27/10/2019
Chúa Nhật 30 Thường
Niên năm C
(phần II)
Phụng Vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật 30 Thường niên năm C
Hc
35,12-14.16-18; 2 Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14
THIÊN CHÚA ỦI AN VÀ BÊNH VỰC KẺ NGHÈO HÈN KHIÊM HẠ
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Hc 35,12-14.16-18)
- Thiên Chúa lắng
nghe lời kêu xin của kẻ nghèo hèn (cc. 12-14.16). Đây là một chủ đề
căn bản trong Cựu ước. Người không đón nhận những hy lễ được dâng kèm với những
bất công xã hội. Vì thế, việc dâng lên Thiên Chúa những hy lễ với mục đích mong
Người không giáng phạt vì những điều này là một sai lầm, bởi chính Thiên Chúa
là Đấng công minh, chính trực, không thiên vị ai. Nếu thiên vị, thì Người thiên
vị với kẻ nghèo hèn và bị áp bức. Nhưng đây không thể gọi là thiên vị, mà là
công lý tối thượng của Thiên Chúa.
- Người nghèo
kiên trì trong lời cầu nguyện (cc. 17-18). Chính sự nghèo khổ đã mang
lại cho con người sức mạnh và lòng kiên nhẫn nài xin Thiên Chúa. Lời cầu khẩn đầy
niềm tin và hy vọng có thể mang dáng dấp của sự phản kháng và ước mong thực thi
công lý. Vì thế, “họ sẽ không rời đi bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn,
chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý” (c.18). Bao lâu chúng
ta còn kiên trì cầu nguyện xin ơn giải thoát khỏi bất công, khi đó chúng ta còn
biết tránh xa việc bắt tay với nó; ngược lại, bất hạnh thay nếu chúng ta không
còn biết kêu van trước những bất công của cuộc đời!
2. Bài đọc II (2 Tm 4,6-8.16-18)
Bức thư này có thể được
gọi là chúc thư thiêng liêng của vị Tông đồ, bởi ngài viết trong những lúc cuối
đời của mình. Đặc biệt, trong phần biện bạch của đoạn trích hôm nay, là phần
cuối của bức thư, thánh Phaolô đã nói về cái chết gần kề của ngài (c. 6), để an
ủi Timôthê, và khuyến khích ông cùng bắt chước ngài, và thánh nhân khẳng định rằng
mình “đã chiến đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp”, và đang “chờ đợi vòng hoa” vinh
quang mà Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Người. Bên cạnh đó, thánh nhân
cũng thổ lộ về tình trạng cô độc, bị bỏ rơi của mình (c. 16), nhưng Thiên Chúa
luôn ở bên cạnh nâng đỡ ngài (c. 17). Có thể nói, trong kinh nghiệm của thánh
nhân, buồn sầu, khổ đau, ngục tù rồi sẽ qua đi, điều thiết yếu là sự ủi an,
nâng đỡ vô cùng lớn lao của Thiên Chúa trong lúc gian truân.
3. Bài Tin Mừng (Lc 18,9-14)
Dụ ngôn này của thánh
Luca có thể được hiểu ở hai khía cạnh:
Một lời giáo huấn về
cầu nguyện
Người Pharisêu tạ ơn
Chúa, và điều này thật tốt đẹp. Nhưng ông ta so sánh mình với những người khác
và tỏ thái độ khinh chê, xem thường người thu thuế đang bên cạnh ông. Trong lời
cầu nguyện, ông đề cao bản thân, và đây là thái độ cầu nguyện không chuẩn
mực. Còn người thu thuế chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình, và mở lòng ra
trước Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể tha thứ tội lỗi cho con người.
Một lời giáo huấn về
sự công chính
Đây là chủ đề trọng
tâm, được đặt ngay lúc khởi đầu dụ ngôn, nhắm đến “một số người tự hào cho mình
là công chính mà khinh chê người khác”.
Người Pharisêu, với lời
cầu nguyện của mình, trở nên một đại diện tiêu biểu cho những hạng người này,
trong khi người thu thuế tỏ ra một hình ảnh trái ngược hoàn toàn.
Kết thúc dụ ngôn,
chúng ta không nghe nói lời cầu xin của ai được nhậm lời, mà chỉ biết rằng người
thu thuế ra về được nên công chính, còn người Pharisêu thì không. Thực ra, do bởi
tình trạng của mình, người thu thuế không thể bước vào thế giới được cho là
chính trực, chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho anh ta nên công chính cách
nhưng không.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Bất công xã hội
luôn là một vấn đề nhức nhối, ngay cả từ thời Cựu ước. Sách Huấn ca đọc được
tình trạng này trong cuộc sống, và chỉ ra rằng Thiên Chúa là Đấng công minh,
chính trực. Người sẽ không bỏ qua tội lỗi của người gian ác, và trả lại sự công
bình cho người bị áp bức, cô thế cô thân. Cuộc sống của tôi hôm nay đôi lúc
cũng trải qua những hoàn cảnh tương tự. Vây tôi có biết tín thác vào Chúa và lời
hứa của Người để cùng với những người cùng khổ, luôn tìm được sự che chở và ủi
an nơi Đấng mà tôi tin?
2. Thánh Phaolô
Tông đồ trong chúc thư thiêng liêng, đã chia sẻ kinh nghiệm về hành trình đức
tin của mình, trong đó, ngài đã bộc bạch những thời khắc khó khăn, cô độc của đời
mình trong sứ vụ tông đồ; tuy vậy, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ngài tin rằng
tất cả rồi cũng sẽ qua, điều còn lại là sự yêu thương che chở vô cùng lớn
lao của Thiên Chúa. Từ kinh nghiệm quý báu của thánh nhân, tôi có xác tín rằng
dẫu khi tôi thành công hay thất bại, dẫu lúc tôi vững mạng hay yếu đuối, Thiên
Chúa vẫn bên cạnh yêu thương và chở che tôi?
3. Dụ ngôn về người
Pharisêu và anh thu thuế tội lỗi là một bài học về cách thức cầu nguyện và ý niệm
về sự công chính. Từ hai hình ảnh đó, tôi sẽ rút ra được điều gì cho tôi trong
mối tương quan thân tình với Chúa và với anh chị em của tôi?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Thiên Chúa hằng lắng nghe và đáp lại lời cầu xin chân thành của
những người khiêm tốn. Ý thức thân phận yếu đuối bất xứng của mình và tin tưởng
vào lòng thương xót của Chúa, cộng đoàn chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
1. Người thu thuế cầu
nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Chúng ta cùng cầu
xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh, biết ý thức thân phận con người tội lỗi
để không ngừng sám hối và hoán cải bản thân; đồng thời luôn nỗ lực trở nên dấu
chỉ lòng Chúa thương xót cho thế giới hôm nay.
2. Những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật đang khiến cho con người ngày càng tự đắc và chối bỏ sự hiện
hữu của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu xin cho các các nhà lãnh đạo và các khoa
học gia biết sử dụng quyền bính và khả năng của họ, để phục vụ hạnh phúc con
người và góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
3. Bao người đang phải
gánh chịu hậu quả nặng nề do môi trường bị ô nhiễm hoặc bị tàn phá. Chúng ta
cùng cầu nguyện cho mọi người luôn có ý thức bảo vệ môi trường sống, và cho các
nạn nhân nhận được sự đồng cảm chia sẻ của nhiều người xa gần để sớm khắc phục
thiệt hại và mau chóng ổn định đời sống.
4. “Ai tự tôn mình
lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.” Chúng ta cùng cầu
nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết tránh xa lối sống giả hình,
luôn chân thành khiêm tốn đối với Chúa và với nhau, tích cực cộng tác để xây dựng
cộng đoàn trong tinh thần yêu thương hiệp nhất.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Cha rất nhân từ, xin thương nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban Chúa
Thánh Thần, giúp chúng con biết nỗ lực mỗi ngày trở nên hoàn thiện hơn như lòng
Chúa mong ước. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 30 TN C
Chủ đề :
Chúa đón nhận lời cầu nguyện khiêm nhường của người
nghèo khổ
Người biệt phái
và người thu thuế cầu nguyện
(Lc 18,9-14)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Lời
cầu nguyện của kẻ nghèo khổ
– Đáp ca : Kêu gọi
những người nghèo khổ hãy cậy trông vào Chúa vì Ngài sẽ nhậm lời họ cầu xin.
– Tin Mừng : Chúa
không màng lời cầu nguyện kiêu căng của người biệt phái, nhưng ưa thích lời cầu
nguyện khiêm tốn của người thu thuế.
I. Dẫn vào
Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu kể có hai người lên đền thờ cầu nguyện : Chúa nhậm lời cầu
nguyện của người biệt phái nhưng nhậm lời cầu nguyện của người thu thuế.
Hôm nay chúng ta cũng
lên đền thờ cầu nguyện. Chúng ta đừng đến với Chúa với lòng tự phụ như người biệt
phái, nhưng hãy đến với Ngài với tâm tình khiêm nhường thống hối như người thu
thuế.
Trước hết, chúng ta
hãy nhìn nhận tội lỗi mình và xin Chúa thứ tha.
II. Gợi ý sám hối
– Như người biệt phái,
nhiều khi chúng ta tự hào về những việc lành mình làm được.
– Như người biệt phái,
nhiều khi chúng ta tỏ ra khinh miệt những người yếu đuối lỡ sa phạm tội.
– Như người thu thuế,
chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi mình và xin Chúa thương xót.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Hc 35,12-14.16-18)
“Chúa nhậm lời kêu xin
của kẻ nghèo hèn”. Đây là chủ đề chính của đoạn sách Huấn ca này và cũng là của
toàn bộ Thánh Kinh : Trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn bênh vực những người
nghèo hèn yếu đuối ; trong Tân Ước, Chúa Giêsu tỏ ra yêu thương đặc biệt
những người bị xã hội coi khinh.
2.
Đáp ca (Tv 33)
Kêu gọi những người
nghèo khổ hãy cậy trông vào Chúa vì Ngài sẽ nhậm lời họ cầu xin.
3.
Tin Mừng (Lc 18,9-14)
Hai người lên đền thờ
cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho hai thái độ sống :
‑ Người biệt
phái : anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất
là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu
thuế kia”) ; thứ hai là anh cũng không yêu Chúa : anh giữ luật và làm
nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó
Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
– Người thu thuế :
anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không
nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về
với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa
(“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
4.
Bài đọc II (2 Tm 4,6-8.16-18) (Chủ đề phụ)
Những suy nghĩ và tâm
tình của Phaolô khi đang ngồi tù và biết mình sắp chết :
– Nhìn lại cuộc sống
đã qua, Phaolô an tâm vì thấy mình giống như một vận động viên đã kiên trì chạy
hết đường đua và sắp về tới đích.
– Nghĩ tới những người
đã làm khổ mình, Phaolô xin Chúa đừng chấp tội họ. Ông cũng cảm tạ Chúa đã ban
sức mạnh cho ông vượt qua mọi gian khổ ấy.
– Nghĩ tới cái chết,
Phaolô coi đó là một lễ tế dâng lên cho Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Tội và
thân phận tội lỗi
Công bình mà xét thì
người biệt phái ít tội hơn người thu thuế.
Nhưng điểm đáng chú ý
là người biệt phái lại nói về tội lỗi nhiều hơn người thu thuế : hắn đã kể
ra những tội tham lam, bất chính, ngoại tình v.v. Tuy nhiên tất cả đều là… tội
của người khác ! Còn người thu thuế thì trái lại, tuy anh rất nhiều tội,
nhưng anh lại không kể các tội đó ra. Điều duy nhất anh kể ra là “Con là kẻ tội
lỗi. Lạy Chúa xin thương xót con”
Thực ra người biệt
phái cũng có tội : tội tự mãn, tội kiêu căng, tội khinh miệt người khác…
Nhưng hắn không ý thức các tội đó. Hắn không nhìn nhận mình là người tội lỗi. Hắn
không biết thân phận tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu phê phán
người biệt phái vì : a/ Hắn chỉ nhìn thấy tội ; b/ chỉ nhìn thấy tội
của người khác ; c/ hoàn toàn không thấy thân phận tội lỗi của mình ;
d/ hoàn toàn không thấy lòng thương xót của Chúa.
Chúa Giêsu đề cao người
thu thuế vì : a/ Anh không những thấy tội mà còn thấy thân phận tội lỗi của
mình ; b/ Anh còn thấy được lòng thương xót của Chúa nữa.
Cả hai người trên đều
có thể thành bài học cho chúng ta.
Trước hết, chúng ta
cũng giống người biệt phái. Chúng ta rất ý thức về tội lỗi của người khác nhưng
lại không ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta nói về tội của người khác
nhiều hơn về tội của mình. Điều này thật nguy hiểm, vì nó ngăn cản không cho
chúng ta nhìn thấy tội lỗi của mình.
Chúng ta cũng có thể học
nơi người thu thuế. Anh dạy chúng ta can đảm xưng thú những tội lỗi của mình.
Anh chỉ cho chúng ta thấy chúng ta là kẻ tội lỗi, kẻ mang thân phận tội lỗi.
Nhiều người đến tòa
cáo giải với một bảng liệt kê các tội đã phạm. Hầu hết các tội trong bảng liệt
kê ấy đều không khác nhau mấy từ lần xưng tội này đến lần xưng tội khác. Xưng
xong rồi ra về và mọi sự đều trở lại y như cũ. Việc xưng tội không giúp chúng
ta cải thiện con người bao nhiêu. Tại sao ? Vì chúng ta quá chú ý đến các
thứ tội mà không chú ý bao nhiêu đến thân phận tội lỗi của mình.
Tội không chỉ là những
việc làm xấu, mà chủ yếu là tình trạng xấu ta đang sống. Vì thế điều cần thiết
hơn không phải chỉ là xin Chúa tha tội cho mình, mà là xin Chúa thương xót cứu
vớt mình khỏi tình trạng xấu ấy.
“Một người tội lỗi ý
thức thân phận tội lỗi của mình còn tốt hơn một vị thánh ý thức mình là thánh”
(Yiddish).
* 2. Một tấm
lòng tan nát khiêm cung
Trong xã hội do thái,
ai cũng coi những người thu thuế là những kẻ tội lỗi. Trong dụ ngôn này chính
Chúa Giêsu cũng coi như thế, và chính người thu thuế cũng tự coi như thế.
Nhưng người thu thuế
này đã lên đền thờ cầu nguyện, nghĩa là anh có thiện chí, anh muốn từ bỏ tội lỗi,
anh muốn được tha.
Tuy nhiên khi xét lại
quãng đời tội lỗi đã qua, anh biết rằng anh không thể nào được tha : theo
luật, một người lỗi đức công bình nếu muốn được tha thì phải trả hết tiền, còn
bồi thường thêm 1/5 nữa. Anh làm sao nhớ hết những kẻ mà anh làm hại, có nhớ
cũng không có tiền để trả, huống chi lại thường thêm 1/5…
Lòng anh tan nát.
Nhưng anh không tuyệt vọng : nếu theo luật, anh không thể được tha thì anh
sẽ kêu xin đến lòng thương xót của Chúa. Thế là anh thốt lên : “Lạy Chúa,
xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Điểm đáng ta chú ý là
anh thu thuế này đã trích những tiếng đầu của Thánh vịnh 50 (“Lạy Chúa xin xót
thương con theo lòng nhân hậu Chúa”). Mà trong Thánh vịnh này cũng có câu “Chúa
gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung”. Thiên Chúa đúng là như thế. Người
thu thuế đã kêu đến chính nơi phải kêu, chạm tới chính chỗ phải chạm. Vì vậy
Chúa đã thương xót anh, tha thứ tất cả cho anh, như lời Chúa Giêsu nói :
“Ta nói cho các ông biết : người này khi trở về thì đã nên công chính rồi”.
* 3. Lòng
trí hướng về ai ?
Người biệt phái và người
thu thuế đều lên đền thờ và đều cầu nguyện. Nhưng lòng trí của mỗi người hướng
đến những hướng khác nhau.
Lòng trí của người biệt
phái hướng về ai ?
– Trước hết là hướng về
người khác : “Lạy Chúa, con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính,
ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”
– Đồng thời lúc đó
cũng hướng về bản thân mình : “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho
Chúa một phần mười thu nhập của con”
– Nơi quan trọng nhất
phải hướng về là Thiên Chúa thì hắn lại bỏ qua !
Còn lòng trí người thu
thuế thì hướng thẳng về Thiên Chúa : “Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là
kẻ tội lỗi”.
Chúng ta dễ phạm lại
sai lầm của người biệt phái : khi cầu nguyện, lòng trí chúng ta hướng về
những nhu cầu ích kỷ của bản thân và than phiền về những điều khó chịu người
khác gây cho mình.
Hãy học cầu nguyện như
người thu thuế là hướng về Chúa. Có nghĩ về mình là để ý thức thân phận tội lỗi
của mình để rồi càng hướng về Chúa nhiều hơn.
* 4. Ai là
người công chính ?
Ngày kia, Khổng tử dẫn
học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai
môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân
chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói
cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến
đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng
Tử liền phân công : Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn
Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở
nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp
Nhan hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa
vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở : “Người
học trò tín cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng ?” Khi tử Lộ và các
môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại
và nói :
– Bữa cơm đầu tiên này
trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho
nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không ? Nhưng
liệu nồi cơm này có sạch chăng ?
Nhan Hồi liền chắp tay
thưa :
– Dạ thưa Thầy, nồi
cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một
cơn gió tràn vào, bồ hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh
tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất di,
nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy,
như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói
xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng :
– Chao ôi ! Thế
ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không
hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ !
*
Cho dù là bậc hiền triết
như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán
người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình
để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám do rất thường gặp nơi những người được
xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó,
đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt
được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác
lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra.
Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ
ngôn : “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền
thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với
Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng
thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê
công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những
điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực,
một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề
luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu
nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của
mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn
thấy mình mà không thấy Chúa ; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ
nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa ; cái tự mãn của
ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của
ông Pharisêu bắt đầu từ câu này : “Vì con không như bao kẻ
khác : tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia” (Lc,
8,11). Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem
cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ
nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường
nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự
tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những
lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế : “Lạy Thiên
Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
Sai lầm căn bản của
người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa
ban (Pl 3,9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật
được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng
mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận
mình lầm rỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn
lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn
toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công
chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên
công chính.
Như thế, những kẻ cho
mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không ; còn những kẻ
nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình
lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).
*
Lạy Chúa, chúng con có
là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận
mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống
chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Ki tô là Đấng Công
Chính tuyệt đối. Amen. (TP)
5.
Mảnh suy tư
Nếu người biệt phái có
quyền thì chắc hẳn hắn đã không cho người thu thuế vào đền thờ.
Nhiều người trong
chúng ta cũng nghĩ rằng những kẻ tội lỗi không được đến nhà thờ : tội lỗi
mà đến nhà thờ làm chi ? Chỉ là giả hình ! Nhà thờ là nơi dành cho những
người đạo đức thánh thiện.
Nếu như thế thì nhà thờ
sẽ rất nhỏ hẹp.
Tưởng tượng xem một tiệm
sửa giày mà chỉ nhận những đôi giày còn tốt thì có còn là tiệm sửa giày
không ! Một bệnh viện mà chỉ nhận những người khoẻ mạnh thì có còn là bệnh
viện không !
Chúng ta đến nhà thờ
không phải vì chúng ta xứng đáng mà vì chúng ta cần. Chúng ta cần được lòng
thương xót Chúa chữa trị, và chúng ta cũng cần sự nâng đỡ của anh chị em trong
cộng đoàn. (FM)
V. Lời nguyện
cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, trước mặt Thiên Chúa là Đấng
vô cùng thánh thiện, tất cả chúng ta đều là kẻ có tội, cần đến lòng thương xót
và sự tha thứ của Chúa. Tin tưởng vào lòng từ bi của Chúa, chúng ta cùng dâng lời
cầu xin :
1.
Hội thánh luôn mời
gọi con cái mình tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết đặt trọn
niềm tin tưởng vào Chúa là Đấng hay thương xót và thứ tha.
2.
Hiện nay / nạn
kỳ thị chủng tộc / khinh dể những sắc tộc yếu kém hơn mình / thanh lọc
sắc tộc bằng các cuộc chiến tranh diệt chủng / vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi
trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa
Kitô / thấm nhập và tác động đến mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người
biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.
3.
Tự cho mình là
thánh thiện và coi thường người khác / là thái độ kiêu căng đáng
ghét / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết ý thức thân
phận tội lỗi của mình / để đừng bao giờ kết án hay khinh khi anh chị em của
mình.
4.
Cầu nguyện trong
khiêm tốn là điều mà mỗi Kitô hữu cần ghi lòng tạc dạ / Chúng ta hiệp lời
cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thân thưa cùng Chúa / Lạy
Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa thương người khiêm tốn và ghét kẻ
kiêu căng. Xin Chúa cho tất cả chúng con biết noi gương Chúa Giêsu, Con Chúa là
Đấng có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong
Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy
Cha : Tất cả chúng ta đều có tội. Hơn nữa tất cả chúng ta đều mang
thân phận yếu đuối tội lỗi. Chúng ta hãy xin Chúa là Cha tha tội cho chúng ta
và hãy hứa với Ngài là chúng ta cũng tha thứ cho anh em chúng ta.
VII. Giải tán
Là những kẻ tội lỗi đã
được Chúa thương xót thứ tha, anh chị em hãy ra về và làm chứng cho mọi người
biết lòng thương xót Chúa.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina:
Chúa Nhật XXX Thường Niên (C)
Sunday 27 October, 2019
Lectio Divina |
Lection Divina Năm C
Dụ ngôn người Biệt
Phái và người Thu Thuế
Sự yên ổn của tôi dựa
vào đâu?
Lc 18:1–14
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin
hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà
Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời
Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự
hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
mình. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong
chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo
và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người
chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời
Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ
được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng
Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý
và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã
mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng
con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa
dẫn đến bài đọc:
Bài Phúc Âm của Chúa
Nhật tuần này đặt chúng ta trước dụ ngôn về người Biệt Phái và người Thu Thuế
(Lc 18:9-14). Chúng tôi đã thêm vào dụ ngôn bà góa và vị thẩm phán (Lc
18:1-8), bởi vì cả hai tạo thành một sự thống nhất nhỏ, mục đích là để giúp
chúng ta khám phá ra chúng ta phải có thái độ cầu nguyện như thế nào trước
Thiên Chúa. Hai dụ ngôn cho chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu đã có một
phương cách khác để nhìn thấy những sự việc của đời sống và cầu nguyện.
Chúa đã thành công để cảm nhận sự mặc khải của Thiên Chúa ở nơi mà những người
khác chỉ nhìn thấy những sự hoang tàn. Người thấy có điều gì đó tích cực
nơi người thu thuế, kẻ mà ai ai cũng nói: “Hắn ta không biết cách cầu
nguyện!” Và nơi bà góa nghèo, người mà xã hội đã nói: “Bà ta làm
phiền và quấy nhiễu cả đến quan tòa!” Chúa Giêsu đã sống rất hiệp nhất với
Chúa Cha qua lời cầu nguyện, đối với Người mọi việc đã trở nên một biểu lộ của
lời cầu nguyện.
Ngày nay, những người
bình dị mộc mạc của phố chợ nói rằng họ không biết làm thế nào để cầu nguyện,
nhưng biết cách để thưa chuyện với Chúa Giêsu, họ trò chuyện với Thiên Chúa mỗi
ngày. Bạn có biết người nào như vậy không? Người ta có nhiều cách để
bày tỏ lòng thành tâm và lời cầu nguyện của họ.
Trong lúc đọc bài đọc,
chúng ta hãy cố gắng chú ý đến hai điều sau đây: Đâu là mục tiêu và ai là
người mà hai dụ ngôn nhắm đến? Đâu là thái độ của những nhân vật được đề
cập đến trong các dụ ngôn?
b) Phân đoạn
bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 18:1: Mục
tiêu của dụ ngôn đầu tiên
Lc 18:2: Mô tả
thái độ của vị thẩm phán
Lc 18:3: Thái độ
của bà góa trước vị thẩm phán
Lc 18:4-5: Phản ứng
của vị thẩm phán trước bà góa
Lc 18:6-8: Chúa
Giêsu áp dụng dụ ngôn
Lc 18:9: Những
người mà dụ ngôn thứ hai nhắm tới
Lc 18:10: Lời giới
thiệu về chủ đề của dụ ngôn
Lc 18:11-12: Mô
tả cách cầu nguyện của người Biệt Phái như thế nào
Lc 18:13: Mô tả
cách người thu thuế cầu nguyện như thế nào
Lc 18:14: Chúa
Giêsu cho biết quan điểm của Người về cả hai
c) Phúc Âm:
1 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy
các ông cần phải cầu nguyện luôn và đừng ngã lòng: 2 “Trong
thành kia có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa cũng không kiêng nể người
ta. 3 Trong thành đó lại có một bà góa đến thưa cùng
ông rằng: ‘Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù!’ 4 Trong
một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: ‘Mặc dầu
ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, 5 nhưng
vì bá góa này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm
ta nhức óc.’ ” 6 Rồi Chúa phán: “Các con hãy
nghe lời vị thẩm phán bất lương đó nói gì?” 7 Vậy
Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Chúa tuyển chọn hằng kêu cứu với Người
đêm ngày mà khoan giãn với họ mãi sao? 8 Thầy bảo
các con: Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu
sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?” 9 Khi
ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công
chính và hay khinh bỉ kẻ khác: 10 “Có hai người lên
đền thờ cầu nguyện, một người Biệt Phái, một người thu thuế. 11 Người
Biệt Phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi
không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình như những người
khác, hay là như tên thu thuế kia. 12 Tôi ăn chay mỗi
tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả hoa lợi của tôi.” 13 Người
thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mặt lên trời; nhưng đấm ngực và nguyện rằng:
“Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội.” 14 Ta bảo
các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất
cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng
lên.”
3. Giây phút
thinh lặng cầu nguyện
Để Lời của Chúa có thể
thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi
gợi ý
Để giúp chúng ta trong
việc suy gẫm cá nhân.
a) Bạn hài lòng điều nào nhất trong cả hai dụ ngôn
này? Tại sao?
b) Bà góa và vị thẩm phán có thái độ ra sao? Điều gì
đánh động chúng ta nhất trong thái độ của mỗi nhân vật? Tại sao?
c) Người Biệt Phái và người thu thuế có những thái độ
như thế nào? Điều gì đánh động chúng ta nhất trong thái độ của mỗi người?
Tại sao?
d) Chúa Giêsu áp dụng dụ ngôn này như thế nào?
e) Hai bài dụ ngôn này dạy chúng ta phải làm gì liên quan đến
việc cầu nguyện?
5. Phần chú giải
Dành cho những ai muốn
đào sâu vào chủ đề
a) Bối cảnh
hôm qua và hôm nay:
Bối cảnh vào thời của
Chúa Giêsu và của thánh Luca được diễn đạt trong hai câu giới thiệu nói về “cần
phải cầu nguyện liên tục và đừng ngã lòng” (Lc 18:1) và “một số người hay tự
hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác” (Lc 18:9). Bối cảnh
của ngày nay tiếp tục giống như xưa kia, bởi vì ngày nay cũng cần phải cầu nguyện
luôn luôn và ngày nay cũng có những người tự hào là người công chính và khinh bỉ
kẻ khác.
b) Lời
bình giải về đoạn Phúc Âm:
Lc 18:1: Mục
tiêu của dụ ngôn đầu tiên
Thánh Luca giới thiệu
dụ ngôn này với câu: “sự cần thiết phải luôn luôn cầu nguyện và đừng bao
giờ ngã lòng”. Trong các đoạn Tin Mừng khác, ông khẳng định trong cùng một
cách về sự kiên trì trong cầu nguyện và về sự cần thiết tin rằng Thiên Chúa
nghe lời cầu nguyện của chúng ta và đáp ứng những lời cầu xin của chúng
ta. Niềm tin vào Thiên Chúa đáp ứng lời khẩn cầu của chúng ta là sợi chỉ
đỏ tràn ngập khắp toàn bộ Kinh Thánh, nơi mà, từ cuộc xuất hành khỏi đất Ai Cập
nó đã không ngừng lặp đi lặp lại rằng “Hãy nghe tiếng than van của Dân Người”
(Xh 2:24; 3:7).
Lc 18:2: Mô tả
thái độ của vị thẩm phán
Chúa Giêsu muốn làm
sáng tỏ cho những ai lắng nghe lời Người, đó là thái độ của Thiên Chúa trước lời
cầu nguyện của chúng ta. Vì lý do này, khi nói về người thẩm phán, Người
nghĩ đến Thiên Chúa Cha, Đấng là cùng đích của việc so sánh mà Người đang làm.
Nếu đó không phải là Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không có đủ can đảm để so
sánh Thiên Chúa với vị thẩm phán “người không kính sợ Thiên Chúa cũng không
kiêng nể người ta”. Việc so sánh táo bạo này, được thực hiện bởi Chúa
Giêsu, một mặt tăng cường tầm quan trọng của sự kiên trì trong cầu nguyện và, mặt
khác, sự chắc chắn sẽ được Đức Chúa Cha nhậm lời.
Lc 18:3: Thái độ
của bà góa trước vị thẩm phán
Trong thái độ của bà
góa trước vị thẩm phán, chúng ta biết được tình cảnh của người nghèo khó trong
xã hội thời Chúa Giêsu bấy giờ. Các góa phụ và cô nhi không có ai bênh vực
và quyền lợi của họ không được tôn trọng. Sự việc mà Chúa Giêsu so sánh
thái độ của chúng ta với thái độ của bà góa nghèo khổ, không ai bênh vực bà, là
người tìm cách để đòi lại quyền lợi của bà trước một vị thẩm phán không có lòng
thương người, cho thấy sự đồng cảm của Chúa Giêsu đối với những người nghèo, những
người quyết chí đấu tranh để dành lại quyền lợi của họ.
Lc 18:4-5: Phản ứng
của vị thẩm phán trước bà góa
Vị thẩm phán cuối cùng
cũng chịu thua trước sự kiên gan bền chí của người góa phụ. Ông ta chịu
xét xử cho bà ấy không phải vì lòng yêu chuộng công lý, mà để tránh cho mình khỏi
bị bà góa liên tục quấy rầy mãi.
Lc 18:6-8: Chúa
Giêsu áp dụng dụ ngôn
Chúa Giêsu rút ra một
kết luận: Nếu một người thẩm phán vô thần và bất lương phải quan tâm đến
một bà góa là kẻ kiên trì trong sự kêu nài của bà; thì Thiên Chúa, Đức Chúa
Cha, sẽ lắng nghe những người mà ngày đêm cầu xin Người nhiều hơn nữa, ngay cả
khi Người bắt họ phải chờ đợi. Đây là tâm điểm của dụ ngôn, được xác nhận
bởi câu hỏi cuối cùng của Chúa Giêsu: “Khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp
được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” Có nghĩa là, liệu đức tin của
chúng ta có sẽ được bền bỉ như của bà góa, người nhất định không nản lòng, cho
đến khi bà ta có được sự đáp ứng của Thiên Chúa chăng? Bởi vì như sách Giảng
Viên đã chép: “Thật là khó mà chống lại được sự kỳ vọng của Thiên Chúa!”
Lc 18:9: Những
người mà dụ ngôn thứ hai nhắm tới
Bài dụ ngôn thứ hai
này về người Biệt Phái và người thu thuế được giới thiệu trong câu thứ
hai: “Người nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người
công chính và hay khinh bỉ kẻ khác!” Câu mà thánh Luca đề cập cùng một
lúc, vào thời điểm của Chúa Giêsu và vào thời điểm của Luca. Kế đến,
trong các cộng đoàn của thập niên 80, những người mà Luca muốn nhắm đến khi viết
sách Phúc Âm của ông, có một số người cố bám víu vào truyền thống cổ xưa của Do
Thái giáo mà xem thường những dân ngoại (Cv 15:1-5).
Lc 18:10: Lời giới
thiệu về chủ đề của dụ ngôn
Có hai người lên Đền
Thờ cầu nguyện: một là người Biệt Phái và người kia là một người thu thuế.
Không thể có một sự tương phản nào rõ ràng hơn sự tương phản giữa hai người
này. Theo quan điểm của người ta thời bấy giờ, người thu thuế thì bất xứng
và không thể thưa gửi cùng Thiên Chúa, bởi vì anh ta là kẻ ô uế, khi nào người ấy
còn là người thu thuế, trong khi người Biệt Phái là người đáng kính trọng và rất
sùng đạo.
Lc 18:11-12: Mô
tả cách cầu nguyện của người Biệt Phái như thế nào
Người Biệt Phái đứng
thẳng cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa bởi vì ông ta không giống như những người
khác: tham lam, bất trung, ngoại tình. Lời cầu nguyện của ông ta
không có gì khác hơn là tự ca ngợi mình và những việc ông ta làm: ăn chay
và đóng một phần mười trên tổng số hoa lợi của mình. Đây là một sự tán
dương các việc làm tốt lành của ông ta và khinh miệt việc làm của những kẻ
khác, những người mà ông ta đã sỉ nhục, đặc biệt là người thu thuế, người đang
cùng đứng với ông trong cùng một nơi chốn. Ông ta không coi người đó là
anh em mình.
Lc 18:13: Mô tả
cách người thu thuế cầu nguyện như thế nào
Người thu thuế không
dám ngước mắt lên, nhưng lại đấm ngực và nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin
thương xót tôi là kẻ tội lỗi!” Anh ta không xứng đứng trước mặt Chúa.
Lc 18:14: Chúa
Giêsu cho biết quan điểm của Người về cả hai dụ ngôn
Nếu Chúa Giêsu đã hỏi
dân chúng, ai là người ra về được khỏi tội, thì có lẽ tất cả sẽ trả lời:
“Người Biệt Phái!” Nhưng Chúa Giêsu lại nghĩ khác. Người ra về được
khỏi tội (trong một mối quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa) không phải là người Biệt
Phái, mà là người thu thuế. Một lần nữa, Đức Giêsu đã đảo ngược mọi chuyện.
Có lẽ sự áp dụng này của Chúa Giêsu trong dụ ngôn đã không làm hài lòng nhiều
người.
c) Phần phụ
chú:
i) Những Kitô hữu tiên khởi giới thiệu với chúng ta hình ảnh
Chúa Giêsu cầu nguyện, Đấng sống trong sự hiệp nhất vĩnh cửu với Đức Chúa
Cha. Hơi thở cuộc sống của Chúa Giêsu là làm theo thánh ý của Thiên Chúa
(Ga 5:19). Chúa Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều và đã khẳng định để cho người
ta và các môn đệ của Chúa cũng phải cầu nguyện. Bởi vì trong mối liên hệ
của chúng ta với Thiên Chúa thì sự thật hiện lên và người ta sẽ tìm thấy mình
trong tất cả sự thực và lòng khiêm nhường.
ii) Hai bài dụ ngôn mặc khải điều gì đó về thái độ cầu nguyện
của Chúa Giêsu trước mặt Đức Chúa Cha. Chúng mặc khải rằng ngay cả đối với
Chúa Giêsu, cầu nguyện cũng không phải luôn luôn dễ dàng. Giống như người
đàn bà góa, các bạn phải hằng kiên tâm cầu nguyện, cũng như được trông thấy
trong sự cầu nguyện tại Vườn Cây Dầu (Lc 22:41-42). Người dâng lời khẩn
nguyện cho đến khi chết, Người đã không ngã lòng và Người đã được nhậm lời (Dt
5:7). Hai dụ ngôn cũng mặc khải kinh nghiệm và sự thân thiết của Người với
Thiên Chúa là Chúa Cha, Đấng đã chấp nhận tất cả, và tình yêu của Người có sự
thưởng công như một dấu ấn trọng tâm. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho
chúng ta không tùy thuộc vào những gì chúng ta làm cho Người. Chúa đã yêu
chúng ta trước tiên. Người chấp nhận người thu thế.
iii) Thánh Luca, Thánh Sử, là người cho chúng ta biết
thêm về đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ông cho thấy Chúa Giêsu trong
sự cầu nguyện liên tục. Sau đây là một vài thời điểm trong đó Chúa Giêsu
xuất hiện với sự cầu nguyện trong Tin Mừng theo Luca:
- Khi Chúa Giêsu được mười hai tuổi, Người đi lên Đền
Thờ, đến nhà Chúa Cha (Lc 2:46-50).
- Đang khi chịu phép rửa và lúc nhận lãnh sứ vụ, Người
cầu nguyện (Lc 3:21).
- Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người đã cầu nguyện
bốn mươi ngày trong hoang địa (Lc 4:1-2).
- Khi Đức Giêsu bị cám dỗ, Người phải đối diện với quỷ
như trong lời Kinh Thánh (Lc 4:3-12).
- Chúa Giêsu luôn tham dự trong các giờ cầu nguyện
trong Hội Đường vào ngày Thứ Bảy (Lc 4:16).
- Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện (Lc
5:16; 9:18).
- Trước khi chọn mười hai Tông Đồ, Người đã thức suốt
đêm cầu nguyện (Lc 6:12).
- Người cầu nguyện trước các bữa ăn (Lc 9:16; 24:30).
- Đức Giêsu cầu nguyện trước khi tiên báo về cuộc
thương khó của Người (Lc 9:18).
- Trong lúc bối rối, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và
Người đã hiển dung trong lúc cầu nguyện (Lc 9:28).
- Khi mặc khải Tin Mừng cho những người bé mọn, Người
nói: “Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha!” (Lc 10:21).
- Khi cầu nguyện, Chúa Giêsu linh ứng cho các Tông Đồ
ước muốn cầu nguyện (Lc 11:1).
- Chúa Giêsu cầu nguyện cho Phêrô để ông khỏi mất
lòng tin (Lc 22:32).
- Chúa mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ (Lc 22:7-14).
- Trong Vườn Cây Dầu, Chúa cầu nguyện, và mồ hôi máy
chảy ra từng giọt (Lc 22:41-42).
- Khi lâm cơn xao xuyến bồi hồi, Chúa bảo các môn đệ
cùng cầu nguyện với Người (Lc 22:40-46).
- Khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá, Người cầu nguyện
xin tha cho những kẻ hành hạ Người vì họ không biết những việc họ đang làm
(Lc 23:34).
- Vào phút lâm chung, Đức Giêsu kêu lớn tiếng:
“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha!” (Lc 23:46;
Tv 31:6)
iv) Danh sách dài các lời trích dẫn này cho thấy tất cả
mọi việc theo sau chúng. Đối với Chúa Giêsu, cầu nguyện là được hiệp nhất
một cách mật thiết với đời sống, với những sự kiện cụ thể, với những quyết định
Người phải làm. Để được trung tín với kế hoạch của Chúa Cha, Đức Giêsu đã
cố gắng để được sống riêng tư với Chúa Cha. Chúa lắng nghe lời Người.
Trong những lúc khó khăn và quyết định của cuộc đời, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng
các bài Thánh Vịnh. Cũng giống như bất kỳ người Do Thái sùng đạo nào,
Chúa thuộc lòng những bài này. Nhưng đọc lên những bài Thánh Vịnh đã
không làm mất đi sự sáng tạo của Người. Thay vào đó, Chúa Giêsu đã tự
sáng tác một bài Thánh Vịnh mà Người đã truyền dạy cho chúng ta. Đó là
Kinh Lạy Cha. Đời sống của Người là một lời cầu nguyện liên tục:
“Ta luôn sẽ làm những gì Chúa Cha muốn Ta làm!” (Ga 5:19-30). Đối với Người,
đã ứng nghiệm với điều Thánh Vịnh nói: “Con chỉ biết cầu nguyện!” (Tv
109:4).
6. Cầu Nguyện
cùng Thánh Vịnh:
Thánh Vịnh 146
(145): Hình ảnh của Thiên Chúa chúng ta
Allêluia! Ca tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng CHÚA,
sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng CHÚA,
sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về
cát bụi,
dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ
và cậy trông CHÚA, Thiên Chúa họ thờ.
Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi
cùng muôn loài trong đó.
dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ
và cậy trông CHÚA, Thiên Chúa họ thờ.
Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi
cùng muôn loài trong đó.
Người là Đấng giữ lòng
trung tín mãi muôn đời,
xử công minh cho người bị áp bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
CHÚA giải phóng những ai tù tội,
xử công minh cho người bị áp bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
CHÚA giải phóng những ai tù tội,
CHÚA mở mắt cho kẻ mù
loà.
CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ.
CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ.
CHÚA yêu chuộng những
người công chính,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn
ác nhân.
CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,
Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.
CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,
Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.
7. Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng
con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban
cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.
Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa,
không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống
hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn
thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét