ thay đổi
lòng tin vào Người".
Còn bà vợ của ông là
Anna, hằng ngày đi dệt vải, hễ kiếm được gì bởi tay mình làm để nuôi thân, bà
đem về, bởi đó, có lần bà nhận được một con dê đem về nhà; ông ông chồng nghe
tiếng dê be be, liền nói: "Coi chừng, kẻo lỡ phải của ăn trộm đó. Hãy dắt
đem trả cho chủ nó, vì chúng ta không được phép dùng đến của ăn trộm".
Bà vợ ông nổi giận trả
lời rằng: "Rõ là niềm hy vọng của ông ra vô ích, và kết quả việc bố thí của
ông nay đã rõ ràng!"
Và bà tiếp tục nói những
lời như thế mà mạt sát ông.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: TV. 111, 1-2,
7bc-8,9
Ðáp: Lòng người công chính vững vàng trông cậy vào Chúa.
Xướng 1) Ph1uc đức
thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người
sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. -
Ðáp.
2) Người không kinh
hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng, cậy trông vào Chúa. Lòng người
kiên nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi. -
Ðáp.
3) Người ban phát và bố
thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người
được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.
Alleluia: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! -
Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12, 13-17
"Các ông hãy
trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về
Thiên Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, người ta sai mấy
người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người
trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là
người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường
lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê
không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng Người biết họ giả hình, nên
bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền". Họ
đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của
ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của
Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ
rất đỗi kinh ngạc về Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Một qui luật sống
Tin Mừng hôm nay ghi lại
một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái. Ở đây,
chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt hụt Chúa Giêsu khi
Ngài rao giảng ở Capharnaum (3,6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ
Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái cũng khá hòa hoãn với
giới thống trị.
Thái độ sống giả hình
là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố gắng làm sao cho người khác thấy sự tốt
nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt phái và những người thuộc
phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn tìm biết sự thật, mà
kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa, khen Ngài là người chân
thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời
nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu trả thù. Ðó là đường lối
của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.
Thật thế, sau khi giả
vờ khen Chúa, họ liền chất vấn Ngài: "Có được phép nộp thuế cho César
không?". Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm bẫy. Theo họ,
Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng tộc Ðavít, chắc hẳn Ngài sẽ bảo họ không
nộp thuế cho César, và thế là sa bẫy họ, lúc đó, họ sẽ có lý do để bắt bớ, giải
nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì là nan
giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù
biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội
này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết
hình và dấu trên đồng tiền là của César, Ngài nói tiếp: "Của César, trả về
César; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Nói khác đi, một khi đã được hưởng
nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của César,
thì có bổn phận đền đáp cho César; nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con
người đối với Thiên Chúa: con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa,
nên cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của của
quyền bính trần thế: "Của César, trả về César", nhưng Ngài thêm:
"Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Chúa nhắc nhở rằng quyền bính trần
thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của
Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người
đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống,
nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu
tiên trong cuộc sống của mình.
Xin Chúa soi sáng để
chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc César, điều gì thuộc Thiên Chúa, để chu
toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba Tuần 9 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Tob
2:9-14; Mk 12:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Của ai trả về cho người ấy.
Để bảo vệ trật tự
chung và sống an hòa với mọi người, mỗi người chúng ta đều phải biết khả năng
và giới hạn của mình; chẳng hạn, trong hệ thống điều khiển quốc gia, đã có 3
ngành: luật pháp, hành pháp, và tư pháp. Mỗi ngành phải biết quyền năng và giới
hạn của mình để đừng dẫm chân lên nhau và gây xáo trộn trật tự. Trong mối liên
hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng thế, con người phải biết khả năng và giới
hạn của mình, để đừng thử thách và can thiệp vào những chuyện của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay cho
chúng ta vài ví dụ để nhận ra sự bất hòa, khi một người vượt quá khả năng và giới
hạn của mình. Trong Bài Đọc I, ông Tobit vượt quá giới hạn của mình khi phán
đoán vợ mua dê con của phường trộm cắp. Bà Anna, vợ ông, cũng vượt quá giới hạn
của mình khi thắc mắc về sự quan phòng của Thiên Chúa, và sự "quá đạo đức"
của chồng mình. Trong Phúc Âm, những người thuộc phái Pharisees và phái Herode
đã vượt quá khả năng của mình khi đặt câu hỏi và gài bẫy Chúa: "Có nên nộp
thuế cho Caesar hay không?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tại sao làm việc thiện mà vẫn gặp điều xấu?
1.1/ Ông Tobit bị mù khi
ông mới hoàn tất 2 việc thiện: sai con đi mời
người nghèo về dùng bữa, và vừa mới chôn xác kẻ chết.
(1) Truyền thống
Do-thái và ngay cả Á-Đông đều tin: "Trời cao có mắt!" Ai làm lành sẽ
được Thiên Chúa thưởng; ai làm ác sẽ bị Thiên Chúa phạt. Trong thực tế, việc đó
không luôn luôn xảy ra vì nhiều khi kẻ dữ vẫn thịnh vượng; trong khi người lành
phải chịu đau khổ, như trường hợp của ông Tobit hôm nay; hay như trong trường hợp
của ông Job.
(2) Những người không
có niềm tin vững chắc sẽ nghi ngờ không biết có Thiên Chúa hay không? Và nếu
có, Thiên Chúa có quan tâm đến việc làm của họ không? Chính Bà Anna đặt vấn đề
với ông Tobit: "Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu
cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!" Hậu quả nếu
không tìm được câu trả lời thích đáng: Con người dễ bị nản chí để không tin và
làm theo những gì Thiên Chúa đòi hỏi. Ngược lại, họ sẽ làm những gì mà họ cho rằng
đúng. Chúng ta phải chờ đến kết cuộc của Sách Tobit, mới có thể hiểu lý do tại
sao người lành phải chịu đau khổ.
1.2/ Hiểu lầm giữa hai vợ
chồng: Bà Anna phải làm việc để có tiền chi
tiêu trong gia đình. Bà nhận làm những công việc dành cho phụ nữ. Chủ của Bà là
người rộng lượng nên "ngày mồng bảy tháng Dytro, nàng xén tấm vải đã dệt
xong, rồi giao cho chủ. Tiền công bao nhiêu, họ trả hết cho nàng, lại còn thưởng
cho một con dê con để ăn một bữa."
- Ông Tobit đặt câu hỏi
về sự hiện diện của con dê: "Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy? Có phải của trộm
cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi! Vì chúng ta không có quyền ăn của trộm cắp."
- Bà Anna bảo chồng:
"Đó là quà người ta thưởng cho tôi, thêm vào số tiền công!"
- Ông Tobit không tin
nàng và cứ bảo nàng phải trả lại cho chủ. Tại sao ông không tin nàng?
+ Dê con là con vật đắt
tiền bên Do-thái; nên ông nghĩ Bà có thể là mua lại của trộm cắp.
+ Khi người khác cho
quà, người nhận cẩn thận luôn tìm hiểu lý do tại sao; nhiều khi "há miệng
ăn rồi mắc nợ." Ông Tobit không muốn vợ mình nhận quà của người lạ.
- Bà Anna tức giận vì
chồng ngoan cố không tin, nên nguyền rủa chồng: "Các việc bố thí của ông ở
đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như
thế nào rồi!"
Cả hai vợ chồng đều mắc
lỗi trong biến cố này: Tobit mắc lỗi vì đã không tin và phán đoán không tốt vợ
mình. Bà Anna cảm thấy sự đạo đức của ông đi quá xa nên đã nặng lời với ông và
nghi ngờ sự quan phòng của Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.
2.1/ Câu hỏi gài bẫy
Chúa: Lỗi lầm lớn nhất của con người là nghi
ngờ và thử thách Chúa. Họ dùng những suy nghĩ và cách hành xử của mình để so
sánh và áp đặt trên Thiên Chúa. Nếu họ thấy là tốt đẹp là điều hay, Thiên Chúa
cũng phải cho như vậy; nếu họ nghĩ là chuyện không thể làm được, Thiên Chúa
cũng phải bó tay. Họ quên đi một điều mà tiên tri Isaiah đã nhắc nhở: Tư tưởng
và đường lối của các ngươi không phải là tư tưởng và đường lối của Ta. Như trời
cao hơn đất chừng nào, tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi như
vậy.
Trình thuật hôm nay
cũng thế, họ cử mấy người Pharisees và mấy người thuộc phe Herode đến thử Người
để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ hỏi người: "Thưa Thầy, chúng tôi biết
Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh
giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được
phép nộp thuế cho Caesar hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?"
Hai loại người họ gởi tới là hai cái bẫy để Ngài phải rơi vào:
(1) Người Pharisees là
cái bẫy tôn giáo: Họ quan niệm không phải nộp thuế cho Caesar, vì con người chỉ
mắc nợ Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu trả lời phải nộp thuế, họ sẽ kết tội Ngài vào
hùa với ngoại bang để bóc lột dân chúng.
(2) Người thuộc phe
Herode là cái bẫy chính trị: Nếu Chúa Giêsu trả lời không nộp thuế, họ sẽ kết tội
Ngài phản động chống lại Caesar
Họ nghĩ là họ nắm chắc
phần thắng, vì Chúa chỉ có thể trả lời hoặc có hoặc không. Chúa trả lời có hay
không, họ đều có lý do để buộc tội Ngài.
2.2/ Câu trả lời khôn
ngoan của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết họ
giả hình, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc
cho tôi xem!" Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: "Hình và danh hiệu
này là của ai đây?" Họ đáp: "Của Caesar." Đức Giêsu bảo họ:
"Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa."
(1) Phản ứng của những
kẻ gài bẫy: "Họ hết sức ngạc nhiên về Người." Trước tiên, họ không ngờ
Ngài có thể thoát bẫy họ giăng một cách dễ dàng như thế.
(2) Ý nghĩa câu trả lời
của Chúa Giêsu: Chúa nhắc khéo cho những người Pharisees đừng giả hình, vì họ
cũng từng lấy mọi thứ thuế của dân đóng vào Đền Thờ. Các tín hữu có hai bổn phận:
Họ có bổn phận phải trả lại cho Thiên Chúa những gì Ngài đã ban cho họ. Họ cũng
có bổn phận nộp thuế cho chính phủ để bảo vệ an ninh, tu bổ đường xá, và cung cấp
các dịch vụ công cộng. Chúa cũng nhắc nhở cho những người thuộc phe Herode biết
giới hạn của mình. Họ chỉ có quyền trên những gì thuộc quyền con người; những
gì thuộc quyền Thiên Chúa, họ không được đụng tới.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần biết khả
năng và giới hạn của mình trong cách cư xử giữa con người với con người để bảo
đảm trật tự chung và sống hòa thuận với mọi người.
- Chúng ta càng cần biết
khả năng và giới hạn của mình trong cách cư xử với Thiên Chúa, để có thể giữ vững
đức tin và gặt hái được các kết quả tốt đẹp do việc làm theo thánh ý Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Th.
Nô-be-tô, giám mục Mc 12,13-17
“CỦA AI
ĐÂY?”
“Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ
đáp: “Của Xê-da.” Đức Giê-su bảo họ: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa,
trả về Thiên Chúa” (Mc 12,16-17)
Suy
niệm: Những người Pha-ri-sêu
gài bẫy Chúa Giê-su: có được phép nộp thuế cho Xê-da, vị vua của Rô-ma đang đô
hộ Do thái không? Nếu Chúa Giê-su trả lời: ‘có’, thì ghép Chúa vào tội bắt tay
với quân đô hộ. Nếu Chúa trả lời: ‘không’, thì ghép Chúa vào tội chống lại hoàng
đế Xê-da. Đàng nào Chúa cũng bị kết án. Câu trả lời của Chúa đã làm họ ngạc
nhiên, Chúa vừa tháo gỡ được bẫy của họ, vừa chất vấn lại chính họ: “Hình
và danh hiệu này là của ai? …Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về
Thiên Chúa”. “Của ai đây?” cũng là câu hỏi chất vấn chúng ta trả lời.
Cái gì của Thiên Chúa, cái gì của “Xê-da”, để chúng ta không cướp quyền Thiên
Chúa và cũng không cướp đoạt những gì không phải là của chúng ta.
Mời Bạn: Mỗi giây phút chúng ta
còn sống, thì chúng ta vẫn tiếp tục trả lời câu hỏi căn bản đó. Thật ra, tất cả
mọi sự là thuộc về Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa ban cho chúng ta tự do để
cộng tác với Người trong công trình tạo dựng. Và Người cũng trao quyền cho những
“Xê-da” trần thế. Vì vậy, “trả lại cho Xê-da”, cũng được hiểu là, hãy tôn trọng
quyền bính trong cơ cấu xã hội trần thế. Quyền bính là do Thiên Chúa thiết lập
(x. Rm 13,1).
Sống Lời Chúa: Với của cải, tài năng,
trí tuệ, hôm nay, tôi tự hỏi: Của ai đây, để tôi sử dụng cho chính đáng.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa của chúng
con, đôi khi thật không dễ dàng để phân được làn ranh, đâu là thuộc về Chúa,
đâu là thuộc về Xê-da. Xin Chúa giúp chúng con tỉnh táo, để chúng con chọn Chúa
và luôn thuộc về Chúa. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa (6.6.2017 – Thứ ba Tuần 9 Thuờng niên)
Chúng ta là người mang hình ảnh Thiên
Chúa, nên chúng ta phải dâng trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa.
Suy niệm:
Nhóm Pharisêu và nhóm
Hêrôđê không phải là hai nhóm hợp nhau.
Nhưng họ lại rất hợp nhất
trong việc muốn trừ khử Đức Giêsu (Mc 3, 6).
Ngài đã từng nhắc các môn
đệ đề phòng “men” của hai nhóm này (Mc 8, 15).
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, họ lại liên minh với nhau để giăng bẫy.
Trước khi đưa Đức Giêsu
vào bẫy, họ đã lấy lòng bằng những lời ca ngợi.
Rồi cái bẫy được giăng
ra, sắc như một con dao hai lưỡi.
“Có được phép nộp thuế
cho Xêda hay không?” (c. 14).
Đã từng có những câu hỏi
như thế.
“Có được phép chữa bệnh
trong ngày sa bát không?” (Mt 12, 10).
“Có được phép rẫy vợ vì
bất cứ lý do nào không?” (Mt 19, 3).
Được phép có nghĩa là
không đi ngược với Luật Môsê.
Từ năm thứ sáu sau công
nguyên,
khi Giuđê và Samari trở
thành một tỉnh của đế quốc Rôma,
mỗi người dân Do thái
phải nộp một thứ thuế thân cho những kẻ xâm lược.
Đã có những phong trào
đứng lên chống lại thứ thuế này.
“Có được phép nộp thuế
cho Xêda không?”
Nếu Đức Giêsu nói rõ là
được phép nộp thì đụng đến lòng ái quốc của dân,
và cũng đụng đến nhóm
Pharisêu là những người không chấp nhận
sự thống trị nhơ nhớp của
ngoại bang trên phần đất của Thiên Chúa.
Nếu Ngài nói rõ là không
được phép nộp thì Ngài sẽ gặp khó khăn với Rôma,
và sẽ đụng đến nhóm Hêrốt
là nhóm lãnh đạo dựa dẫm vào thế của đế quốc.
Dĩ nhiên Đức Giêsu đã
khôn ngoan không trực tiếp trả lời câu hỏi này.
Ngài không rơi vào bẫy,
ngược lại, có thể nói, Ngài giăng một cái bẫy khác.
“Đem cho tôi một đồng bạc
để tôi xem” (c. 15).
Đức Giêsu không mang
trong mình thứ tiền này, dùng để nộp thuế cho Rôma.
Nhưng kẻ thù của Ngài thì
mang, và đưa cho Ngài một đồng bạc.
Đồng bạc này mang hình
của Xêda và mang dòng chữ:
“Tibêriô Xêda, con của
Augúttô thần linh, Augúttô.”
Khi biết đó là đồng tiền
bằng bạc của Xêda, Đức Giêsu đã nói:
“Những thứ của Xêda, hãy
trả lại cho Xêda,
những thứ của Thiên Chúa,
hãy trả lại cho Thiên Chúa” (c. 17).
Câu trả lời này đã làm họ
sững sờ, không thể nào bắt bẻ được.
Đức Giêsu có vẻ không
chống lại chuyện nộp thuế thân cho Xêda.
Nhưng Ngài quan tâm đến
một chuyện quan trọng hơn nhiều.
Chuyện đối xử công bằng
với Thiên Chúa.
Trả lại cho Thiên Chúa
mọi sự thuộc về Thiên Chúa: đó là bổn phận.
Đồng tiền mang hình Xêda,
nên chúng ta phải trả cho Xêda.
Còn chúng ta là người
mang hình ảnh Thiên Chúa,
nên chúng ta phải dâng
trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa.
Tên của Giêsu đã được ghi
khắc trong tim ta,
nên chúng ta không được
quên mình đã thuộc trọn về Giêsu.
Còn bao điều trong đời ta
thuộc về Thiên Chúa mà ta vẫn giữ cho mình!
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự
do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của
con,
cùng hết thảy những gì
con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin
dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn
toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn
toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh
I-Nhã)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy nâng tâm hồn lên
6 THÁNG SÁU
Những Hữu Thể Siêu
Việt
Công Đồng Vatican II
nói về nguồn gốc con người trong công cuộc sáng tạo: “Con người duy nhất với
xác và hồn. Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới
vật chất. Vì thế nhờ con người mà những yếu tố ấy đạt tới tuyệt đỉnh của chúng”
(MV 14).
Rồi sau đó, các Nghị
Phụ của Công Đồng tuyên bố: “Thực vậy, con người không lầm lẫn khi họ nhận biết
mình cao cả hơn vũ trụ vật chất và không coi mình chỉ như một mảnh vụn của
thiên nhiên… Bởi vì, nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật.”
Như vậy. ta thấy rằng
sự thật về duy nhất tính và lưỡng diện tính của bản tính con người có thể được
trình bày bằng một ngôn ngữ có thể hiểu được đối với thế giới ngày nay.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Gương Thánh Nhân
6 Tháng Sáu
Thánh Norbert
(1080-1134)
Thánh Norbert sinh ở Xanten, Rhineland khoảng năm 1080. Khi là thanh niên,
Norbert rất yêu chuộng thế gian và các vui thú của nó. Ðó là thói quen từ một
gia đình quyền quý và được nối tiếp trong sinh hoạt của triều đình nước Ðức.
Không một cuộc vui nào mà anh không có mặt. Ðể đảm bảo cho việc thăng quan tiến
chức trong triều đình, anh không do dự chấp nhận chức kinh sĩ, là một chức
thánh, và các lợi lộc tài chánh của chức vụ đó. Tuy nhiên, anh đã do dự khi trở
thành một linh mục với tất cả các trách nhiệm của ơn gọi ấy.
Các
biến cố xảy ra trong đời là để Thiên Chúa thức tỉnh con người. Một ngày kia,
trong cơn bão Norbert đã ngã ngựa và bất tỉnh gần một giờ đồng hồ dưới cơn mưa
tầm tã. Khi tỉnh dậy, câu đầu tiên anh tự hỏi là, "Lạy Chúa, Chúa muốn con
làm gì?" Và tận đáy tâm hồn, anh nghe như có câu trả lời, "Hãy tránh
xa sự dữ và làm việc lành. Hãy tìm kiếm bình an và theo đuổi sự bình an ấy."
Anh
bắt đầu một cuộc đời cầu nguyện và sám hối. Sau khi chịu chức linh mục năm
1115, Cha Norbert thay đổi hoàn toàn đến độ các bạn bè cũ trong triều đình đều
cho là ngài giả hình. Ngài phản ứng bằng cách phân phát hết của cải cho người
nghèo và đến xin đức giáo hoàng cho phép ngài đi rao giảng.
Với
hai linh mục bạn, Cha Norbert đi khắp Âu Châu để truyền giáo. Và để ăn năn đền
tội, ngài đi chân đất giữa mùa đông buốt giá. Không may, hai linh mục bạn đã
lâm bệnh và từ trần. Tuy nhiên, ngài bắt đầu được cảm tình của các giáo sĩ trước
đây từng khinh miệt ngài. Ðức giám mục của Laon muốn ngài canh tân các kinh sĩ
trong giáo phận, nhưng các kinh sĩ lại không muốn thay đổi theo kiểu của Cha
Norbert, họ cho là quá khắt khe. Vị giám mục không muốn mất con người thánh thiện
này, nên đã tặng cho Cha Norbert một phần đất đai để ngài có thể khởi sự một cộng
đoàn. Trong thung lũng cô tịch ở Premontre, ngài đã khởi sự một tu hội với mười
ba kinh sĩ. Dù với quy luật khắt khe, càng ngày tu hội càng thu hút được nhiều
người, kể cả các kinh sĩ trước đây từng chống đối ngài.
Dù
được sự giúp đỡ của các nhân vật thế lực trong triều, Cha Norbert biết không sức
mạnh nào có thế lực cho bằng uy quyền của Thiên Chúa, do đó, tu hội
Premonstratensian đặc biệt sùng kính Thánh Thể, và các tu sĩ đã thành công
trong việc hoán cải các người lạc giáo, hoà giải các kẻ chống đối Giáo Hội và
kiên cường đức tin cho các tín hữu.
Trong tu hội, còn có các giáo dân thuộc hàng vương tước của triều đình, và khi
tham dự lễ cưới của một bá tước, Cha Norbert được Hoàng Ðế Lothair để ý và chọn
ngài làm giám mục của Magdebourg. Với nhiệt huyết canh tân giáo hội, ngài đã cải
tổ giáo phận và gặp nhiều sự chống đối cũng như có lần bị ám sát hụt. Chán nản
vì giáo dân không muốn cải tổ, ngài bỏ đi nhưng được hoàng đế và đức giáo hoàng
gọi lại.
Khi
hai vị giáo hoàng kình địch nhau sau cái chết của Ðức Honorius II, Ðức Norbert
đã giúp hàn gắn Giáo Hội bằng cách thúc giục hoàng đế hậu thuẫn cho vị giáo
hoàng được chọn đầu tiên, là Ðức Innôxentê II. Vào cuối đời, Ðức Norbert được
chọn làm tổng giám mục, nhưng ngài đã từ trần sau đó không lâu, khi 53 tuổi.
Lời Bàn
Một
thế giới khác biệt không thể hoàn thành bởi những người thờ ơ, lãnh đạm. Ðiều
đó cũng đúng với Giáo Hội. Giáo Hội không thể nào thay đổi phù hợp với tinh thần
của Công Ðồng Vatican II nếu hàng giáo sĩ và giáo dân không tha thiết với việc
xây dựng đức tin. Noi gương Thánh Norbert, chúng ta phải trung thành với Giáo Hội,
nhiệt tâm sùng kính Thánh Thể để có sức mạnh giúp chúng ta sống theo đường lối
của Ðức Kitô.
Lời Trích
Trong dịp tấn phong linh mục của tu hội, Thánh Norbert giảng, "Ôi linh mục!
Bạn không còn cho chính bạn vì bạn là tôi tớ và thừa tác viên của Ðức Kitô. Bạn
không còn thuộc chính mình vì bạn là hôn phu của Giáo Hội. Bạn không còn là
chính bạn vì bạn là người trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Bạn không
có gì là của mình vì bạn là hư không. Vậy linh mục là gì? Là người không có gì
cả và cũng là người có tất cả. Ôi linh mục! Hãy cẩn thận, đừng để những gì người
ta nói về Ðức Kitô trên thập giá lại là điều nói với bạn: 'Hắn cứu được người
khác, nhưng không cứu được chính mình!'"
Trích từ NguoiTinHuu.com
06Tháng Sáu
Tuần Hành Chống Lại Sợ Hãi
Buổi sáng ngày 06
tháng 6 năm 1966. Trương cao biểu ngữ với tựa đề: Tuần Hành Chống Lại Sợ Hãi, một
người da đen 32 tuổi đã bước xuống quốc lộ thứ 51 của thành phố Memphis thuộc
tiểu bang Mississipi bên Hoa Kỳ. Tiểu bang Mississipi có tất cả một triệu người
da đen. Mặc dù luật pháp Hoa kỳ bảo đảm cho mọi người công dân, không phân biệt
chủng tộc và địa vị xã hội, quyền được bỏ phiếu, trong thực tế chỉ có 100 ngàn
người da đen đủ can đảm thi hành quyền này. Con số còn lại, vì sợ hãi bởi nhiều
sức ép khác nhau đã không dám đi bỏ phiếu.
James Meredith, người
thanh niên da đen nói trên, đã tuyên bố: "Chúng ta cần phải giải thoát khỏi
những sợ hãi do người da trắng tạo ra. Tôi sẽ tuần hành từ Memphis đến thủ phủ
của tiểu bang để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng một người da đen có quyền sống
và đi lại, tôi muốn thắng vượt nỗi sợ hãi và những đe dọa do những người phân
biệt chủng tộc tạo nên".
Trong phút chốc,
nhiều người, kể cả những người da trắng, đã ra khỏi nhà và tuần hành bên cạnh
Meredith. Meredith tâm sự với một vị mục sư đi bên cạnh như sau: "Thoạt
tiên, tôi định mang theo một khẩu súng. Nhưng cuối cùng, tôi quyết định mang
theo một khí giới duy nhất: đó là quyển Kinh Thánh".
Meredith dự định
băng qua 350 cây số để đến tiểu phủ của tiểu bang, nhưng chưa đầy một ngày đường,
anh đã bị một người da trắng quá khíh bắn ngã gục. Phát súng định mệnh đó làm
rung động toàn thể nước Mỹ.
Giữa lúc Meredith đang nằm điều trị tại một nhà thương, từng đoàn người đến thăm và ủng hộ sáng kiến của anh. Sự sợ hãi giờ đây nhường chỗ cho một phong trào đang vươn lên với đầy khí thế...
Giữa lúc Meredith đang nằm điều trị tại một nhà thương, từng đoàn người đến thăm và ủng hộ sáng kiến của anh. Sự sợ hãi giờ đây nhường chỗ cho một phong trào đang vươn lên với đầy khí thế...
Mục sư Martin Luther
King, giải thưởng Nobel về Hòa Bình và là thủ lãnh của phong trào tranh đấu bất
bạo động của người da đen tại Hoa Kỳ, đã ngỏ lời với từng trăm ngàn người đang
đứng trước cửa bệnh viện Memphis như sau: "Cuộc tuần hành chống lại sợ hãi
sẽ không bao giờ chấm dứt. Chúng ta sẽ xuống đường lại ngay mà nơi Meredith đã
bị bắn gục. Con đường từ Memphis đến Jackson chỉ dài độ 350 cây số. Nhưng xiềng
xích của sợ hãi và đe dọa mà chúng ta muốn bẻ gãy lại còn dài gấp bội".
Những người da đen bên
Hoa Kỳ đã phải trải qua những năm tháng dài dưới sự đe dọa và sợ hãi. Sợ hãi là
tâm trạng thường tình của những ai đang sống trong đe dọa, bất an.
Không biết mình sẽ bị
bắt giữ lúc nào, không biết mình sẽ được phóng thích lúc nào, không biết mình
có đủ cơm ăn áo mặc cho ngày mai không, không biết tương lai của con em mình sẽ
như thế nào, không biết niềm tin của mình rồi ra có còn đứng vững trước những
đe dọa không. Từng nỗi hoang mang ấy khiến ai trong chúng ta cũng đã một lần trải
qua sợ hãi.
Chúa Giêsu, trong những
giây phút nguy ngập nhất đã trấn an các môn đệ của Ngài: "Các con đừng sợ
hãi, vì Ta đã thắng thế gian". Nghĩ đến cuộc khổ nạn đang chờ đợi ở trước
mắt, Chúa Giêsu đã run rẩy sợ hãi đến độ toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng, Ngài
đã thắng vượt tất cả bằng khí giới của Tình Thương. Tình Thương là sức mạnh của
Ngài trong bao thử thách... Meredith đã không mang theo súng đạn để trấn an
chính mình, anh chỉ mang theo một quyển Kinh Thánh. Phải, bởi vì Kinh Thánh là
biểu hiện của Tình Thương.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét