25/05/2020
Thứ Hai tuần 7 Phục
Sinh
BÀI ĐỌC I: Cv 19, 1-8
“Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần
chưa?”
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Xảy ra là khi Apollô ở Côrintô, thì Phaolô đi miền thượng du, rồi đến
Êphêxô gặp một số môn đồ, và ngài hỏi họ: “Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần
chưa?” Họ trả lời: “Nguyên việc có Thánh Thần hay không, chúng tôi cũng chưa
nghe nói”. Ngài lại hỏi: “Vậy các ngươi đã chịu phép rửa của ai?” Họ thưa:
“Phép rửa của Gioan”. Phaolô liền bảo: “Gioan thanh tẩy dân chúng bằng phép rửa
sám hối mà rằng: Hãy tin vào Đấng sẽ đến sau ông, tức là Đức Giêsu”. Nghe vậy,
họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi Phaolô đặt tay trên họ, thì
Thánh Thần đến ngự xuống trên họ, họ liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên
tri. Tất cả đàn ông chừng mười hai người.
Ngài vào hội đường, và trong suốt ba tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng,
tranh luận và thuyết phục về nước Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 67, 2-3.
4-5ac. 6-7ab
Đáp: Chư quốc trần
ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ
ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Như làn khói toả, chúng rã tan, như mẩu
sáp ong gần lửa chảy ra, những đứa ác nhân tiêu vong trước nhan Thiên Chúa. –
Đáp.
2) Những người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa họ mừng
vui sung sướng. Hãy hát mừng Thiên Chúa, hãy đàn ca danh Người, danh hiệu Người
là Chúa, hãy mừng rỡ hân hoan trước nhan Người. – Đáp.
3) Là Cha kẻ mồ côi, là Đấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong
thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa
những người tù tội ra nơi thịnh đạt. – Đáp
ALLELUIA: Mt 28, 19 và
20
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi
ngày cho đến tận thế”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 16, 29-33
“Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng
thế gian”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Đúng thế, bây giờ Thầy nói rõ
ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự,
không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra”.
Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến
rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy
không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều
đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ,
nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Cùng hiệp
thông với Chúa
Chúa Giêsu làm thế nào để thuyết phục các môn đệ tin Ngài là Con Thiên
Chúa? Xin thưa, vì Ngài có thể đọc được những ý nghĩ thầm kín nhất trong tận
đáy lòng của họ như một quyển sách mở rộng ra trước mắt. Ngài trả lời những câu
hỏi của các ông trước khi họ mở miệng thưa với Ngài, và qua đó mạc khải cho họ
thấy sự vinh hiển của Thiên Chúa.
Ðối với người Kitô, tin vào Thiên Chúa có nghĩa là tin vào Ðấng do Ngài
sai đến, đó là Người Con yêu quí của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta tin
nhận Chúa Giêsu vì chính Ngài là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể làm người, vì
Chúa Giêsu thấy Chúa Cha và Ngài là Ðấng duy nhất biết và làm chứng về Chúa
Cha. Do đó, lòng tin của chúng ta có một nền tảng vững chắc vì dựa trên lời mạc
khải của Thiên Chúa, và đó chính là sự khởi đầu cho đời sống trường cửu. Chúa
Giêsu cũng cảnh giác các môn đệ rằng lòng tin của họ sẽ gặp những thử thách và
các ngài có thể sẽ bị vấp ngã. Ngài cũng đã báo trước về sự phản bội của một
dân tộc cũng như sự chiến thắng vẻ vang của Ngài trên thập giá. Mặc dù biết trước
rằng các môn đệ sẽ bỏ rơi mình trong giờ phút khổ nạn nhưng Chúa đã đối diện với
những cay đắng đó bằng với một tình yêu cao thượng và một thái độ kính cẩn nơi
các môn đệ của mình. Chúa yêu thương các ông cho đến tận cùng ngay cả khi họ bỏ
rơi Ngài chết cô độc trên thập giá. Vì Ngài biết rằng thập giá sẽ không đem đến
sự thất bại nhưng là sự chiến thắng vẻ vang trên tội lỗi và sự chết.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ một cách vô điều kiện
thì ngày nay Ngài cũng sẽ nói với chúng ta rằng Ngài cũng yêu thương tất cả
nhân loại một cách vô điều kiện và không bỏ rơi bất cứ ai. Khi chúng ta không
tránh khỏi những đau khổ của cuộc sống trần thế, thì Chúa Giêsu luôn hiện diện ở
giữa chúng ta một cách vô hình và Ngài bảo đảm với chúng ta rằng Ngài sẽ dẫn dắt
chúng ta vượt qua khỏi những thử thách cam go của cuộc sống. Ngài cũng kêu gọi
chúng ta hãy can đảm và tin tưởng vì Ngài đã chiến thắng thế gian. Chúa Thánh
Linh được sai đến để ban cho chúng ta nguồn hy vọng và lòng xác tín vào sự chiến
thắng của Chúa Phục Sinh. Và không gì có thể đè bẹp được lòng tin và sự hy vọng
này. Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm để chúng ta vượt
qua các trở ngại để giữ vững đức tin của mình.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ rất cần đến sự soi sáng
của Chúa Thánh Linh để các ngài hiểu lời Thầy dạy, vì lời Thầy vượt lên trên sự
hiểu biết của họ. Các môn đệ tin rằng đã hiểu được những điều Chúa nói nhưng thực
ra tâm trí các ông vẫn còn hạn hẹp và lòng tin vẫn còn yếu đuối đến nỗi có thể
bỏ rơi Thầy mình sau đó. Chúa cho các ông hiểu rằng việc Ngài trở về với Chúa
Cha phải trải qua sự khổ nạn và sự trở lại đó mang một mầu nhiệm sâu xa làm biến
đổi tính chất nhân bản của chúng ta, khiến chúng ta thành thụ vật mới dưới tác
động của Chúa Thánh Linh, là Ðấng mà Chúa Giêsu sai đến để soi sáng và ban sức
mạnh đức tin cho các môn đệ. Chỉ khi Chúa Giêsu chiến thắng sự chết, các môn đệ
mới thực sự tin vào Ngài. Cũng như các môn đệ của Chúa ngày xưa, có nhiều lúc
chúng ta không hiểu được thánh ý của Ngài. Do thế, chúng ta cầu xin Chúa soi
sáng và hướng dẫn chúng ta bằng với hồng ân của Ngài để chúng ta được trở nên
là những thụ vật mới trong Thần Khí của Ngài, và để chúng ta luôn thực hiện
thánh ý của Ngài với một lòng tin sâu xa, đó là cùng hiệp thông với Chúa trong
mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài.
Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con luôn biết tín thác vào quyền năng cứu rỗi
của Chúa, nhất là trong giờ phút thử thách và thất vọng. Xin ban cho chúng con
sự bình an và lòng tin mỗi khi lòng chúng con tràn ngập những nghi ngờ, để
chúng con tìm thấy sự hy vọng qua sự chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 19:1-8: Jn 16:29-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Ngôn ngữ xử dụng trong việc rao giảng Tin Mừng.
Người rao giảng phải xử dụng ngôn ngữ nào để việc rao giảng Tin Mừng có
hiệu quả? Trước tiên, xét về phía người rao giảng, vì họ là người đem lời chân
lý của Chúa đến cho con người; nên lời của họ phải chứa đựng sự thật. Thứ đến,
xét về phía người nghe, đại đa số là thường dân và không có vốn liếng văn
chương nhiều để hiểu biết những lời nói bóng bảy, chải chuốt. Vì thế, ngôn ngữ
các nhà giảng thuyết dùng phải làm sao cho đơn giản, trong sáng, và dễ hiểu.
Hơn nữa, mục đích của việc rao giảng Tin Mừng là đưa khán giả tới niềm tin vào
Thiên Chúa và thúc đẩy việc ăn năn xám hối; chứ không phải là để thưởng thức những
áng văn hay phân tích văn chương. Vì thế, nhà giảng thuyết phải dùng những lời
chân tình, do Thánh Thần hướng dẫn, để đánh động tâm hồn khán giả, giúp họ nhận
ra tình thương Thiên Chúa, và nhận ra những yếu đuối và tội lỗi của họ, sẵn
sàng cho sự hoán cải tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những ví dụ cụ thể trong việc loan truyền
Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, khi Phaolô đến Ephesô và hỏi các tín hữu ở đây họ đã
lãnh nhận Thánh Thần chưa, họ trả lời: “Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi
cũng chưa hề được nghe nói.” Phaolô giải thích cho họ về sự khác nhau giữa hai
Phép Rửa, và khi họ đã hiểu, ông làm Phép Rửa nhân danh Đức Kitô cho họ, và họ
được lãnh nhận Thánh Thần. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu biết Cuộc Thương Khó
đã gần kề, Ngài xử dụng ngôn ngữ chân thành của tình yêu để giúp các Tông-đồ hiểu
rõ những gì sắp xảy ra; để các ông biết cách đối phó khi phải đương đầu với
tình thế.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô kiên nhẫn giáo dục các
tín hữu tại Ephêsô.
1.1/ Phaolô phân biệt hai Phép Rửa: Trong thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội,
nhiều tín hữu nghĩ chỉ có một Phép Rửa duy nhất là Phép Rửa bằng nước của Gioan
Tẩy Giả. Họ chưa bao giờ nghe tới Phép Rửa bằng Thánh Thần nhân danh Đức Kitô,
và tại sao phải chịu Phép Rửa này, như lời các tín hữu tại Ephesô trả lời
Phaolô hôm nay: “Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe
nói.” Hiểu biết sự thiếu thốn của dân, Phaolô kiên nhẫn mở trí cho họ:
(1) Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả: là Phép Rửa tỏ lòng sám hối.
Ông Gioan làm Phép Rửa này để tha thứ và chuẩn bị tâm hồn cho dân để họ tin vào
Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu. Phép Rửa này cần thiết, nhưng không phải là
Phép Rửa duy nhất.
(2) Phép Rửa bằng Thánh Thần của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi
Gioan, nhưng không để được tha tội, vì Ngài chẳng có tội gì để được tha. Các
Giáo Phụ cắt nghĩa, Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan để thánh hiến Nước của
sông Jordan và tất cả nước mà Giáo Hội dùng để rửa tội cho các tín hữu. Nhưng
điều khác biệt chính giữa hai Phép Rửa là sự hiện diện của Thánh Thần đậu xuống
trên Ngài.
Khi các tín hữu chịu Phép Rửa, họ không chỉ được tha tội, nhưng còn được
thánh hóa bởi Thánh Thần. Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách làm cho họ
hiểu biết Lời Chúa, và ban những ơn thánh cần thiết để giúp họ sống xứng đáng
ơn gọi của những người làm con Chúa. Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi chứng
kiến anh chị em tân tòng gia nhập đạo: họ không chỉ chịu Phép Rửa bằng nước,
nhưng còn lãnh nhận Thánh Thần qua việc xức dầu, và sau cùng được lãnh nhận
Bí-tích Thánh Thể trong cùng một nghi lễ. Đối với các em bé, Giáo Hội chia ra
làm ba Bí-tích riêng biệt trong quá trình thành người trưởng thành của em: Rửa
Tội khi ra đời, lãnh nhận Mình Chúa khi đến tuổi biết phân biệt, và Thêm Sức
khi đến tuổi biết làm chứng.
1.2/ Phaolô làm Phép Rửa ban Thánh Thần cho các tín hữu: “Khi ông Phaolô
đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên
tri. Cả nhóm có chừng mười hai người.” Nói tiếng lạ không chỉ giới hạn vào việc
nói các ngôn ngữ khác nhau như các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; nhưng trải rộng
trong việc nói ngôn ngữ làm cho người khác hiểu những gì mình nói: ngôn ngữ của
sự thật và của tình yêu. Nói tiên tri cũng không giới hạn vào việc tiên báo những
sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai; nhưng là nói thay Chúa, loan truyền những
Tin Mừng cho những người chưa được nghe Thiên Chúa nói trong cuộc đời của họ.
Khi các tín hữu được nói tiếng lạ và nói tiên tri, họ không nói những lời vô
nghĩa và lộn xộn như những người mất trí; nhưng là những lời sự thật và xây dựng
mà các tín hữu khác có thể hiểu. Sau khi làm Phép Rửa, ông Phao-lô vào hội đường,
và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và
cố gắng thuyết phục họ.
2/ Phúc Âm: Chúng con tin Thầy từ Thiên
Chúa mà đến.
2.1/ Đức tin và sự thử luyện:
(1) Chúa Giêsu nói từ tâm lòng với các môn đệ: Như chúng tôi đã đề cập
trong những lần chia sẻ trước, trình thuật hôm nay nằm trong phần giáo dục dành
riêng cho các môn đệ của Chúa Giêsu. Khán giả khác thì ngôn ngữ và lối suy luận
dùng cũng phải khác, nhất là Chúa Giêsu không cón nhiều thời gian để dạy dỗ các
ông, nên Ngài dùng ngôn ngữ của trái tim để chuẩn bị cho các ông những gì sắp xảy
đến. Không lạ gì mà các ông hiểu và thưa Ngài: “Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ
không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi
sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên
Chúa mà đến.”
(2) Giờ các môn đệ có đức tin là giờ mà cả Thầy trò phải chịu thử thách.
Đức Giêsu đáp: “Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ – và giờ ấy đã đến rồi – anh
em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy
không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy.” Chúa Giêsu không có ý mỉa mai các môn
đệ khi nói những lời này, nhưng Ngài muốn các ông hiểu hai sự thực quan trọng:
Thứ nhất, đức tin cần phải được thử luyện để biết đâu là đức tin vững chắc. Thứ
hai, người nào có đức tin vững chắc không bao giờ cô độc; người ấy luôn có
Thiên Chúa đồng hành và vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
2.2/ Chúa Giêsu để lại hai nguồn bình an của Ngài cho các môn đệ.
(1) Các môn đệ được bình an khi phản bội Thầy: Làm sao chúng ta hiểu câu
tuyên bố của Chúa: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được
bình an.” Chúa biết các ông sẽ phản bội Ngài vì sợ hãi và yếu đuối trong Cuộc
Thương Khó; nhưng Chúa vẫn yêu thương và trung thành với các ông. Chúa muốn nói
những lời này trước khi sự phản bội xảy ra, để các ông đừng thất vọng đến chỗ
tìm quyên sinh như Judah, nhưng biết tin vào sự tha thứ của Ngài.
(2) Lời hứa chiến thắng trước khi đụng trận: “Trong thế gian, anh em sẽ
phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” Không có gì
kích thích lòng nhiệt thành của các môn đệ hơn là lời hứa sẽ chiến thắng. Một
khi đã nắm chắc phần thắng lợi trong tay, người môn đệ sẽ lao vào chiến trường
mà không gian nguy nào có thể làm chùn chân ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Chúng ta không cần dùng những lời lẽ văn chương bóng bảy hay chải chuốt
trong việc loan báo Tin Mừng; nhưng cần những lời sự thật, đơn sơ mà mọi người
đều có thể hiểu.
– Quan trọng hơn nữa là chúng ta nên dùng những lời chân tình phát xuất từ
trái tim, và được sưởi ấm bởi Thánh Thần. Khán giả dễ nhận ra và đồng cảm với
những người quan tâm đến cuộc sống của họ, vì Thánh Thần cũng là Người đang hoạt
động trong khán giả.
– Chúng ta đừng sợ bất cứ điều gì trong hành trình rao giảng Tin Mừng, vì
chúng ta tin tưởng Ba Ngôi Thiên Chúa luôn đồng hành để soi sáng, nâng đỡ và bảo
vệ chúng ta.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
25/05/20 – THỨ HAI TUẦN 7 PS
Th. Grê-gô-ri-ô VII, giáo hoàng
Ga 16,29-33
CÙNG CHIẾN THẮNG VỚI ĐỨC KI-TÔ
“Thầy nói với anh em
những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải
gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 16,33)
Suy niệm: Ceasar đã ngạo nghễ tuyên
bố trước Nguyên Lão Viện Rô-ma: “Veni, vidi, vici” (Ta đã đến, Ta đã thấy, và
đã chiến thắng), để nói về chiến thắng thần tốc của ông tại Ponto (năm 47 tCN)
trong công cuộc chinh phục các nước. Thế nhưng, ông chỉ triệt hạ được các thành
trì, chứ không chinh phục được lòng người. Đức Giê-su cũng đã đến trần gian, đã
nhìn thấy những nỗi khổ đau của con người và đã chiến thắng. Ngài chiến thắng
thế gian, sự chết, quyền lực sự dữ. Khác với Ceasar, Ngài chinh phục lòng người,
chinh phục không bằng phô trương sức mạnh, nhưng bằng cách tỏ tình yêu thương.
Ngài chiến thắng cái ác bằng điều lành, thắng hận thù bằng tình thương, và thắng
sự chết bằng sự sống lại.
Mời Bạn: Nhớ lại đêm Canh thức Phục
sinh, khi thắp ngọn nến của mình từ nến Phục sinh, bạn tuyên xưng niềm tin vào
chiến thắng của Đức Giê-su. Bạn tuyên xưng tình thương thắng hận thù, chân lý
thắng gian tà, sự sống mạnh hơn sự chết.
Chia sẻ: Tôi có tin tưởng vào chiến
thắng của Đức Giê-su không?
Sống Lời Chúa: Tập tham dự vào chiến thắng của Đức Giêsu qua việc nỗ lực
chiến thắng tính ươn lười, hay vượt thắng một đam mê bất chính.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã
chiến thắng sự chết, hận thù, sự dữ. Xin cho chúng con được tham dự vào chiến
thắng của Chúa, qua việc chiến thắng chính bản thân chúng con. Xin ban sức mạnh
cho chúng con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Thầy không một
mình
Suy niệm:
Cô đơn trên đời là điều ai cũng sợ.
Phải chăng vì người ta không được dựng nên để sống một mình ?
Chẳng phải chỉ người trẻ mới sợ cô đơn và tìm cách tránh né.
Người già cũng sợ không kém .
Người ta sợ đi về thế giới bên kia một mình.
Trong thân phận làm người, Đức Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn.
Ngài không lập gia đình, không có một người bạn đời để chia sẻ.
Bù lại, Ngài có những người thân yêu ở làng Nadarét.
Nhưng ngay cả cha mẹ Ngài cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50).
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.
Tiếc thay, họ không phải là những người luôn luôn hiểu Ngài.
Ngài muốn chia sẻ cho họ tất cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha.
Nhưng họ chưa đủ sức kham nổi.
Đức Giêsu không phải là người thích cô đơn, khép kín.
Ngài dễ đến với dân chúng, với mọi hạng người.
Ngài gặp gỡ họ, loan Tin Vui, và cho họ được tâm thân an lạc.
Các bệnh nhân, tội nhân, trẻ em, phụ nữ,
cũng không ngại đến với Ngài để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.
Dù vậy tìm được một sự đồng cảm trọn vẹn nơi con người
vẫn là điều khó đối với Đức Giêsu,
bởi lẽ Ngài còn thuộc về một thế giới khác trên cao.
Ngài mãi mãi là một màu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của con người.
Chỉ khi trở về với nguồn cội đời mình,
Đức Giêsu mới ra khỏi được nỗi cô đơn trống trải ấy.
“Tôi không (xét đoán) một mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8,
16).
Chính vì Đức Giêsu luôn nói và làm mọi sự theo ý Cha,
nên Ngài chẳng bao giờ cô đơn .
“Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi một mình,
vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Vào giây phút chia ly này, khi Đức Giêsu biết điều sắp xảy đến:
“anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả, và để Thầy một mình.
Nhưng Thầy không một mình đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32).
Đức Giêsu không cô đơn trong cuộc sống,
mà ngay cả khi Ngài kêu lớn tiếng trên thập giá :
“Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34),
lúc đó lại là lúc Đức Giêsu gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả.
Đức Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối,
vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài,
và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha.
Chúng ta xin được ơn dám chịu cô đơn trước thế gian tội lỗi,
để được một mình với Chúa.
Cầu nguyện:
Giữa những ồn ào của đám đông,
Giữa những sôi nổi của thành công
Và ê chề của thất bại,
Xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
Giữa những khát khao thèm muốn
Và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
Xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
Giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
Chẳng có ai để cậy dựa,
Xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
Để một mình ở đó, trầm lắng và bình an.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG NĂM
Giấc Mơ Xa Vời Bỗng
Thành Hiện Thực
Kể từ ngày Lễ Hiện Xuống, cuộc giao hòa của tất cả các dân tộc trong
Thiên Chúa không còn là một giấc mơ xa xăm nữa. Cuộc giao hòa ấy đã trở thành
hiện thực – và mở rộng không ngừng theo nhịp lan rộng của Giáo Hội mang trong
mình Tin Mừng cứu độ. Chúa Thánh Thần, Đấng là Thần Khí tình yêu và hiệp nhất,
hiện thực hóa mục tiêu của cuộc hiến thân cứu chuộc của Đức Kitô – bằng cách
qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối.
Khi Thánh Thần hiệp nhất mọi người trở thành Dân Thiên Chúa, có hai điều
quan trọng được ghi nhận rõ ràng. Bằng cách dẫn đưa người ta gắn kết với Đức
Kitô, Thánh Thần đem họ vào trong mối hiệp nhất của Giáo Hội là Thân Mình Đức
Kitô. Như vậy, Thánh Thần giao hòa con người với nhau trong tình huynh đệ – dù
giữa họ có những nét khác biệt về địa dư và về văn hóa. Nói cách khác, Thánh Thần
làm cho Giáo Hội trở thành một nguồn hiệp nhất và hòa giải. Hơn nữa, Chúa Thánh
Thần hòa giải cả những người bên ngoài Giáo Hội – bằng một cách nào đó. Ngài
khơi lên trong mọi người niềm khát vọng hiệp nhất sâu rộng hơn và Ngài thúc đẩy
những cố gắng của người ta để họ vượt qua những mối xung đột ngổn ngang vẫn còn
phân rẽ thế giới.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 25/5
Thánh Bêđa khả
kính,
linh mục, tiến sĩ hội
Thánh
Thánh Grêgôriô VII
Giáo Hoàng
Thánh Maria
Madalêna Pazzi, trinh nữ
Cv 19, 1-8; Ga 16,
29-33.
Lời Suy Niệm: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên!
Thầy đã thắng thế gian.”
Đây là lời động viên của của Chúa
Giêsu đối với các môn đệ sau những lời tiên báo của Người: “Ít lâu nữa anh em sẽ
không thấy Thầy.” “Thầy đến cùng Chúa Cha” “Anh em sẽ khóc lóc và than van, còn
thế gian sẽ vui mừng”…
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa ban Thần
Khí của Chúa trên chúng con để chúng con luôn vững tin vào Lời Chúa mà can đảm
để chiến thắng những cám dỗ của thế gian
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
25-05: Thánh BÊ-ĐA Đáng Kính
Linh mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (673 – 735)
Chính thánh Beđa kể cho chúng ta biết mọi điều về cuộc đời thơ ấu của
Ngài. Trong vài câu thêm vào cuốn lịch sử Giáo hội, thánh nhân sinh năm 673 hay
là 674. Tên Bêđa theo từ ngữ Saxon có nghĩa là cầu nguyện. Cuộc sống của Ngài rất
gương mẫu nên người ta thêm cho Ngài biệt danh Vênêrabilê có nghĩa là khả kính.
Lên bảy tuổi Ngài bị mồ côi cha mẹ và được giao phó cho tu viện trưởng
Bênêdictô Biscop săn sóc giáo dục. Lúc 18 tuổi Ngài được thụ phong chức phó tế
và năm 702 hay 703 tức là lúc 29 tuổi Ngài được thụ phong linh mục.
Cuộc sống của Ngài trong tu viện rất cực nhọc. Chúng ta có thể tóm lược
cuộc sống ấy bằng chính lời Ngài: – “Tôi đã sống trọn đời nỗ lực học hỏi kinh
thánh và trong khi tuân thủ luật dòng cũng như bổn phận hàng ngày và hát thánh
ca tại nhà thờ, tôi sung sứơng được học hành, dạy dỗ và viết lách”.
Đây quả là tổng hợp chính xác trọn cuộc sống của thánh Bêđa, Ngài rất ít
rời bỏ nhà dòng. Chúng ta chỉ nghe biết có hai chuyện du hành của Ngài. Một lần
Ngài đi thu tập tài liệu về đời thánh Cuthbert, Ngài ở lại Lindisfanne và từ đó
đến viếng Farne Islanol để khảo sát những di tích trong căn phòng của vị thánh.
Một lần khác, Ngài đến York để thăm Đức tổng giám mục Egbert, và để quan sát
các trường học nổi tiếng ở đó.
Dạy học, thánh Bêna tỏ ra là một bậc thầy lỗi lac. Ngài không quan tâm
suy tư và ao ước được nổi bật. Tài năng của Ngài là cố gắng không cùng để tự
đào luyện mình rồi truyền thông không phải chỉ có những gì mình đã học mà còn cả
cảm thức về giá trị của điều đã được hiểu biết, đặt tầm quan trọng của việc giảng
dạy. Tuy nhiên chúng ta không thể nói nhiều về điểm này. Nhưng các sách đủ loại
Ngài viết đều là kiểu mẫu trong việc trưng dẫn các tài liệu. Chính cách trình
bày cẩn thận và điều độ và gắng để được chính xác và đúng đắn làm cho các sách ấy
có thế giá. Các tác phẩm của thánh Bêda có thể xếp thành ba loại. Các bút tích
về thần học của Ngài chính yếu gồm những phần dẫn giải thánh kinh của một thầy
dạy phần lớn dựa trên các sách giáo phụ Tây phương. Dầu thiếu sự độc sáng trong
cách trình bày, nhưng những dẫn giải của thánh Bêda ngày nay còn là phương tiện
tốt đẹp nhất để hiểu về các giáo phụ.
Các tác phẩm về khoa học của Ngài một phần là những giải thích cổ truyền
về các hiện tượng tự nhiên, một phần bàn về niên lịch và cách tính của Đông
phương. Cách tính niên lịch của Ngài kể từ thời Chúa Giêsu Giáng sinh đã được
Kitô giáo Tây phương chấp nhận rộng rãi hơn cả.
Các tác phẩm về lịch sử của thánh nhân có lẽ ngày nay được nhớ tới nhiều
hơn hết. Cuốn “Lịch sử Giáo hội của dân Anh” là một trong những tác phẩm quan
trọng nhất về lịch sử về thời đầu Trung cổ. Ngài đã viết cách khách quan và phê
phán cách quân bình, dựa trên những tài liệu và nhân chứng đáng tin cậy, Ngài
cũng viết một tiểu sữ về các tu viện ở Wearmonth và thơ văn về cuộc đời thánh
Cuthbert.
Kể từ năm 679, Ngài ở hai tu viện Wearmonth và Jarrow, chăm chú thi hành
bổn phận thuộc đời sống tu trì và vẫn không ngừng viết lách và dạy học. Lời
kinh ở cuối cuốn “Lịch sử Giáo hội” trình bày lý tưởng của Ngài: – “Lạy Chúa
Giêsu nhân từ, con khẩn cầu Chúa, khi đã cho con được vui hưởng những lời khôn
ngoan của Chúa thì xin Chúa cho con một ngày kia được đến gần bên thánh nhan
Chúa”.
Đương thời, không ai nghi ngờ sự thánh thiện của thánh nhân, nhưng Ngài
đã không làm một phép lạ, không được một thị kiến và không mở ra một đường lối
tu đức mới mẻ nào. Mùa hè năm 735 vào tuổi 63, sức khỏe suy giảm, Ngài còn bị
đau khổ bị bệnh suyễn. Dầu vậy, Ngài vẫn làm việc đến giây phút cuối cùng, đọc
cho thầy thơ ký hoàn tất cuốn sách Chú giải Phúc âm thánh Gioan và 48 giờ cuối
cùng trên giường bệnh. Đúng ngày lễ Thăng thiên 27 tháng 5 năm 735, thánh Beda
từ trần.
(daminhvn.net)
25 Tháng Năm
Cái Bật Lửa
Ðể kỷ niệm một trận chiến, một quận công bên Anh Quốc đã làm một bữa tiệc
khoản đãi một nhóm cựu sĩ quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông.
Tong bữa tiệc, ông dem kho một cái bật lửa rất đẹp mà Nữ hoàng Anh đã tặng
cho ông. Cái bật lửa đã được truyền từ tay người này đến tay người nọ để được
trầm trồ khen ngợi.
Sau bữa ăn, mọi người được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công
mới đem thuốc lá ra mời mọi người. Nhưng mặt ông bỗng biến sắc, vì ông lục lạo
mãi trong túi áo mà vẫn không tìm ra cái bật lửa. Ông hỏi quan khách có ai thấy
nó ở đâu không. Mọi người chia nhau đi tìm khắp nơi mà tuyệt nhiên vẫn không thấy
cái bật lửa. Lúc bấy giờ, một viên sĩ quan mới đề nghị cho tất cả mọi quan
khách nên lật túi áo của mình ra may ra mới có thể tìm thấy nó chăng. Lần lượt
tất cả mọi người đều kéo tất cả những gì có trong túi áo của mình ra. Duy chỉ
có một người không chịu chấp nhận công việc này. Mọi người đều đưa mắt nhìn về
ông và ai cũng đoán chắc đây là người đã đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của
ông tiều tụy, áo quần của ông lại rách rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ
quan để thề thốt và dứt khóat không mở túi áo ra cho mọi người xem.
Vài tuần lễ sau, ông quận công lại mở một bữa tiệc khác và lần này, ông
khám phá ra cái bật lửa trong túi áo của ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan
cho một viên sĩ quan đã từng chiến đấu bên cạnh mình, ông quận công đã quyết định
đến thăm anh ta để xin lỗi.
Nhà của viên cựu sĩ quan này nằm trong khu phố lầy lội nghèo nàn. Sau khi
đã xin lỗi, ông quận công đã hỏi viên sĩ quan: “Tại sao trong bữa tiệc hôm đó,
anh đã khước từ không mở túi ra cho mọi người xem?”.
Anh ta mới giải thích như sau: “Hẳn ngài đã thấy được căn nhà tôi đang ở
tồi tàn như thế nào. Từ lâu, tôi đã thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn
trong nhà. Ngài đâu có biết rằng hôm đó, tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ
ăn thừa trên bàn để mang về cho vợ con tôi”.
Sau khi hiểu được hoàn cảnh đáng thương của một người đã từng vào sinh ra
tử với mình, ông quận công quyết định đền bù bằng cách tìm cho viên cựu sĩ quan
một công việc xứng đáng.
Câu chuyện đáng thương tâm trên đây có lẽ cũng diễn ra trong cuộc sống
chúng ta dưới nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Nhưng tựu trung, có lẽ mẫu số
chung của câu chuyện ấy thường giống nhau: đó là chúng dễ nhìn và đoán xét người
theo bề ngoài. Lại nữa, một xã hội có quá nhiều lừa gạt đảo điên cũng khiến cho
chúng ta có thái độ e dè, nghi kỵ đối với những người thân thuộc.
Là tín hữu, chúng ta hãy nhìn ngắm cung cách cư xử của Chúa Giêsu. Ngài
không nhìn người bằng nhãn hiệu có sẵn. Ngài không đến với người bằng những định
kiến. Bên kia bộ quần áo sang trọng hay rách rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy
hình ảnh cao quý của chính Thiên Chúa. Ngài dành yêu thương cho những người
nghèo khổ, phường thu thuế, bọn gái điếm, những kẻ tội lỗi, những ngwòi con bị
xã hội đẩy ra bên lề. Ngài muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chỉ có một cái
nhìn duy nhất về con người: đó là cái nhìn của cảm thông, của tha thứ, của yêu
thương.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét