24/10/2014
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
29 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) Ep 4, 1-6
"Chỉ
có một thân thể, một Chúa, một đức tin và một phép rửa".
Trích
thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh
em thân mến, tôi là tù nhân trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy ăn ở xứng đáng với
ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận. Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn
nại, chịu đựng nhau trong đức ái: hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình
an hoà thuận làm dây ràng buộc: Chỉ có một thân thể và một tinh thần, cũng như
anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một đức tin,
một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Ðấng vượt trên hết mọi
người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi người.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Ðáp: Lạy Chúa, đó
là dòng dõi người tìm kiếm long nhan Chúa (x. c. 6).
Xướng:
1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư
trú ở trong. Vì chính Người xây dựng nó trên biển cả, và Người giữ vững nó trên
chỗ nước nguồn. - Ðáp.
2)
Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Người? Người
tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.
3)
Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân
thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà
Giacóp. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 15, 15b
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy
đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 12, 54-59
"Các
ngươi biết tìm hiểu diện mạo trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không
tìm hiểu?"
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán bảo dân chúng rằng: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi
lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như
thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã
xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời
đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không
tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra
trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn
thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho
lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể
ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Lạc
Quan, Tin Tưởng
"Sinh
ngày mùng 4 tháng 7", và "Bàn chân trái của tôi", đó là tựa đề của
hai cuốn phim Mỹ hay nhất năm1990. "Sinh ngày mùng 4 tháng 7" kể truyện
một thanh niên Mỹ bị động viên sang VN và trở thành kẻ tàn tật suốt đời. Bất
mãn, hận đời, người thanh niên gia nhập phong trào phản chiến ở Mỹ. Còn cuốn
phim "Bàn chân trái của tôi" cho thấy hình ảnh một con người phấn đấu
với những bất hạnh của mình để đạt thành công. "Bàn chân trái của
tôi" nêu bật bài học về lạc quan tin tưởng trong cuộc sống.
Thiên
Chúa không bao giờ bỏ mặc con người. Ngay cả khi con người tưởng chừng như mất
tất cả, thì đó chính là lúc Thiên Chúa ban ơn dồi dào hơn; từ những mất mát,
Thiên Chúa biến thành khởi điểm của những điều kỳ diệu.
Chúa
Giêsu luôn mời gọi chúng ta mặc lấy cái nhìn lạc quan và tin tưởng. Chúng ta dễ
cảm tạ Thiên Chúa khi gặp may mắn, thịnh đạt, thành công; nhưng chúng ta lại dễ
bị cám dỗ để không nhận ra sự hiện diện và tác động của Ngài trong những mất
mát, thua thiệt. Nhìn vào điềm báo thời tiết, chúng ta biết được trời sắp mưa
hay sắp nóng nực; cũng thế, nhìn vào những may mắn và cả những thất bại, chúng
ta hãy nhận ra lời mời gọi tin tưởng và dâng lời cảm tạ Chúa. Mỗi gặp gỡ, mỗi
biến cố đều là dấu chỉ thời gian, vừa bày tỏ sự hiện diện và tác động yêu
thương của Chúa, vừa mời gọi chúng ta tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên
Chúa.
Chỉ
với một bàn chân trái, một người tàn tật có thể vươn lên. Chúng ta hãy tự nhủ:
những mất mát, khổ đau, thử thách là cơ may Thiên Chúa ban để giúp chúng ta
vươn cao trong niềm tin. Chúng ta hãy nói lên niềm tin vào Ðấng luôn có mặt
trong cuộc sống chúng ta và tiếp tục yêu thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta
yếu hèn tội lỗi.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ
Sáu Tuần 29 TN2
Bài
đọc:
Eph 4:1-6; Lk 12:54-59.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần biết suy xét để
biết sống.
Trăm
người trăm ý, hơn nữa còn bao nhiêu tính khí khác nhau. Làm sao con người có thể
san bằng khác biệt và sống chung với nhau? Thánh Phaolô trong Bài đọc I đưa ra
5 đức tính tối quan trọng để con người có thể chung sống với nhau, và 7 điểm
tương đồng con người cần phát huy để bảo vệ sự hiệp nhất. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu nhấn mạnh đến việc suy xét: quan sát các hiện tượng xảy ra trong trời đất
để rút ra những kinh nghiệm sống cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Làm thế nào để bảo vệ sự hiệp nhất?
Sau
khi đã phân tích cho các tín hữu biết Mầu Nhiệm Cứu Độ và tình thương của Thiên
Chúa, thánh Phaolô thành tâm nói với các tín hữu của ngài: “Vậy, tôi là người
đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà
Thiên Chúa đã ban cho anh em.” Để sống xứng đáng với ơn gọi, Thánh Phaolô liệt
kê 5 nhân đức tối cần, theo kinh nghiệm của ngài, để duy trì sự hiệp nhất và những
điểm tương đồng mọi người đều có để xóa tan những chia rẽ và ngăn cách.
1.1/
Năm nhân đức quan trọng trong cuộc sống để duy trì sự hiệp nhất mà Thánh Thần
đem lại:
(1) Khiêm nhường (tapeinofrosuvnh): Đây là chữ không có
trong tự điển của Hy-Lạp; vì đối với họ, tĩnh từ “khiêm nhường” đồng nghĩa với
yếu kém, không đáng giá, hay không đáng quan tâm, và chỉ dành cho những người
nô lệ thấp hèn. Các tác giả của Kitô hữu sáng chế danh từ này (Acts 20:19, Eph
4:2) bằng cách xử dụng tĩnh từ (tapeinov~) và cho thêm vào tiếp vĩ ngữ
“frosuvnh,” đến từ động từ “fronevw= hãy coi như.” Đây là một trong những đức
tính quan trọng nhất của Kitô hữu tối cần cho sự hiệp nhất; và gương khiêm nhường
tuyệt hảo của Đức Kitô là gương sáng cho mọi người noi theo (Phil 2:6-11). Sự
“coi mình không ra gì” hay “tự hủy mình ra không” làm con người trông cậy nơi
Thiên Chúa và kính trọng tha nhân là con của Chúa.
(2) Hiền từ (prau<thj): Aristotles định
nghĩa hiền từ là nhân đức giữa 2 thái cực: nhu nhược và tức giận. Người hiền từ
là người biết kiểm sóat tính nóng giận của mình: luôn nóng giận đúng lúc và
không bao giờ nóng giận sai lúc.
(3) Nhẫn nại (makroqumi,a): không bao giờ bỏ cuộc
trước khó khăn và luôn trung thành cho tới khi đạt được kết quả mong muốn. Danh
từ này được xử dụng đặc biệt cho sự kiên nhẫn giữa con người với con người, nhẫn
nại để chinh phục người khác.
(4) Bác ái (avga,ph||): Danh từ này chỉ được
dùng trong khuôn khổ Kitô Giáo. Bác ái đến từ Thiên Chúa lan rộng đến con người
và lan tràn đến mọi người. Khi có đức bác ái này, con người có thể yêu thương kẻ
thù và hy sinh cuộc đời cho tha nhân.
(5) Bình an (eivrh,nh): có thể định nghĩa
là liên hệ đúng đắn giữa con người với con người. Để có bình an đích thực, con
người cần hiểu biết sự thật.
1.2/
Những điểm tương đồng của tất cả: Để mang lại sự hiệp nhất Kitô Giáo, các Đức Giáo
Hòang của thế kỷ 20 đã nhấn mạnh đến những gì là “của chung” trong các phiên họp
Đại Kết. Những điểm tương đồng cần được phát huy mạnh mẽ để xóa dần đi những điểm
dị biệt. Thánh Phaolô liệt kê tài sản chung của các tín hữu:
(1)
Chỉ có một thân thể: là
Đức Kitô mà mọi người là những chi thể (I Cor 12:12);
(2)
một Thánh Thần: họat
động nơi Đức Kitô và trong mọi người (I Cor 12:13);
(3)
một niềm hy vọng: là
được sống đời đời với Thiên Chúa;
(4)
Chỉ có một Chúa:
là Đức Giêsu Kitô. Ngòai Ngài ra, không có Chúa nào khác;
(5)
một niềm tin: vào
Đức Kitô là Con Thiên Chúa;
(6)
một Phép Rửa: để
tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu;
(7)
Chỉ có một Thiên Chúa: Cha
của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người. Ngài
làm mọi sự cho mọi người.
2/
Phúc Âm:
Phải biết dùng trí khôn để tìm ra sự thật.
2.1/
Kiến thức về thời tiết: Cha
ông chúng ta ngày xưa, tuy không có các dụng cụ dùng để tiên đóan thời tiết như
chúng ta ngày nay, biết dùng kinh nghiệm để tiên đóan thời tiết; và lưu truyền
cho con cháu bằng những câu thơ đơn giản, dễ hiểu, và dễ nhớ. Chẳng hạn: “Cơn
đàng Đông vừa trông vừa chạy,Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi.” Ý nghĩa: Khi
thấy mây đen kéo tới từ phía Đông của Việt Nam, nghĩa là từ Biển Nam Hải đi tới,
là chắc chắn sẽ có mưa. Vì thế, phải chạy cho nhanh chóng kẻo bị ướt; nhưng khi
thấy mây đen kéo tới từ phía Nam, thì sẽ không có mưa, cứ việc thong thả làm
hay chơi.
Đức
Giêsu cũng dùng kinh nghiệm như thế khi nói với đám đông rằng: "Khi các
người thấy mây kéo lên ở phía Tây, các người nói ngay: "Mưa đến nơi rồi,"
và xảy ra đúng như vậy. Khi thấy gió Nồm thổi, các người nói: "Trời sẽ oi
bức," và xảy ra đúng như vậy. Ý nghĩa: Khi mây đen kéo tới từ phía Tây của
Do-Thái, nghĩa là từ Biển Mediterranean đưa tới, là chắc chắn sẽ có mưa; khi
gió Nồm (gió từ phía Nam) thổi tới là trời sẽ oi bức.
2.2/
Kiến thức về thời gian: Vào
thời đại của Chúa Giêsu, mọi người đều trông đợi Đấng Thiên Sai tới để giải
phóng dân tộc. Theo các Sách Tiên Tri, Thiên Chúa sẽ cho những dấu để dân nhận
biết khi nào Đấng Thiên Sai tới; chẳng hạn, theo Sách Tiên tri Isaiah: “Đức
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những
tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho
những tù nhân” (Isa 61:1). Nhưng khi Chúa Giêsu nhắc cho họ biết, chính Ngài là
Đấng tiên tri Isaiah đã loan báo (Lc 4:21), họ vẫn không tin vào Ngài. Đó là lý
do tại sao hôm nay Chúa trách họ: “Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời,
thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận
xét?”
2.3/
Dùng kiến thức tâm lý để chuẩn bị cuộc sống tương lai: Để chuẩn bị đối diện
với sự công bằng của Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét, Chúa trưng dẫn một ví dụ về
kiện cáo mà con người vẫn thường làm: “Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra
toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy
lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại
tống anh vào ngục. Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả
hết đồng xu cuối cùng.” Ý nghĩa: công bằng là phải trả cho người khác những gì
thuộc về họ. Nếu đã đối xử bất công với người khác thì hãy đền trả họ càng sớm
càng tốt; nếu không, sẽ phải đền trả nơi tòa án và sẽ phải chịu tù đày nữa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Để sống hiệp nhất với nhau, chúng ta cần có 5 nhân đức: khiêm nhường, hiền
lành, nhẫn nại, bác ái, và an bình; và phát huy những “điểm chung” để có thể
cùng nhau tiến tới.
-
Con người là con vật biết suy xét: biết dùng kinh nghiệm quá khứ để rút ra kinh
nghiệm sống cho hiện tại; đồng thời, biết dùng những gì xảy ra trong hiện tại để
mưu ích cho tương lai.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 29
Lc 12,54-59
A. Hạt giống...
Những lời này Chúa Giêsu nói cho những người do
thái thời Ngài nghe. Ý chính là khuyên họ hãy sáng suốt nhận ra những dấu chỉ
thời đại :
- cc 54-56 : họ rất giỏi nhìn những dấu chỉ thiên
văn để đoán trước trời sẽ mưa hay sẽ oi bức. Tại sao họ không nhận ra ý nghĩa
của những lời Chúa Giêsu nói và những việc Ngài làm để biết rằng đã đến thời
cuối cùng của lịch sử cứu độ ?
- cc 57-59 : bằng dụ ngôn hai người đưa nhau ra
tòa, Chúa Giêsu khuyên hãy gấp rút lo hòa giải với nhau trước khi bị tòa kết
án.
B.... nẩy mầm.
1. Khi cơ thể ta mang thêm một chứng bệnh, khi
một phần cơ thể ta yếu đi... tất cả đều là những tín hiệu cho biết trước ngày
lìa thế của ta càng lúc càng gần. Tại sao nhiều người không nhận ra những tín
hiệu ấy và sống như sẽ không bao giờ chết ?
2. “Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng
của chúng ta ; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta ; nhưng Ngài la
lớn trong những cơn đau của chúng ta” (C.S. Lewis).
3. Khi biết chắc mình không còn nhiều thời giờ,
người ta phải giải quyết nhiều vấn đề một cách rất gấp rút. Đối với những vấn
đề quan trọng, thì cho dù không biết chắc thời giờ của mình còn lại nhiều hay
ít, người khôn ngoan cẩn thận cũng lo giải quyết sớm. Điều chắc chắn : số phận
đời đời là một vấn đề quan trọng. Điều ta không nắm chắc : thời giờ của mình
còn lại bao nhiêu.
4. “Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời
thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này sao các ngươi không biết nhật xét
?” (Lc 12,56)
Đất nước đã thay đổi rất nhiều. Tôi nhận ra điều
đó ở trang phục của người dân thành phố. Người ta bỏ ra nhiều thời gian hơn để
mua sắm, may mặc. Các mode áo quần xuất hiện liên tục rồi thay đổi liên tục. Có
những kiểu lịch sự, sang trọng làm người mặc trở nên duyên dáng, đáng yêu.
Nhưng cạnh đó cũng có những kiểu hạ thấp giá trị người mặc. Vật chất giúp người
ta sống thoải mái và xứng đáng hơn ; nhưng cũng chính nó làm cho kẻ yếu lòng
đánh mất phẩm giá cao quí của con người. Đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, tôi
cảm thấy trao đảo trước những biến đổi của xã hội. Các chuẩn mực đạo đức văn
hoá dường như đang lung lay. Đâu là ranh giới giữa đời sống thoải mái và một
đời sống quá phụ thuộc vào vật chất, đâu là ranh giới giữa hạnh phúc và lầm lạc
?
Lạy Cha, xin cho biết sáng suốt nhận ra con đường
đúng đắn cho cuộc đời. (Hosanna)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
24/10/14 THỨ SÁU TUẦN
29 TN
Th. An-tôn Ma-ri-a Cla-rét, giám mục
Lc 12,54-59
Th. An-tôn Ma-ri-a Cla-rét, giám mục
Lc 12,54-59
Suy niệm: Một
Ki-tô hữu đã ngoại bát tuần và cũng là giáo sư triết học nhận xét một cách châm
biếm rằng: “Nhìn chung, con người hiện đại vừa rất thông minh mà cũng vừa rất
ngu!” Bằng chứng là con người đã đạt vô số những thành tựu ngoạn mục về khoa
học và công nghệ, nhưng ngược lại, lại dùng chính những thành tựu ấy không chỉ
để đe doạ mà hơn nữa còn tàn phá, hủy diệt chính mình. Xem thế, khôn ngoan
thường thức nếu không gắn liền với sự khôn ngoan tâm linh thì quả là một tai
hoạ khôn lường. Đây chính là nhận định của Chúa Giê-su về những người đương
thời, những người biết nhận xét cảnh sắc đất trời nhưng lại không hiểu ‘thời’
của họ. Con người muốn tiến bộ thực sự phải nhận biết sự hiện hữu của Thiên
Chúa và hoạt động của Ngài nữa.
Mời Bạn ý
thức tầm quan trọng của đời sống tâm linh. Chúng ta phải nhạy bén với dấu hiệu
của Thiên Chúa trong lịch sử giống như ta vẫn nhạy bén với các cơ hội làm ăn.
Thiên Chúa đã đến bằng xương bằng thịt nơi con người Giê-su Na-da-rét, nhưng
những người Do thái thời ấy đã hụt mất. Ngày nay, với chúng ta, Thiên Chúa vẫn
hiện diện và hoạt động qua Thánh Thần của Đức Ki-tô. Vun trồng đời sống tâm
linh chính là vun trồng sự nhạy bén với những gợi ý của Chúa Thánh Thần qua
muôn ngàn thực tại của đời sống hằng ngày.
Sống Lời Chúa: Tôi
bắt đầu một ngày bằng năm phút cầu nguyện để cả ngày sống thấm nhuần tinh thần
của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong cuộc
sống.
Nhận xét thời đại này.
Mở mắt to để thấy, mở
tai to để nghe, đó phải là thái độ của Kitô hữu, vì hôm nay Thiên Chúa vẫn nói,
vẫn làm nơi Đức Kitô, Con của Ngài.
Suy niệm:
Tục ngữ ca dao nước ta
không thiếu những câu nói về thời tiết.
Kinh nghiệm dân gian cho
phép dự đoán những gì sắp xảy ra.
Có những dấu hiệu báo
trước cơn mưa hay dông bão.
“Sấm đàng đông vừa trông
vừa chạy, sấm đàng nam vừa làm vừa chơi.”
Người dân nước Paléttin
cũng có những kinh nghiệm tương tự.
“Mây kéo lên ở phía tây”
là mây đến từ biển Địa Trung Hải.
Khi thấy mây từ biển tiến
vào, người ta đoán mưa đến nơi rồi (c. 54).
Khi thấy gió từ phương
nam thổi đến,
luồng gió nóng từ vùng
núi Ả-rập,
người ta biết ngay thời
tiết sẽ hết sức oi bức (c. 55).
“Và xảy ra đúng như vậy”,
Đức Giêsu nhắc lại câu này hai lần.
Ngài cho thấy dự đoán của
dân chúng về thời tiết ít khi sai.
Họ khá bén nhạy trước
những dấu hiệu thay đổi nhỏ của trời đất.
Tiếc là dân chúng thời
Đức Giêsu lại không đủ bén nhạy
để có thể nhận biết được
ý nghĩa của những dấu chỉ
đang diễn ra trước mắt
họ.
Đức Giêsu ngạc nhiên vì
những người cùng thời với Ngài
không thấy được cái độc
nhất vô nhị của thời đại họ đang sống.
Họ không cảm thấy hạnh
phúc khi được Thiên Chúa đến viếng thăm.
Chính vì thế ơn cứu độ
của Thiên Chúa có thể bị quên lãng.
“Hỡi những kẻ đạo đức
giả!” Đức Giêsu đã gọi họ như thế (c. 56).
Tại sao các anh nhạy bén
trước điều này, mà lại thờ ơ trước điều kia?
Thiếu bén nhạy về mặt tôn
giáo cũng là cơn bệnh của con người thời nay.
Thiên Chúa vẫn nói với
con người hôm nay qua các dấu chỉ.
Vấn đề là làm sao đọc
được ý nghĩa của những dấu chỉ đó.
Thiên Chúa không hiện ra
để dạy con người biết tôn trọng trái đất.
Nhưng những hậu quả mà
con người phải chịu là lời nhắc nhở của Ngài.
Khi trái đất ấm dần lên,
khi băng tan ra và mực nước biển dâng cao,
một số phần đất của quê
hương ta sẽ bị chìm dưới nước.
Khi người dân chặt phá
rừng, thì lụt lội và hạn hán là chuyện dĩ nhiên.
Cơn bệnh của thế kỷ cũng
có thể là một lời nhắc nhở.
Thiên Chúa mời gọi vợ
chồng sống chung thủy trong hôn nhân,
và mời các bạn trẻ sống
trong sạch trước khi lập hôn ước.
Ngay cả cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu cũng là một dấu chỉ.
Con người được mời gọi
tìm ra những cơ cấu kinh tế vững vàng hơn,
để không bị một số ít nhà
tư bản hay nước tư bản thao túng.
Mở mắt to để thấy, mở tai
to để nghe, đó phải là thái độ của Kitô hữu,
vì hôm nay Thiên Chúa vẫn
nói, vẫn làm nơi Đức Kitô, Con của Ngài.
Ngài vẫn nói với chúng ta
qua hơn 90% người Việt Nam chưa biết Chúa.
Ngài vẫn nói với ta khi
có những bạn trẻ Kitô hữu nghiện ngập, hư hỏng.
Ngài vẫn mời chúng ta làm
một điều gì đó cho bao người nghèo khó,
cho trẻ em thất học, cho
những phụ nữ lỡ làng, cho những người neo đơn.
Chỉ xin cho ta cảm được
chút gió nhẹ của Chúa trong đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ
của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của
cả trái đất này
là thuộc về mọi người,
mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô
đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu
yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái
đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được
hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân
như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp
các gia đình,
các công viên và bãi biển
đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới
đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của
trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy
vọng
nơi lòng những ai ham
sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực
hiện những ước mơ đó.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Theo chứng
minh của khoa học, dân Do Thái đạt chỉ số thông minh (IQ) cao nhất thế giới. Vì
sao họ có chỉ số thông minh cao như vậy? Có lẽ vì họ là dân Chúa chọn nên Chúa
ban cho họ những ơn đặc biệt. Xét về khía cạnh khoa học, vì họ kiên cử những
thức ăn đồ uống (cấm trong Thánh Kinh) làm ảnh hưởng đến sự phát triển của não,
nhờ đó họ có chỉ số thông minh cao.
Hôm nay,
qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khen họ biết nhận ra sắc trời để biết mưa hay
nắng: ‘Khi các ngươi thấy mây kéo lên phía tây, các người nói ngay “mưa
đến nơi rồi” và xảy ra đúng như vậy. Khi thấy gió nồm thổi, các người nói:
“Trời sẽ oi bức” và xảy ra đúng như vậy’(Lc 12,54-55).
Có thể
nói, tuy Chúa Giêsu khen họ biết nhận xét thời đại nhưng Chúa Giêsu khiển trách
vì họ chỉ dừng lại ở đó mà không biết nhìn xa hơn, không biết nhận ra thánh ý
Chúa từ những biến cố xảy đến hầu lo thu xếp cho phần rỗi linh hồn của mình.
Trong cuộc
sống Chúa gởi đến cho ta nhiều biến cố nhưng chúng ta có đón nhận những biến cố
ấy dưới ánh sáng đức tin như Abraham, Môsê, các Tiên tri và các thánh không?
Với con mắt đức tin, chúng ta sẽ đón nhận mọi biến cố xảy đến với chúng ta với
niềm cậy trông và phó thác, nhờ đó chúng ta có thể thu xếp đời mình cho ổn thỏa
với Chúa và tha nhân trước khi đã quá muộn (Lc 12,58).
Lạy Chúa,
xin cho chúng con biết nhận ra sự thật trong mỗi biến cố của cuộc sống từ đó
mỗi người chúng con biết chu toàn bổn phận đối với Chúa và tha nhân. Đặc biệt
là luôn biết tỉnh thức để chuyên tâm lo phần rỗi linh hồn hầu mỗi người chúng
ta được hưởng hạnh phúc với Chúa mãi mãi.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng 10
24
THÁNG MƯỜI
Xin
Cho Chúng Nên Một
Chiều
hôm trước khi vào cuộc Khổ Nạn, trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Chúa Giêsu đã
cầu nguyện cho sự hiệp nhất của tất cả những ai tin vào Ngài. Ngài nói: “ Lạy
Cha, con không chỉ cầu xin cho những người này – tức các tông đồ- nhưng còn cho
những ai nhờ họ mà tin vào con, để tất cả nên một như Cha ở trong Con và Con ở
trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17, 20-21).
Chúng
ta cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện này với chính Chúa Kitô – vị Thượng tế
của Giao Ước Mới. Chúa Kitô hiến trao chính bản thân mình làm hy lễ. Ngài trao
hiến chính Thịt và Máu của Ngài. Ngài trao hiến cuộc sống và cái chết của Ngài.
Và với hy tế này, hy tế thánh thiện vô song, Ngài giao hòa thế giới với chính
Ngài. Đức Kitô chết trên Thập Giá để “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp
nơi về một mối” (Ga 11,52).
Lời
nguyện hiến tế của Chúa Giêsu được thốt ra từ chính trọng tâm của hy tế này. Cả
lời cầu nguyện và cái chết hy tế của Ngài đều có cùng một mục đích là “Xin cho
chúng nên MỘT”.
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
24-10
Ep 4, 1-6; Lc 12, 54-59.
LỜI
SUY NIỆM:
“Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc trời,
thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận
xét.” (Lc 12,56)
Trong thời của Chúa Giêsu khi Ngài ở giữa những Do-thái, Chúa dủng đủ mọi cách:
bằng lời nói, bằng những phép lạ, bằng những dụ ngôn thật gần giủ với họ, đưa
ra những hình ảnh hết sức cụ thể và đang hiện diện trong cuộc sống của họ, Để
nói cho con người biết về Thiên Chúa: Một Vị Thiên Chúa độc nhất và quyền năng.
Một Vị Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương và đầy tha thứ, Một Vị yêu thương chờ đợi
con người biết sám hối ăn năn, Một Vị Thiên Chúa đi tìm những con chiên lạc. Một
Vị Thiên Chúa vui mừng khi có người ăn năn trở lại với Ngài. Chúa Giêsu còn nói
cho biết về Nước Trời, nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và những người được
Thiên Chúa chúc phúc. Chúa Giêsu chỉ rõ con đường để được vào Nước Trời. Thế mà
họ không quan tâm, không biết nhận xét. Đứng trước những dấu chỉ của thời đại
hôm nay. Chúa Giêsu đang mời gọi mỗi Ki-tô hữu phải biết quan tâm và nhận xét để
sống và cọng tác với Ngài, để cứu rỗi các linh hồn.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
24-10
Thánh
ANTÔN MARIA CLARET
Giám mục - Tổ phụ dòng Trái tim vẹn sạch mẹ Maria (1807 - 1870)
"Tình
yêu Chúa Kitô thúc bách tôi"
Đó
là châm ngôn và chương trình đời sống thánh ANTÔN MARIA CLARET. Ngài sinh năm
1807 tại Sallent Bắc Tây Ban Nha, trong một gia đình khiêm tốn làm nghề dệt. Là
con thứ 5 trong 10 anh em, thánh nhân tỏ ra nhanh nhẹn thông minh có khiếu đối
với nghề nghiệp của cha anh và được gởi đi Barcelone trong một xưởng máy lớn.
Ban chiều, Ngài dự lớp học Pháp văn, nghiên cứu La văn và luyện nghề ấn loát,
không có gì Ngài xao lãng cả. Ơn gọi đi tu sống sâu trong đáy lòng Ngài, kèm
theo mọi hành động và sắp trở thành mạnh mẽ nhất: cuối cùng Ngài đã bước qua cổng
chủng viện ở Vich năm 1829.
Trước
tâm hồn phong phú của thánh nhân, Đức cha Corcue ra đã rút ngắn chương trình thần
hoc. Ngài thụ phong linh mục 6 năm sau và cử hành thánh lễ đầu tiên tại giáo xứ
Ngài đã được rửa tội. Được cử làm cha sở, Ngài đã thánh hóa địa hạt của mình.
Nhưng việc tông đồ của Ngài cần một điạ hạt rộng lớn hơn. Ngài đi Roma, muốn
gia nhập dòng Tên nhưng một vết thương ở chân buộc Ngài từ bỏ ý định trở về Tây
Ban Nha. Bản chất nóng nảy của Ngài tỏ lộ những ân huệ siêu nhiên mới, tài hùng
biện thánh của Ngài tăng bội số những cuộc trở lại, chủ đề được ưa chuông của
Ngài là: đường thẳng và chắc để về trời" và ngày càng thêm nhiều người dấn
thân vào đường hẹp sỏi đá mở ra ánh sáng. Đức Trinh Nữ hình như hiện diện khi
Ngài trình bày các bổn phận của bậc sống nhạt nhẽo nhưng có nét đẹp ẩn giấu trước
mặt Chúa, các từ bỏ liên tiếp... Ngài đã đi giảng như vậy qua một tỉnh với hành
trang gồm có cuốn sách Thánh Kinh và sách nguyện gói trong khăn, Ngài từ chối tất
cả tiền bạc, ngủ dưới vòm trời, giải tội ngày đêm và dâng lễ khi ánh sao cuối
cùng vừa lặn. Ngài đã đặt tay chữa bệnh, chiêm ngắm các cuộc hiện ra.
Antôn
rất gần gũi tự do đến nỗi đã gây nên những ghen tương, những lời chế nhạo ngắt
ngang bài giảng của Ngài. Mạng sống bị đe dọa, Ngài phải giã từ quê hương thân
yêu để rồi chỉ trở lại 15 năm sau để được đề cử và tấn phong Tổng giám mục
Santiago, Cuba, tại nhà thờ chính toà Vich, Ngài đã dùng khoảng thời gian giao
thời này để Phúc âm hoá các đảo Camari và đặt nền móng tu hội thừa sai Trái tim
vẹn sạch Đức Mẹ, Ngài nỗ lực dưới mọi hình thức để cứu vớt các linh hồn. Đây là
lúc Ngài thêm danh hiệu MARIA vào tên mình.
Vị
tổng giám mục truyền giáo cập bến, Ngài sắp gặp thấy một giáo xứ đầy thương tâm
gồm một ít linh mục thiếu học nghèo túng, Ngài thiết lập một nhóm học hiểu biết
và tiếp tục vai trò người bao bọc vì Chúa Kitô, Ngài mất 6 năm để rảo qua các
điạ phận mênh mông của mình, những con số sau đây nói lên hoạt động của Ngài:
11.000 bài giảng, 120.000 lễ Thêm sức, 40.000 phép rửa tội, 12.000 lễ hôn phối.
Còn mệt nhọc hơn cả những khó khăn trên đường, thánh nhân hòa mình với các bệnh
nhân ngã gục vì dịch tả. Các chủ nhân buôn bán nô lệ tố cáo Ngài đã xúi giục
các người bị tàn phá nổi loạn. Mười lăm lần Ngài đã thoát chết. Ngài mơ lập một
trường nông nghiệp nhưng gặp những chống đối mạnh mẽ.
Theo
lời thỉnh cầu của hoàng hậu Isabelle II, đức giáo hoàng đã cử thánh Antôn Maria
làm tuyên úy cho bà. Ngài nhận lời sau nhiều do dự, với điều kiện là sẽ đứng ra
ngoài mọi chuyện chính trị và không sống trong hoàng cung. Từ Maddrid, Ngài tiếp
tục cai quản Cuba. Nhưng sự ghen tương không dứt. Sự vu khống đã đưa đến
chỗ các kẻ thù ký tên khả kính của Ngài dưới những danh sách bần tiện, trong
khi chính Ngài đã là tác giả xây dựng của 150 pho sách hay những tập rời. Cuộc
cách mạng đã xua đuổi hoàng hậu tới Pan, rồi Paris là nơi cha giải tội
đã theo bà và lo lắng cho thuộc điạ Tây ban Nha và vẫn theo đuổi phát triển của
tu hội truyền giáo, Ngài dự cộng đồng bàn về giáo thuyết bất khả ngộ của tòa
thánh. Sự ghen ghét của những thù địch người Tây ban Nha theo đuổi Ngài mãi. Thánh
nhân một thời rút lui về một trong những nhà dòng của Ngài ở Prades, rồi ở
L'Audes, nơi các thày dòng Xitô ở Phontfroide là nơi không hề phàn nàn kêu
trách năm 1870.
Antôn
Maria Claret vị thánh rất tân thời đã tỏ ra là nhà tiên phong với nhà sách đạo của
Ngài. Trước khi có các tu hội triều ngày nay, Ngài đã sáng nghĩ ra "các nữ
tu tại gia" là học giả uyên bác, Ngài đã xếp các văn sĩ có giá trị, các
nghệ sĩ công giáo vào "hàn lâm viện thánh Micae".
(daminhvn.net)
24
Tháng Mười
Ngày Liên Hiệp Quốc
Vào
năm 1945, ba quốc gia gây chiến Ðức, Italia, Nhật mang bộ mặt tan tác tả tơi của
những nước bại trận. Ða số những thành phố lớn tại Ðức, cũng như hai thành phố
Hiroshima và Nagasaki tại Nhật chỉ còn là những đống gạch vụn, những thành phố
chết.
Hình
ảnh của thế giới, nhất là tại các quốc gia bị chiến tranh tàn phá trong những
năm "39-45" có lẽ không khác gì bộ mặt của trái đất sau trận lụt Ðại
Hồng Thủy, khi trận lụt vĩ đại gây ra do những trận mưa lũ kéo dài 40 ngày đêm
đã giết hại mọi sinh vật, như tác giả sách Khởi Nguyên viết: "Mọi loài xác
thịt động đậy trên đất đều tắt thở: chim chóc, thú vật, mãnh thú... tất cả các
vật trên cạn đều bị xóa sạch trên mặt đất từ người cho đến xúc vật, côn trùng
và chim trời...".
Từ
đống tro tàn của thế chiến thứ hai, một ý nghĩa đã được manh nha và Liên Hiệp
Quốc đã thành hình với mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình. Vì như một
chính trị gia đã phát biểu: "Nếu con người không hủy diệt chiến tranh, chiến
tranh sẽ hủy diệt con người".
Nhưng
từ ngày tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập vào năm 1945 đến nay không biết
bao nhiêu cuộc chiến song phương cũng như nội bộ đã xảy ra. Những bàn tay con
người vẫn được dùng để giơ gươm, để lảy cò, để bấm nút nhữntg khí giới giết người.
Vì thế súng vẫn nhả đạn và máu tươi vẫn tuôn rơi, lòng đất mẹ vẫn thấm máu con
người.
Ngày
24 tháng 10 hằng năm, bao nhiêu lá cờ của mọi quốc gia đã được trưng lên trong
những buổi lễ kỷ niệm ngày Liên Hiệp Quốc được thành lập, bao nhiêu sinh hoạt
đã được tổ chức để nhắc nhở con người, không phân biệt màu da, tiếng nói, không
phân biệt tín ngưỡng hay quan niệm về thể chế chính trị, ý nghĩa của tổ chức
mang mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình.
Nhưng
thiết nghĩ, hòa bình thế giới không thể được thiết lập nếu lòng người chưa đạt
được sự an bình, vì nếu những tâm tình ganh ghét, ghen tuông, nghi kỵ, nếu những
tư tưởng lợi dụng, đàn áp, bóc lột vẫn còn âm ỉ cháy trong lòng chúng ta, thì
ngọn lửa chiến tranh vẫn còn có thể bùng cháy bất cứ lúc nào.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét