05/04/2018
Thứ năm tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH
Bài Ðọc I: Cv 3, 11-26
"Ðấng ban sự sống
thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
khi người què được chữa lành cứ theo sát Phêrô và Gioan, toàn dân bỡ ngỡ chạy đến
hai ngài đang ở hành lang gọi là hành lang Salômôn. Thấy vậy Phêrô liền nói với
dân chúng rằng: "Hỡi các người Israel, tại sao anh em ngạc nhiên về việc đó
và nhìn chúng tôi như là chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà
làm cho người này đi được? Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa
Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta, đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của
Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô trong khi Philatô xét
là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin
tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng
Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng.
Và bởi đã tin vào danh Người, nên danh Người đã làm cho kẻ mà anh em thấy và biết
đây, được vững mạnh, và lòng tin vào Người chữa anh này hoàn toàn lành mạnh trước
mặt hết thảy anh em.
"Hỡi anh em, thế
nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em
đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Ngài dùng miệng các tiên tri mà báo trước rằng
Ðức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội
lỗi anh em được xoá bỏ, như thế để Thiên Chúa ban cho anh em thời kỳ thư thái,
và sai Ðức Giêsu Kitô, Ðấng mà Chúa đã phán hứa cùng anh em trước, Ðấng phải về
trời cho đến thời kỳ phục hồi vạn vật, như Chúa đã dùng miệng các thánh tiên
tri Ngài mà phán từ ngàn xưa. Môsê đã nói rằng:
"Vì Chúa là Thiên
Chúa các ngươi sẽ cho xuất hiện giữa anh em các ngươi một tiên tri như ta, các
ngươi hãy nghe tất cả những điều Ngài sẽ nói với các ngươi. Vậy, tất cả những
ai không chịu nghe theo vị tiên tri đó, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.
"Và tất cả các
tiên tri, từ Samuel và các vị kế tiếp, đều đã nói và tiên báo về ngày này. Anh
em là con cháu các tiên tri và con cháu của giao ước mà Chúa đã thiết lập với
các tổ phụ chúng ta, khi Người phán cùng Abraham rằng: "Chính nơi dòng dõi
ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc". Chính vì anh em trước
tiên mà Thiên Chúa đã cho Con của Ngài xuất hiện và sai đi chúc phúc cho anh
em, để mỗi người từ bỏ tội ác".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 8, 2a và 5.
6-7. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh
Chúa khắp nơi hoàn cầu (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Lạy Chúa, lạy
Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu! Nhân loại là chi mà
Chúa để ý chăm nom? - Ðáp.
2) Chúa dựng nên con
người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh
quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn
vật dưới chân con người. - Ðáp.
3) Nào chiên, nào bò,
thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại
dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! -
Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 24, 35-48
"Ðấng Kitô phải
chịu thương khó như vậy, rồi mới được tôn vinh".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật
lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế
nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán:
"Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối
tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo
nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có
xương thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho
họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây
các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật
ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán:
"Ðúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần
phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách
tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói:
"Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người
sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự
ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các
con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Thầy Ðây Ðừng
Sợ
Vào một ngày nọ, từ mảnh
vườn nhỏ nằm phía sau nhà, bỗng có một tiếng khóc của cậu con trai duy nhất mới
5 tuổi khiến cho cha mẹ cậu lo lắng. Họ vội vàng bỏ dở công việc chạy ra ẵm lấy
cậu bé. Tiếng khóc của cậu nức nở đầy tức tối và tiếc nuối. Vừa khóc, cậu vừa
chỉ vào con rùa nằm bật ngửa bất động: con rùa thân yêu của cậu bé đã chết, làm
cho cậu bé khóc một hồi rồi mới dỗ dành được. Họ hứa sẽ cử hành đám tang con
rùa thật trọng thể. Cha cậu sẽ lấy chiếc hộp sắt đẹp nhất mà bấy lâu nay gia
đình đựng bánh kẹo để làm hòm đựng con rùa. Sau khi chôn cất xong, mẹ cậu sẽ
làm một bữa tiệc để mời bạn bè của cậu và những người đã dự đám tang con rùa.
Tiếng khóc đã biến mất,
thay vào đó là một nụ cười. Ðể trấn an cậu, người cha lại hứa hẹn thêm:
"Ba sẽ dẫn con ra phố và mua cho con chùm bong bóng và những quả bóng tròn
to tướng, mặc sức con vui đùa với chúng bạn. Ðang khi cậu mỉm cười sung sướng với
giấc mơ của mình, thì trước sự ngạc nhiên của mọi người, chú rùa đã lật sấp trở
lại rồi từ từ bò đi. Thấy chú rùa như vậy, cậu bé vội hét lên: "Ba ơi,
chúng ta giết quách con rùa đi cho rồi".
Anh chị em thân mến!
Thái độ đau buồn hoặc
vui mừng của cậu bé trước cái chết của chú rùa thân yêu cũng giúp cho chúng ta
hiểu được tâm trạng của các tông đồ sau cái chết của Thầy mình là Ðức Kitô. Tâm
trạng ấy được thánh Luca tường thuật thật rõ nét trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi Chúa Giêsu đã
chết và xác Ngài được chôn cất trong mồ, các môn đệ rơi vào tình cảnh đau buồn,
tuyệt vọng. Họ ngồi lại với nhau vì sợ người Do Thái; họ ngồi lại với nhau để
than khóc u sầu hơn là đợi chờ hy vọng. Có hai môn đệ không chịu nổi cảnh này
đã bỏ về quê. Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra với hai ông và hai ông vội vã trở
về Giêrusalem báo Tin Mừng. Nhóm còn lại vẫn chưa tin việc Chúa Kitô Phục Sinh.
Rồi Chúa Giêsu lại hiện ra giữa họ, nhưng họ vẫn nghi ngờ là ma, không nghĩ là
Thầy mình. Vì thế, Chúa Giêsu tỏ cho họ thấy thân xác thật sự của Ngài. Họ vẫn
chưa tin, Ngài lại phải xin một miếng cá nướng và ăn uống bình thường với họ và
họ được trấn an.
Tuy nhiên, chỉ khi được
Kinh Thánh soi sáng về ý nghĩa biến cố Tử Nạn và Phục Sinh, chỉ khi được Chúa
Giêsu soi lòng mở trí cho thì các môn đệ mới vững tâm và vui mừng thật sự. Và
chính lúc này Ngài trao cho họ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.
Kitô giáo là tôn giáo
của niềm vui: vui vì được Chúa từ trời cao xuống viếng thăm, vui vì được ban tặng
ơn cứu rỗi, vui vì từ thân phận nô lệ tội lỗi được nâng lên hàng con cái và vui
vì cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đang đón chờ. Một tôn giáo của niềm vui nhưng
đã bị coi là tôn giáo của khổ chế, hy sinh, và thập giá vì cuộc sống của các
thành viên chưa phản ánh đủ căn bản của niềm tin, như các môn đồ được nói đến
trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thực tế, cuộc sống trước
mắt đã khiến cho các Kitô hữu u buồn và bi quan mà quên đi sự cao quí của hy
sinh Thập Giá. Ðau khổ dẫn đến vinh quang. Cái chết trên Thập Giá sẽ mang lại sự
phục sinh khải hoàn. Ðành rằng, con người bị hạn hẹp trong không gian và thời
gian, không thể biến viễn ảnh thành hiện tại.
Tuy nhiên, không phải
vì thế mà viễn ảnh trở thành ảo ảnh phản ánh Phục Sinh vinh quang của Kitô hữu
là nối dài của điểm khởi đầu biến cố Phục Sinh của Ðức Kitô. Ðây là một biến cố
đã được Ðức Kitô báo trước và đã xảy ra và mãi mãi là chất men làm sống dậy những
cuộc sống khác.
Lạy Chúa, trên hành
trình đức tin, nhiều lúc con đã ngại ngùng sợ hãi không dám dấn thân vào con đường
Chúa mời gọi con bước tới. Con đường ấy có quá nhiều chông gai, thử thách. Xin
Chúa cho con hiểu rằng, bên trên các gai nhọn là đóa hồng rực rỡ. Bên trên lớp
mây mù ảm đạm là vầng thái dương huy hoàng. Có được một xác tín như vậy, chắc
chắn cuộc sống của con sẽ là chuỗi ngày vui mừng, hy vọng và tràn trề cậy trông
vào Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Năm Tuần I BNPS
Bài đọc: Acts
3:11-26; Lk 24:35-48.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm thế nào để biết và tin chắc Chúa đã sống lại?
Mỗi năm, vào dịp các
Kitô hữu chuẩn bị kỷ niệm cuộc Thương Khó, cái chết, và sự sống lại của Chúa
Giêsu, các tuần báo Mỹ như Times và Newsweek luôn đặt những câu hỏi giật gân
chung quanh việc sống lại của Chúa như: Chúa Giêsu có thực sự sống lại không?
Không một nhân chứng nào thấy tận mắt lúc Chúa sống lại và ra khỏi mộ! Ngành khảo
cổ không tìm thấy vết tích gì cả về ngôi mộ của Chúa. Tại sao lại có hai nơi đều
nhận là “mộ Chúa” bên Jerusalem? Mục đích của họ là để con người đặt lại niềm
tin vào sự sống lại đời sau, đúng như thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô không sống
lại, niềm tin của chúng ta vô ích.”
Nhưng đi tìm những dữ
kiện quanh ngôi mộ trống là cách thấp nhất để chứng minh sự kiện Chúa sống lại.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những bằng chứng cao hơn. Trong Bài Đọc I,
thánh Phêrô minh chứng sự kiện Chúa sống lại bằng việc làm cụ thể: Ngài dùng
quyền năng của Chúa Kitô phục sinh để chữa lành một người què từ lúc mới sinh,
và minh chứng sự kiện phục sinh đã được các ngôn sứ đề cập đến nhiều lần trong
Kinh Thánh. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trực tiếp hiện ra với các tông đồ, và
Ngài đã ăn uống trước mặt các ông để chứng minh Ngài là người thật, chứ không
phải là ma hay ảo ảnh mà các ông đang sợ hãi. Ngài cũng dùng lời Kinh Thánh để
chứng minh Ngài phải chịu đau khổ và được sống lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phêrô và Gioan chứng minh Chúa đã sống lại thật.
1.1/ Phêrô làm chứng cho
Chúa Phục Sinh bằng việc chữa lành: Phêrô muốn
chứng tỏ với dân 2 điều:
(1) Quyền chữa lành
không đến từ con người: Ông Phêrô lên tiếng nói với dân: "Thưa đồng bào
Israel, sao lại ngạc nhiên về điều đó, sao lại nhìn chúng tôi chằm chằm, như thể
chúng tôi đã làm cho người này đi lại được, nhờ quyền năng riêng hay lòng đạo đức
của chúng tôi?”
(2) Quyền chữa lành đến
từ Đức Kitô:
- Đức Kitô, Người mà
anh em giết đi, đã sống lại: “Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi
Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt
quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống,
nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi
xin làm chứng.”
- Đức Kitô ban cho
Phêrô uy quyền chữa lành: “Chính nhờ lòng tin vào danh Người, mà Người đã làm
cho kẻ anh em nhìn và biết đây trở nên cứng cáp; chính lòng tin Người ban đã
cho anh này được khỏi hẳn như thế, ngay trước mắt tất cả anh em.”
1.2/ Phêrô làm chứng cho
Chúa bằng việc giải thích Kinh Thánh.
(1) Chúa Giêsu phải chịu
khổ hình: Việc các thủ lãnh Do-thái giết Chúa Giêsu không phải là chuyện ngẫu
nhiên xảy ra; nhưng đã được sắp đặt trước bởi Thiên Chúa, và được loan báo trước
bởi hầu hết các ngôn sứ của Người (Isaiah, Jeremiah, Hoseah). Ông Phêrô trấn an
dân: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết,
cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những
điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người
phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người
xoá bỏ tội lỗi cho anh em. Như vậy thời kỳ an lạc mà Đức Chúa ban cho anh em sẽ
đến, khi Người sai Đấng Kitô Người đã dành cho anh em, là Đức Giêsu.”
(2) Chúa Giêsu làm trọn
lời loan báo của các ngôn sứ: Những gì xảy ra cho Đức Kitô khi Ngài sống trên
trần gian, đã được loan báo trước bởi các ngôn sứ; mỗi ngôn sứ loan báo một
khía cạnh của cuộc đời Ngài. Tổng hợp tất cả lời loan báo của các ngôn sứ cho
chúng ta sự hiểu biết về cuộc đời của Ngài. Ông Phêrô liệt kê 3 ngôn sứ trong
trình thuật hôm nay:
- Lời chứng của Moses:
“Từ giữa đồng bào của anh em, Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em sẽ cho trỗi dậy
một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; tất cả những gì vị ấy nói với anh em, anh
em hãy nghe. Kẻ nào mà không nghe ngôn sứ ấy, thì sẽ bị diệt trừ khỏi dân”
(Deut 18:15-20).
- Lời chứng của Samuel
và các ngôn sứ khác: Sau đó, mọi ngôn sứ, kể từ ông Samuel đến các vị kế tiếp,
khi lên tiếng thì cũng đã loan báo những ngày chúng ta đang sống (Lk 1:70).
- Lời chứng mà Thiên
Chúa đã hứa với tổ phụ Abraham: “Nhờ dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ
được chúc phúc” (Gen 22:18, 26:4). Thiên Chúa đã cho Tôi Trung của Người trỗi dậy
để giúp anh em trước tiên, và sai đi chúc phúc cho anh em, bằng cách làm cho mỗi
người trong anh em lìa bỏ những tội ác của mình.
2/ Phúc Âm: Chúa hiện ra với các tông đồ.
2.1/ Chúa chứng minh cho
các tông đồ biết Ngài là người thật: Khi một
người nhìn thấy hồn người chết hiện về, cảm tưởng của họ chắc cũng như các tông
đồ: “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma.” Để chứng minh Ngài là người
thật, Chúa Giêsu làm hai việc:
(1) Cho các ông sờ vào
thân thể Ngài: Người nói với các ông: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em
còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có
xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?" Nói xong, Người đưa tay chân
ra cho các ông xem.
(2) Ăn uống trước mắt
các ông: Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi:
"Ở đây anh em có gì ăn không?" Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng.
Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
2.2/ Chúa chứng minh cho
các tông đồ những lời Kinh Thánh đã nói về Ngài.
(1) Toàn bộ Kinh Thánh
cần thiết để hiểu Đức Kitô: Chúa Giêsu nhắc lại những lời dạy dỗ của Ngài cho
các ông khi Ngài còn ở với các ông: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng
nói với anh em rằng tất cả những gì Sách Luật Moses, các Sách Ngôn Sứ và các
Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." Các ông không thể hiểu
những lời này mà không có Đức Kitô; đồng thời các ông cũng không thể hiểu cuộc
đời Chúa Kitô mà không được soi sáng bởi những lời này.
(2) Tiên-tri Hosea đã
nói về sự sống lại của Ngài: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải
chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Hos 6:2).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đừng bao giờ
để các báo chí lung lạc niềm tin vào Chúa sống lại của chúng ta.
- Có nhiều bằng chứng
về sự kiện Chúa sống lại: những lần Ngài hiện ra với các môn đệ, những phép lạ
các môn đệ nhân danh Ngài là làm, cuộc sống chứng nhân và thay đổi hoàn toàn của
các môn đệ, Kinh Thánh, và những cuộc trở lại của nhiều người. Chúng ta không
chỉ có 2 nhân chứng như Luật đòi, nhưng ức triệu nhân chứng cho sự sống lại của
Chúa Giêsu.
- Lịch sử Giáo Hội hơn
2000 năm qua là bằng chứng hùng hồn Chúa Giêsu vẫn đang họat động và ở lại
trong Giáo Hội giữa bao chống đối, bắt bớ, và tù đày.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
05/04/2018
THỨ NĂM TUẦN BÁT NHẬT PS
Lc 24,35-48
“NHỮNG BÓNG MA TRONG ĐỜI”!
Nhưng Người nói:
“Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính
Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có
đây?” (Lc 24,38-39)
Suy niệm: Con người
là một tạo vật bé nhỏ và yếu đuối trong một vũ trụ bao la, với biết bao sức mạnh
khủng khiếp của thiên nhiên, của thú dữ, của súng đạn, của lòng người, của thần
chết… Những nỗi sợ hãi đó trở thành những “bóng ma” ám ảnh tâm trí hoặc đe dọa
sự an toàn của cuộc sống. Người tông đồ, người tín hữu của Chúa cũng không
thoát khỏi căn bệnh “sợ ma” đó. Tệ hại nhất là “những bóng ma” đó đã làm lung lạc
đức tin của họ, để rồi họ “lạc mất” Chúa, không còn nhớ Lời Chúa đã dạy, và
không còn nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời. Đức Ki-tô quả quyết
chính Ngài đã chết nhưng đã sống lại và luôn hiện diện và “ở cùng chúng
ta mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Mời Bạn: Đức Ki-tô đã chết, nhưng
Ngài đã sống lại như lời Ngài đã phán. Ngài đã chiến thắng tử thần – “bóng ma
vĩ đại nhất”, để đem lại niềm tin, sự sống lại và sống dồi dào cho ta. Từ nay,
nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, ta sẽ không còn nỗi sợ hãi nào hết, nếu ta biết
đặt đời ta trong sự quan phòng yêu thương của Ngài.
Chia sẻ: ĐGH Bê-nê-đi-tô XVI nói: “Thiên Chúa im lặng, không có
nghĩa là Ngài vắng mặt.” Sự hiện diện và can thiệp của Chúa thể hiện theo một
cung cách khác. Chỉ với đức tin trong sáng, ta mới có thể “sáng mắt” để nhận ra
Ngài.
Sống Lời Chúa: Sốt sắng tham dự Thánh lễ
trong tuần Bát Nhật này, để xin ơn đức tin.
Cầu nguyện: Hát: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi còn thiếu gì? Chúa
bảo vệ tôi, lẽ nào tôi còn sợ chi, còn sợ ai”.
(5 phút Lời Chùa)
Anh em là chứng nhân (5.4.2018 – Thứ năm trong Tuần Bát nhật Phục sinh)
Chuyện Ðức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ thì người ta có thể gặp được Ðấng đang sống.
Suy niệm:
Sợ ma không phải chỉ là
chuyện của trẻ con.
Cả người lớn như các tông
đồ cũng sợ ma.
Có lần Ðức Giêsu đi trên
mặt nước mà đến với họ,
nhưng họ kinh hoàng tưởng
Thầy là ma.
Khi Ðức Giêsu phục sinh
hiện ra với các môn đệ,
họ cũng hoảng hốt tưởng
là thấy ma.
Ðấng sống lại đã kiên
nhẫn làm hết cách
để đưa các môn đệ ra khỏi
nỗi ám ảnh kinh khủng.
Ngài mời họ xem và đụng
đến tay chân Ngài
để thấy Ngài là người
bằng xương bằng thịt.
Ngài còn ăn một miếng cá
nướng
để cho họ thấy Ngài không
phải là một bóng ma.
Khi các môn đệ yếu đức
tin,
họ coi Ðức Giêsu phục
sinh chỉ là bóng ma.
Nhưng khi đức tin của họ
được củng cố,
họ mới thấy Ngài có thực.
Lắm khi chúng ta vẫn
tưởng Chúa là bóng ma đe dọa,
vì Chúa đến gặp ta một
cách quá bất ngờ,
giữa lúc con thuyền đời
ta chòng chành vì gió ngược,
hay lúc căn nhà lòng ta
khép kín vì nỗi buồn đau.
Chúa vẫn đến lúc ta tưởng
Ngài không thể đến.
Ngài mời gọi ta làm chứng
nhân cho Ngài.
Kitô hữu là chứng nhân
của niềm hy vọng.
Ðức Giêsu bị đóng đinh đã
sống lại ra khỏi mồ.
Bạo lực, bất công, dối
trá, hận thù bị thảm bại.
Quyền lực của bóng tối
chỉ là tạm thời.
Chiến thắng cuối cùng
thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.
Bởi thế người Kitô hữu
vẫn hy vọng không ngơi
ngay giữa lúc sự dữ có vẻ
thắng thế.
Kitô hữu là chứng nhân
của sự sống.
Thế giới hôm nay bị mê
hoặc bởi sự chết.
Những cuộc chiến tranh,
xung đột, ám sát, bạo động.
Những loại ma tuý khiến
người ta chết không ra người.
Những vụ phá thai quá dễ
dàng nơi các cô gái trẻ.
Những vụ tự tử chỉ vì
những lý do không đâu.
Kitô hữu phải làm cho sự
sống có mặt,
và hấp dẫn gấp ngàn lần
sự chết.
Họ phải là nguồn sống dồi
dào,
sống đơn sơ, thanh bạch,
nhưng hạnh phúc.
Kitô hữu là chứng nhân
của niềm vui.
Bao trẻ thơ buồn vì thiếu
thầy cô, thiếu trường học.
Bao bệnh nhân ở xa thành
phố, cần đến thầy thuốc.
Bao người nghèo khổ sống
trong nỗi muộn phiền.
Nếu chúng ta thực sự có
niềm vui của Chúa,
nếu chúng ta đã ra khỏi
nỗi âu lo về mình,
chắc chúng ta sẽ ra đi
công bố Tin Mừng Phục Sinh,
bằng việc đem lại nụ cười
cho những người bất hạnh.
Chuyện Ðức Giêsu phục
sinh là chuyện khó tin.
Nhưng nếu chúng ta sống
quên mình phục vụ
thì người ta có thể gặp
được Ðấng đang sống.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới
chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,
xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,
xin cho con đừng thu tích
của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,
xin cho con biết quý
trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,
xin cho con biết xây lại
niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được
cơn đói đang giày vò bao
người,
xin cho con nghe được lời
mời của Chúa:
“Các con hãy cho họ ăn
đi.”
Ước gì chúng con dám trao
tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có
cho chúng con và cho cả nhân loại.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG TƯ
Nhìn Bằng Con Mắt Đức
Tin
Các Tông Đồ xác nhận với
chúng ta rằng Thiên Chúa đã nâng Đức Giêsu dậy, và Người đã được nhìn thấy –
“không phải bởi toàn dân, mà bởi chúng tôi là những chứng nhân đã được Thiên
Chúa tuyển chọn từ trước” (Cv 10,41).
Khi Đức Giêsu hiện ra,
Người trao cho các Tông Đồ nhiệm vụ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho mọi người
về Đức Kitô chịu đóng đanh và sống lại từ cõi chết. Đức Kitô sẽ hiện diện bất cứ
nơi đâu mà tin mừng của những thị chứng nhân này được đón nhận và được tin.
Chỉ một vài người đã
nhìn thấy Đấng Phục Sinh, nhưng tất cả mọi người đều được mời gọi tin vào Người
bởi vì – theo lời chứng của Thánh Kinh – hết thảy mọi người đều được mời gọi nhận
ơn cứu độ, và do đó được mời gọi đón nhận đức tin. Đó là lý do tại sao Đức Kitô
quở trách thái độ cứng lòng của Tô-ma và Người chúc phúc cho tất cả những ai sẽ
khám phá ra Đức Kitô duy chỉ nhờ lời chứng của sứ điệp đức tin: “Vì anh đã
trông thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga
20,29).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 05/4
THỨ NĂM TRONG TUẦN
BÁT NHẬT PHỤC SINH
Cv 3, 11-26; Lc 24,
35-48.
LỜI SUY NIỆM: “Có lời Kinh
Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống
lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu
gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều
này.”
Lời Chúa Giêsu đang
nói với mỗi người trong chúng ta: trước hết phải biết về Người, muốn biết về
Người chúng ta phải chuyên cần học biết với đức tin, cùng sự hướng dẫn của Hội
Thánh Tông Truyền, để khi giới thiệu Chúa cho người khác không bị sai lạc và cuối
cùng sẵn sàng làm chứng về những gì mình đã tin với sự hiểu biết mà mình đã được
học.
Lạy Chúa Giêsu, sứ vụ
chứng nhân cho Chúa giữa muôn dân, là bổn phận của mỗi người trong chúng con,
xin Chúa ban ơn đức tin với sự khôn ngoan, hiểu biết và sự can đảm để chúng con
luôn sẵn sàng làm chứng có Chúa và sự quan phòng của Chúa cho toàn thể vũ trụ
này.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 05-04
Thánh VINCENTE
FERRIO
Linh Mục (1350 -
1419)
Đối với tín hữu Việt
Nam, thánh Vincentê Ferriô đã thường được khấn như vị thánh hay làm phép lạ. Cuộc
đời của vị tông đồ Âu Châu, vinh quang của Giáo hội, vinh dự của dòng giảng
thuyết này cũng rất lạ lùng, Ngài chào đời tại Valentia nước Tây Ban Nha ngày
23 tháng 01 năm 1350. Mặc dầu gia đình giàu có, nhưng thân mẫu thánh nhân đã muốn
tự mình nuôi dưỡng con.
Lên sáu tuổi, Vincentê
cắp sách đến trường và đã tỏ ra có nhiều ân huệ đặc biệt. Còn là một con trẻ
ngây thơ nhưng Ngài đã có sức hấp dẫn lạ lùng. Bạn trẻ thường vây kín quanh
Ngài để tham dự một trò chơi diễn lại bài giảng ở nhà thờ. Vincentê luôn diễn
giảng chính xác và hùng hồn một cách đáng ngạc nhiên. Mười hai tuổi thánh nhân
theo môn triết học, mười bốn tuổi Ngài học thần học. Người ta kể rằng vào lúc
này, đã một lần thánh nhân làm cho một đứa trẻ đã chết sống lại. Câu chuyện xảy
ra khi những đứa bạn xấu bày trò chết giả và xin Vincentê thương giúp. Nhưng đứa
giả chết lại chết thật làm chúng phải kinh hoàng. Đáp lời van xin khẩn thiết của
chúng, thánh nhân đã cầu nguyện rồi cầm tay đứa chết cho nó sống lại.
Lên mười bảy tuổi,
Vincentê đã được các giáo sư coi như ngang hàng với mình. Đây là lúc Ngài phải
quyết định hoặc làm giáo sư tại Roma và lập gia đình, hoặc là theo đuổi lý tưởng
tu dòng. Thánh nhân đã quyết định gia nhập dòng thánh Đaminh. Đầy xúc cảm và
hãnh diện, ngày 05 tháng 02 năm 1367, ông thân sinh đã dẫn Ngài tới cha bề trên
dòng Đaminh ở Valentina.
Nhưng chưa được một
năm, thân mẫu Ngài lại luyến tiếc tương lai rực sáng của con, và đã cố gắng đưa
con trở về lại thế gian. Thoạt đầu Vincentê có cám dỗ, nhưng sau đó Ngài đã thốt
lên câu nói làm đà tiền cho suốt cuộc đời: - Lạy Chúa, con chọn Chúa mãi mãi.
Ngài được đưa về
Barcelona và năm1370 đã trở thành giảng viên triết học tại dòng Đaminh ở tại
Lerida. Năm 1373, khi trở lại Barcelona để học tiếng Ả rập và Do thái Ngài đã
trở thành nhà giảng thuyết lừng danh.
Năm 1377, Vincentê được
gọi sang Toulouse để học thêm. Mới đây Ngài kéo được sự chú ý của đức hồng y
Pedro da Luna, vị đại diện của phản giáo hoàng tương lai ở Avignon. Từ năm 1385
tới năm 1930 thuyết giảng thần học ở nhà thờ chính toà Valentina và sau đó vào
nhóm với Hồng Y Pedro Da Luna. Ngài nhiệt tâm rao giảng nhất là cho dân Do thái
và dân Mô (Maures). Ngài đã cải hóa được một thày Rabbi ở Valladolid, người sau
này trở thành giám mục Phaolô miền Burgos và cùng với thánh nhân can đảm trong
nỗ lực cải hoá người Do thái ở Tây Ban Nha. Từ năm 1391 Yolanda ở Aragon. Thời
kỳ này, Ngài bị tra vấn vì rao giảng sự thống hối. Pedro Da Luna, người đã được
chọn làm giáo hoàng Benedictô XIII ở Avignon đã cứu Ngài khỏi bị xử án và mời
Ngài về giáo triều làm cha linh hướng và cha giải tội.
Tỉnh ngộ trước những nỗ
lực nhằm hàn gắn sự phân rẽ giữa Roma và Avignon, thánh Vincentê được thị kiến
thấy Chúa Giêsu ở giữa thánh Phanxicô và thánh Đaminh sai đích danh Ngài đi rao
giảng sự thống hối. Tháng 11 năm 1399 được Đức Bênêdictô XIII cho phép làm việc
này, Ngài đã rao khắp miền Tây Âu để rao giảng cho tới ngày lìa trần. Từng đoàn
hối nhân từ 3000 tới 10.000 người theo Ngài và đánh tội.
Năm 1416, Ngài rút lại
sự ủng hộ của mình và của vương quốc Aragon đối với Đức Bênêdictô XIII vì vị phản
giáo hoàng ở Avignon không nghiêm chỉnh để hàn gắn sự phân rẽ khi từ chối đòi hỏi
thoái vị công đồng Constance đưa ra. Quyết định của thánh Vincentê có ảnh hưởng
tới việc thoái vị của Đức Bênedictô và giúp dễ dàng chấm dứt sự phân rẽ.
Thành quả thánh
Vincentê thực hiện được thật lớn lao. Đối lại, thánh nhân đã phải chịu biết bao
nhiêu là đau khổ thử thách. Chúng ta đã nói đến thử thách buổi đầu khi Ngài chọn
đời sống hiến dâng. Lời vu oan đuổi theo từng bước chân Ngài và các tội nhân cứng
lòng tìm hết cách để tiêu diệt Ngài. Chúng ta nhắc lại đây hai trường hợp:
- Một phụ nữ dâm
dật lẻn vào phòng Ngài, nhưng thánh nhân thay vì chiều theo những đề nghị của
chị ta, đã giảng giải cho chị biết rõ sự nguy hiểm bị hư mất đời đời, khiến chị
ta quỳ gối dưới chân Ngài xin lỗi rồi rút lui vào một tu viện để đền tội.
- Một phụ nữ khác
giả bệnh để mời Vincentê đến. Vừa thấy Ngài tới phòng, chị ta không một chút hổ
thẹn đã tỏ rõ ý định của mình. Thánh nhân lập tức rút lui. Giận dữ chị ta vu
cáo rằng: thánh nhân đã dám xâm phạm tiết hạnh chị. Nhưng về sau chị đã thú nhận
tất cả và công khai đền tội.
Vượt qua được những thử
thách, thánh Vincentê còn có những bí quyết để thành công, chẳng hạn trong việc
học hành Ngài cho biết: - "Muốn thành công trong việc học hành hãy tham khảo
thánh kinh hơn là sách vở. Hãy khiêm tốn xin Chúa ơn được thông hiểu điều bạn đọc,
học hành làm mệt trí và làm khô cứng cõi lòng. Bạn thường xuyên đến dưới chân
Chúa Giêsu để phục hồi sinh lực".
Thực hiện lời khuyên của
mình, thánh nhân dọn bài giảng dưới chân thánh giá, kèm theo những hành vi sám
hối cực khổ. Khi nói với dân chúng Ngài lại quỳ trước thánh giá như thể mọi
vinh dự chỉ thuộc về Chúa Kitô mà thôi.
Cuộc đời luôn ướp đặm
trong tình yêu Chúa, khiến Ngài được ví như thiên thần Chúa trong buổi lễ Hiện
xuống: để trả lời cho đám đông dân chúng nhiều miền khác nhau ngạc nhiên vì hiểu
được Ngài, Ngài nói: - Tôi nói tiếng mẹ đẻ của tôi, thứ tiếng độc nhất mà tôi
biết với một ít tiếng Latinh và tiếng Do thái. Vậy chính Thiên Chúa thân hành
giúp các bạn hiểu được.
Các thôn xóm nào đông
mỗi khi nghe tin thánh Vincentê sắp đến : công nhân nghỉ việc, thương gia đóng
cửa tiệm buôn, thầy dạy bãi khóa... để đi nghe giảng bất kễ trời mưa hay nắng.
Thánh nhân nhiệt tâm nói về sự chết và hỏa ngục. Nhiều tiếng khóc than nức nở cắt
ngang lời Ngài khiến Ngài cũng phải khóc theo. Người ta nói rằng nhiều tội nhân
nghe lời giảng của Ngài đã ngã chết vì đau đớn rồi hiện về cho biết lòng thống
hối đã làm cho họ đáng được hưởng Nước thiên đàng.
Chấm dứt bài giảng,
thánh nhân tiếp tục ngồi tòa để phục sinh các tâm hồn.
Hay nói về sự chết và
hỏa ngục nhưng thánh nhân cũng thường dùng tính hài hước để sửa dạy các tâm hồn.
Ngày nay người ta còn nhắc lại mãi câu chuyện của một phụ nữ. Nàng đau buồn nhiều
vì tính nóng nảy của chồng, nhưng không biết dẹp tính bép xép của mình. Thánh
nhân khuyên nhủ nàng : - Đây là phương thế có thể sửa đổi tính nóng của chồng
chị. Ra về chị hãy xin thày giữ cửa một bình kín ở giếng nhà dòng. Mỗi khi chồng
về nhà, chị hãy uống một ngụm, nhưng đừng đừng nuốt ngay và ngậm càng lâu càng
tốt. Giữ mãi được như vậy, chồng chị sẽ hiền lành như một con chiên.
Sau một thời gian kết
qủa thật khả quan. Người chồng hoàn toàn thay đổi và người phụ nữ tới cảm ơn
thánh nhân, vì phương dược thần hiệu đã tiêu diệt được mọi cuộc cãi vã. Phương
ngôn Tây Ban Nha còn nói: - Hãy uống nước Thày Vincentê
Một người trong cơn thù
hằn đã không muốn tha thứ cho người thợ đóng giày. Thánh nhân bảo: - Hãy tha thứ
cho chính mình. Ông đang gậm nhấm lòng mình vì không quan tâm đến linh hồn hư mất
trong khi vẫn ăn uống và phí phạm thời gian.
Người đó đành thú nhận
: - Vâng, tôi hiểu rằng: ghen ghét như vậy là khùng.
Ngoài nhiệt tình và
tài hùng biện đã mang lại thành công cho thánh Vincentê, còn phải kể đến những
phép lạ mà Chúa đã làm qua tay thánh nhân. Ngài đã làm vô số những phép lạ. Chỉ
nguyên việc điều tra ở Avignon và một vài thành phố khác cũng ghi lại được hơn
860 phép lạ thánh nhân đã làm. Chúng ta ghi một vài sự kiện:
- Ở Morella,
thánh Vincentê đã cứu sống một đưá trẻ mà người mẹ nó trong một cơn điên, đã giết
rồi đem nướng.
- Ở Pampeluna
Ngài đã dạy một người bị xử tử oan uổng nói lên sự thật.
- Ở Vannes Ngài
đã bảo một em bé da đen mới sinh nói rõ ai là cha mình, để giải tỏa nỗi lòng
đau khổ của người mẹ vì bị chồng nghi ngờ... tuy nhiên chính cuộc sống của
thánh Vincentê đã là một phép lạ với những chuyến đi khắp nơi bất kể thời tiết
và với việc ăn chay, cuộc sống khắc khổ không ngừng.
Năm 1417 bá tước miền
Bretanghe mời thánh nhân tới lãnh điạ của mình. Giữa cuộc tiếp rước long trọng,
Ngài đã yếu đuối khó đứng vững nổi, nhưng mỗi khi làm việc, một sinh lực mới
khiến Ngài hăng hái hoạt động như hồi thiếu niên, để rồi khi xong việc sức lực
Ngài lại tàn tạ như cũ. Ròng rã hai mươi tháng như vậy, thánh nhân đã nỗ lực cải
hoá miền Bretagne và Normandie.
Cuối cùng Ngài mới trở
về Valentia. Nhưng tới Valentia Ngài kiệt sức và qua đời ngày 05 tháng 04 năm
1419.
(daminhvn.net)
05 Tháng Tư
Chiếc Bong Bóng Bay
Câu
chuyện được thuật lại xảy ra tại vùng Nam Italia, nơi dân chúng không được sung
túc cho lắm, so với những vùng khác. Câu chuyện trên mang tựa đề là : "Chiếc
bong bóng bay màu hồng".
Chiếc
bong bóng này là kết quả của sự góp nhặt và tiết kiệm từng xu của Beppo, một em
bé lên tám. Hôm ấy, trong lúc các trẻ đồng tuổi cắp sách đến trường, Beppo chốn
học, chạy nhanh lên ngọn đồi để thả chiếc bong bóng màu hồng bay lên không
trung. Cùng với chiếc bong bóng, Beppo cẩn thận cột bức thư nó đã nắn nót viết
từng chữ như sau: "Chúa ơi, vài tuần nữa con sẽ có một đứa em. Gia đình
con đã có sáu anh em, nhưng cha mẹ con nghèo lắm. Nhà cửa chật chội và không có
đủ giường chiếu, nên chúng con phải ngủ chung ba đứa một giường. Lần này con
không xin gì cho con, nhưng con xin Chúa cho đứa em sắp sinh của chúng con một
ít quần áo và tã, quần áo xài rồi cũng được. Nhà con ở làng Arcol miền Nam nước
Italia. Con tên là Beppo Sala".
Sau
khi thả chiếc bong bóng hồng mang bức tâm thư lên trời, Beppo đứng ngước mắt
nhìn lên trời mãi đến khi chiếc bong bóng mất hút trong đám mây, nó mới thơ thẩn
đi về nhà.
Những
ngày sau đó là những ngày tháng hồi hộp nhất đời của Beppo. Nhưng nó vẫn tiếp tục
hy vọng và cầu nghuyện. Sáu ngày nặng nề trôi qua, nhưng một buổi kia, lúc đang
chơi với các trẻ khác cùng xóm, Beppo thấy người giao bưu phẩm mang vào nhà một
thùng quà. Nó hồ hởi chạy nhanh về và nghe cha nó đang lớn tiếng cãi vã với
nhân viên bưu điện: "Chắc anh lầm rồi, tôi đâu có quen ai ở thành Rovigo.
vả lại chúng tôi đào đâu ra tiền để mua quà cáp". Người giao bưu phẩm phân
trần: "Món hàng đề tên và địa chỉ nhà ông, nếu không phải gửi cho ông thì
còn gửi cho ai nữa? Ông nhận nhanh lên, tôi còn phải đi giao nhiều món hàng nữa
chứ có phải chỉ có thùng này thôi đâu". Cha của Beppo trả lời: "Thôi
đi ông ơi, nhận hàng không phải của mình để rồi sau đó mang họa, làm gì có tiền
mà bồi thường".
Thấy
câu chuyện dai dẳng, Beppo bạo phổi nói xen vào: "Thì cha cứ mở ra xem thử,
nếu không phải là của mình thì mình gói trả lại".
Thùng đồ được mở ra, thấy toàn đồ cho trẻ sơ sinh.Nào tã, nào những chiếc áo nhỏ tí ti, nào băng rốn.Người gửi không quên gói vào hai hộp phấn và một lố những chiếc kim tây. Mắt của mẹ Beppo bừng sáng lên.Beppo cảm thấy vui như ngày tết, vui nhất là người gửi đồ không đề địa chỉ nên không thể gửi trả lại. Nó chạy nhanh ra ngọn đồi, nơi nó thả chiếc bong bóng màu hồng sáu ngày trước đây. Ðến nơi nó ngước mắt nhìn trời, miệng thì thầm: "Chúa ơi, con cám ơn Chúa".
Tuổi
trẻ thường được gọi là tuổi thơ, mà nói đến thơ là nói đến mộng. Trẻ thơ thường
có những mơ ước đơn sơ: mong bắt được nhiều dế, mơ con diều mình đang thả được
bay cao, mong cho mình khéo tay ăn được nhiều đạn trong cuộc chơi bi, mơ đội
banh mình được thắng trong cuộc đá bóng sắp tới. Nhưng đã có những mái đầu xanh
đã bắt đầu lo lắng cho cha mẹ, cho anh chị em như trong trường hợp của em bé mới
lên tám tuổi Beppo.
Theo cha Michel Bonnet, đã từng truyền giáo tại Nhật bản và nay đang làm cho phong trào quốc tế đặc trách mục vụ cho trẻ em, thì tại Á Châu, số trẻ emvì hoàn cảnh gia đình hay xã hội bắt buộc phải làm những công việc nặng nhọc vượt qua tuổi của chúng nhiều hơn là số trẻ em được cắp sách đến trường.
Cũng theo cha Bonnet, đã đến lúc các tín hữu phải đọc dòng Phúc Âm mà mọi người
đều thuộc nằm lòng, nhưng với cái nhìn khác: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng
Ta, chớ ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng".
Và
cha Bonnet đề nghị: câu Phúc Âm trên tạo dịp cho chúng ta thấy Chúa Giêsu trong
những trẻ con bị cưỡng bách phải làm việc nặng nhọc. Qua các em, Chúa Giêsu
cũng nói với chúng ta: "Hãy đến và theo Ta".
Trích sách Lẽ Sống
Lectio Divina: Luca 24:35-48
Thứ Năm trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy Thiên Chúa Toàn Năng và là Cha của chúng con,
Chúa Giêsu đã chết cho chúng con trên cây thập giá
Và Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết.
Chúng con đã không nhìn thấy những dấu đinh nơi tay của Người
Cũng không chạm vào vết thương nơi cạnh sườn của Người,
Nhưng chúng con tin rằng Người đang sống
Và hiện diện tại đây ở giữa chúng con.
Xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con cho Lời của Người
Và hãy cho chúng con động chạm đến Người trong bánh của Bí Tích Thánh Thể,
Để Người có thể cho chúng con sống lại từ tội lỗi của chúng con
Và hoán cải chúng con thành những con người mới.
Để từ đó chúng con có thể làm chứng cho Đấng Phục Sinh, Con của Chúa,
Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2.
Bài Đọc Tin Mừng – Luca 24:35-48
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông
đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: “Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ”. Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: “Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”. Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: “Ở đây các con có gì ăn
không?” Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Đoạn Người phán: “Đúng như lời Thầy đã nói với các con khi
Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môisen, trong sách tiên tri và thánh vịnh”.
Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. Người lại nói: “Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”.
3.
Suy Niệm
–
Trong những ngày sau lễ Phục Sinh, các văn bản của Tin Mừng thuật lại các cuộc hiện ra của Chúa Giêsu. Lúc đầu, vào những năm đầu tiên sau cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, các Kitô hữu đã lo bênh vực về việc Phục Sinh nhờ các cuộc hiện ra. Chính họ, cộng đoàn sống động, là một cuộc hiện ra tuyệt vời của Chúa Giêsu Phục Sinh. Nhưng trong phạm vi mà lời chỉ trích của những kẻ đối đầu lại niềm tin vào Chúa Phục Sinh tăng lên, và trong nội bộ, đã phát sinh những lời chỉ trích và nghi ngờ liên quan đến các nhiệm vụ khác nhau trong cộng đoàn (xem 1Cl 1:12), họ bắt đầu nhớ lại những cuộc hiện ra của Chúa Giêsu. Có hai loại hiện ra: (a) với những ai nhấn mạnh đến sự nghi ngờ và chống đối của các môn đệ trong việc tin vào sự Phục Sinh, và (b) với những người kêu gọi sự chú ý đến các mệnh lệnh của Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ – nam cũng như nữ – trao một số sứ vụ cho họ. Phản ứng đầu tiên đối với sự chỉ trích đến từ bên ngoài. Những điều này cho thấy rằng các Kitô hữu không phải là người ngây thơ và cả tin là những người chấp nhận tất cả mọi thứ và bất cứ điều gì, trái lại là đàng khác. Chính bản thân họ cũng đã có nhiều nghi ngờ trong việc tin vào sự Phục Sinh. Những người khác phản ứng lại với sự chỉ trích từ bên trong và đã tìm thấy chức năng và nhiệm vụ của cộng đoàn, không chỉ dựa trên phẩm chất của loài người là những điều luôn gây tranh cãi, mà là dựa trên thẩm quyền và các mệnh lệnh nhận được từ Chúa Giêsu Phục Sinh. Các cuộc hiện ra của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay kết hợp hai khía cạnh khác nhau: những nghi ngờ của các môn đệ và sứ vụ đi loan báo và ơn tha thứ nhận được từ Chúa Giêsu.
–
Luca 24:35: Tóm tắt câu chuyện trên đường Emmau. Quay trở lại Giêrusalem, hai môn đệ đã gặp được cộng đoàn và họ chia sẻ với nhau về kinh nghiệm mà họ đã trải qua. Các ông kể cho nhau
về những gì đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Cộng đoàn tụ họp nhau lại, lần lượt, chia sẻ việc hiện ra của Chúa Giêsu với ông Phêrô. Đây là một sự chia sẻ lẫn nhau về kinh nghiệm của sự Phục Sinh, vì nó cũng xảy ra ngày nay khi các cộng đoàn tụ họp nhau lại để chia sẻ và tuyên xưng đức tin, niềm cậy trông và lòng yêu mến của họ.
–
Luca 24:36-37: Việc hiện ra của Chúa Giêsu gây sợ hãi nhiều cho các môn đệ. Vào lúc ấy, Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: “Bình an cho các con!” Đây là lời chào hay gặp nhất của Chúa Giêsu: “Bình an cho các con!” (Ga 14:27; 16:33; 20:19,21,26). Nhưng các môn đệ đã sợ hãi khi thấy Chúa Giêsu và đã không nhận ra Người. Đứng trước mặt các ông là Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt, nhưng các ông lại nghĩ rằng mình
đang nhìn thấy ma, một hồn ma bóng quế. Các ông không thể tin được. Đó không phải là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Nagiarét và Chúa Giêsu Phục Sinh.
–
Luca 24:38-40: Chúa Giêsu giúp cho các ông vượt qua nỗi sợ hãi và sự nghi ngờ. Chúa Giêsu làm hai việc để giúp các môn đệ vượt qua nỗi sợ hãi và sự không tin. Người cho các ông xem tay chân của Người và nói rằng: “Chính Thầy đây!” và bảo các ông hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây!” Chúa Giêsu cho các ông xem tay và chân của mình bởi vì trên đó còn có các dấu đinh (xem Ga 20:25-27). Chúa Kitô Phục Sinh chính là Đức Giêsu Nagiarét, cũng là người đã bị đóng đinh trên thập giá và không phải là một hồn ma Kitô như các môn đệ tưởng tượng, khi các ông trông thấy Người. Người bảo các ông hãy chạm vào người mình, bởi vì sự Phục Sinh là Phục Sinh của cả con người, thể xác lẫn linh hồn. Sự Phục Sinh không có liên hệ gì tới lý thuyết về linh hồn bất tử, mà người Hy Lạp đã dạy.
–
Luca 24:41-43: Cử chỉ khác để giúp các ông vượt qua sự nghi ngại. Nhưng việc sờ chạm vào người vẫn chưa đủ! Luca nói rằng các ông đã không thể tin bởi vì niềm vui mừng của các ông đã lớn lao đến nỗi mà họ đã chết lặng. Chúa Giêsu hỏi các ông “Ở đây các con có gì ăn không” Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và Người ăn trước mặt các ông, để giúp các ông vượt qua sự nghi ngờ.
–
Luca 24:44-47: Chìa khóa bài đọc để hiểu được ý nghĩa mới của Kinh Thánh. Một trong những khó khăn lớn nhất của các Kitô hữu tiên khởi là chấp nhận việc Đấng chịu đóng đinh là Chúa Cứu Thế đã được hứa, bởi vì Luật dạy rằng người bị đóng đinh là “kẻ bị Thiên Chúa nguyền rủa” (Đnl 21:22-23). Vì lý do này, điều quan trọng là phải biết rằng Kinh Thánh đã loan báo từ trước “Đức Kitô phải chịu khổ hình và sống lại từ cõi chết vào ngày thứ ba và nhờ vào danh Người, việc hoán cải và lãnh ơn tha tội sẽ được rao giảng cho muôn dân”. Chúa Giêsu cho các ông thấy rằng điều này đã được viết trong Luật Môisen,
trong sách các tiên tri và trong các Thánh Vịnh. Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, sống ở giữa các ông, trở thành chìa khóa để mở ra cho các ông ý nghĩa hoàn toàn của Kinh Thánh.
–
Luca 24:48: Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy. Trong huấn lệnh cuối cùng này được gói ghém toàn bộ sứ vụ của cộng đoàn Kitô hữu: làm nhân chứng cho sự Phục Sinh, theo cách mà tình yêu Thiên Chúa chấp nhận chúng ta và tha thứ cho chúng ta sẽ được thể hiện, và muốn chúng ta sống trong cộng đoàn như con cái trong cùng một nhà, là anh chị em với nhau.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Có
những lần, sự cứng lòng và nghi ngờ trong lòng và làm suy yếu điều mà đức tin ban cho chúng ta liên quan đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta. Bạn đã có bao giờ sống như thế này chưa? Làm thế nào mà bạn đã vượt qua được điều đó?
– Sứ vụ của chúng ta, và cũng là sứ vụ của tôi, là làm chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa mặc khải trong Đức Giêsu. Tôi có phải là một chứng nhân cho tình yêu này không?
5.
Lời nguyện kết
Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
Muôn trăng sao Chúa đã an
bài,
Thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
Phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?
(Tv 8:4)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét