07/04/2018
Thứ bảy tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH
Bài Ðọc I: Cv 4, 13-21
"Chúng tôi
không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ nhận thấy Phêrô và Gioan kiên quyết, và biết
hai ngài là những kẻ thất học và dốt nát, nên lấy làm lạ; và còn biết rằng hai
ngài đã ở cùng Ðức Giêsu; họ thấy kẻ được chữa lành đứng ở đó với hai ngài, nên
họ không thể nói gì nghịch lại được. Họ mới truyền lệnh cho hai ngài ra khỏi hội
nghị, rồi thảo luận với nhau rằng: "Chúng ta phải làm gì đối với những người
này? Vì toàn dân cư ngụ ở Giêrusalem đều hay biết, phép lạ hai ông đã làm rõ
ràng quá chúng ta không thể chối được. Nhưng để sự việc không còn loan truyền
trong dân nữa, chúng ta hãy đe doạ, cấm hai ông không được lấy danh ấy mà giảng
cho ai nữa". Họ liền gọi hai ngài vào và cấm nhặt không được nhân danh Ðức
Giêsu mà nói và giảng dạy nữa. Nhưng Phêrô và Gioan trả lời họ rằng: "Trước
mặt Chúa, các ngài hãy xét coi: nghe các ngài hơn nghe Chúa, có phải lẽ không?
Vì chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe".
Nhưng họ lại đe doạ hai ngài, rồi thả về, vì không tìm được cách nào trừng phạt
hai ngài, họ lại còn sợ dân chúng, vì mọi người đều ca tụng Thiên Chúa về việc
đã xảy ra.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1 và
14-15. 16ab-18. 19-21
Ðáp: Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi (c. 21a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ
Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Chúa là sức mạnh, là
dũng lực của tôi, và Người trở nên Ðấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng
vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân:Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.-
Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã cất
nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ
sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi,
nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần. - Ðáp.
3) Xin mở cho tôi các
cửa công minh, để tôi vào và cảm tạ ơn Chúa. Ðây là ngọ môn của Chúa, những người
hiền đức qua đó tiến vào. Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi, và đã trở
nên Ðấng cứu độ tôi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! -
Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 16, 9-15
"Các con hãy
đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi Chúa Giêsu sống lại,
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria
Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với
Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy
Người, nhưng họ không tin. Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai
môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ
cũng không tin các ông ấy. Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang
ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ
đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: "Các con hãy đi khắp thế gian rao
giảng Tin Mừng cho muôn loài".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Những lần hiện
ra
Ðoạn Tin Mừng hôm nay
là một tóm kết về những lần hiện ra của Chúa Giêsu khi Ngài sống lại. Thánh
Marcô nhấn mạnh đến sự cứng lòng tin của các môn đệ để làm nổi bật chứng từ của
Chúa Giêsu hiện ra và mệnh lệnh phải ra đi làm chứng cho Ðấng Phục Sinh. Chúa
Giêsu Phục Sinh vẫn mãi mãi là một, nhưng khi hiện ra, Ngài luôn đến với hình dạng
của một người xa lạ. Với bà Maria Madalena, Ngài hiện ra như một người làm vườn;
với hai môn đệ đi về làng Emmaus, Ngài đồng hành như một lữ khách xa lạ; với
các môn đệ chài lưới, Ngài xuất hiện như một người mà họ cũng không nhận ra
ngay tức khắc. Niềm tin vào Ðấng Phục Sinh luôn đòi hỏi các môn đệ phải làm một
bước nhảy vọt để từ một người xa lạ, nhận ra dung mạo của Thầy mình. Từ hai
ngàn năm qua, chứng từ về Ðấng Phục Sinh cũng luôn diễn ra như thế, từ cuộc sống
của cộng đồng tín hữu tiên khởi, qua cái chết của các vị tông đồ đến cuộc tử đạo,
của không biết bao nhiêu các tín hữu ở mọi thời đại, cuộc sống tin cậy mến ở mọi
nơi là một chứng từ sống động và liên lỉ về Ðấng Phục Sinh.
Niềm tin vào Ðấng Phục
Sinh và chứng từ về Ngài luôn được diễn tả bằng một cách sống mới trong cộng đồng.
Sách Tông Ðồ Công Vụ ghi lại một bức tranh vô cùng sống động về cuộc sống mới
trong Ðấng Phục Sinh ấy. Sự bình an được Ðấng ban tặng đã tạo ra một cộng đồng
hòa giải, nghĩa là một nhóm tín hữu sống trong hài hòa hiệp nhất và chia sẻ của
cải cho nhau. Nét nổi bật của cộng đồng này không hẳn là nghèo khó, bởi vì
trong đó, không ai phải thiếu thốn điều gì, mà chính là tình yêu thương của mọi
người. Của cải vật chất, thay vì là đối tượng của sự chiếm hữu ích kỷ và do đó
là nguyên nhân của tranh chấp chia rẽ, đã trở thành bí tích của tình bạn và
huynh đệ. Tựu trung, mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu tuyên bố khi hiện ra với thánh
Tomas "Phúc cho những ai không thấy mà tin" không loại trừ đòi hỏi phải
được thấy một cách cụ thể chứng từ về Ðấng Phục Sinh trong Giáo Hội, và chứng từ
ấy thiết yếu là chứng từ về tình yêu huynh đệ.
Tình yêu huynh đệ là
cuộc sống bác ái trong và từ Giáo Hội, là dấu chỉ rõ ràng và có tính thuyết phục
nhất về dung mạo và sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh. Trong những lần hiện ra của
Ngài, cử chỉ của Ngài đã thể hiện với hai người môn đệ đi về làng Emmaus mang một
ý nghĩa đặc biệt, Ngài chỉ được nhận diện khi cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho
hai ông. Phải chăng nét nổi bật nhất trong dung mạo của Chúa Giêsu không là cử
chỉ cầm lấy bánh, bẻ ra và trao ban sao?
Giáo Hội là thân thể mầu
nhiệm của Ðấng Phục Sinh, Ngài chỉ thực sự được nhận diện trong thân thể ấy qua
cử chỉ trao ban mà thôi. Chính vì thế mà trọng tâm và cao điểm của Giáo Hội
chính là cử hành Thánh Thể. Giáo Hội lập lại cử chỉ trao ban của Chúa Giêsu,
nhưng cử chỉ ấy sẽ không diễn tả trọn vẹn dung mạo của Ðấng Phục Sinh, nếu nó
không được nối dài và diễn tả cùng cuộc sống trao ban cụ thể của Giáo Hội và của
các tín hữu Kitô. Cuộc đời của người tín hữu Kitô phải là một thánh lễ nối dài
để mãi mãi mô tả dung mạo của Ðấng Phục Sinh.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục
Sinh mà chúng ta tiếp rước trong Thánh Lễ mỗi ngày biến chúng ta thành những chứng
nhân sống động của Ngài trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Bảy Tuần BNPS
Bài đọc: Acts
4:13-21; Mk 16:9-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người không thể trốn tránh sự thật mãi.
Có một người hay có
tính “thêu dệt” và “thêm mắm thêm muối” mỗi khi nói chuyện với người khác về
quá khứ huy hoàng của mình. Các bạn anh muốn dạy anh một bài học, nên mỗi lần
anh nói, họ ghi chép cẩn thận những gì anh nói. Sau khi kể một hồi, các bạn anh
bắt đầu thắc mắc về thời gian và nơi chốn của những việc xảy ra, và chỉ cho anh
thấy sự không hợp lý của những gì anh kể. Từ đó, anh bắt đầu nói năng cẩn thận
hơn; vì chỉ có nói thật, anh mới có thể tránh được những mâu thuẫn của các sự
việc.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh việc con người không thể trốn tránh mãi sự thật. Trong Bài Đọc I, những
người trong Thượng Hội Đồng Do-thái nghĩ khi họ đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập
Giá là từ nay dân chúng sẽ nghe theo họ; nhưng họ lại phải đương đầu với các
môn đệ của Ngài và hàng ngàn dân chúng đã tin vào Chúa Giêsu. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ sau khi chết. Ngài khiển trách họ
đã quá cứng lòng không chịu tin vào lời các nhân chứng thuật lại trong trình
thuật hôm nay.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nghe lời các ông hay là nghe lời Thiên Chúa?
1.1/ Phản ứng của những
người trong Thượng Hội Đồng: Trước tiên, họ
ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và ông Gioan mạnh dạn. Họ nghĩ không có một hay
hai cá nhân nào dám đứng ra đương đầu với quyền lực của Thượng Hội Đồng; vì nếu
làm như vậy, chắc chắn sẽ lãnh thiệt hại vào thân. Thứ đến, họ khám phá ra hai
ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận xét
đúng, cả hai, Phêrô và Gioan, đều làm nghề đánh cá; làm sao có cơ hội để học hỏi
và biết chữ nghĩa và Lề Luật như họ được. Cả hai nhận xét của họ đều đúng, và
câu hỏi họ đặt ra cho hai ông hôm qua rất chí lý: “Nhờ quyền lực nào và nhân
danh ai mà các ông làm chuyện đó.”
Câu trả lời của Phêrô
giúp họ tìm ra những gì họ muốn biết: chúng tôi chỉ lấy sức mạnh và quyền lực của
Đức Kitô, Đấng mà các ông đã đóng đinh vào Thập Giá. Họ cũng nhận ra hai ông là
những người đã từng theo Đức Giêsu; đồng thời họ lại thấy người đã được chữa
lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào. Họ mới truyền cho
hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, để bàn tính với nhau. Họ chỉ có hai con đường
phải chọn:
(1) Phục thiện và tin
vào Chúa Giêsu: Đứng trước một phép lạ quá rõ ràng, đứng trước 3 nhân chứng, và
đứng trước đông đảo dân chúng; họ phải tin vào Chúa Giêsu là Người đến từ Thiên
Chúa, đã chết và sống lại. Chính họ đã nói với nhau về hai ông: “Họ đã làm một
dấu lạ rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư ngụ tại Jerusalem, và
ta không thể chối được.”
(2) Dùng bạo lực để
bưng bít sự thật: Có nhiều lý do để họ từ chối không tin: sợ mất thế giá, sợ mất
lợi lộc vật chất, sợ phải thay đổi niềm tin …
Sau khi bàn luận, họ
quyết định bưng bít sự thật bằng bạo lực. Họ quyết định: “Nhưng để cho việc đó
khỏi lan rộng thêm trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm họ từ nay không được
nói đến danh ấy với ai nữa. Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông
không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giêsu nữa."
1.2/ Phản ứng của Phêrô
và Gioan: Hai ông Phêrô và Gioan đáp lại:
"Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên
Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì
tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra."
Thượng Hội Đồng là những
người có kiến thức và biết Lề Luật của Thiên Chúa. Họ phải công nhận điều Phêrô
nói là phải tuân hành những gì Thiên Chúa nói hơn con người; nhưng vì quá ngoan
cố trong việc tìm hiểu sự thật nên họ tiếp tục ở trong bóng tối tội lỗi. Trình
thuật kể thái độ cứng lòng của họ như sau: “Sau khi ngăm đe lần nữa, họ thả hai
ông về, vì không tìm được cách trừng trị hai ông. Lý do là vì họ sợ dân: ai nấy
đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra.”
2/ Phúc Âm: Các lần hiện ra của Chúa Giêsu theo thánh-sử Marcô
Không phải chỉ có những
người trong Thượng Hội Đồng cứng lòng, các môn đệ của Chúa Giêsu cũng mắc phải
lỗi lầm đó. Hơn những người trong Thượng Hội Đồng, các tông đồ đã từng được
nghe Chúa Giêsu giảng dạy, biến hình, và báo trước cuộc tử nạn và sống lại sẽ xảy
ra. Chúa Giêsu không chỉ hiện ra một lần để có cớ cho các tông đồ nói đó chỉ là
ảo ảnh hay bóng ma; nhưng Ngài hiện ra nhiều lần với các nhân chứng khác nhau.
Chúa Giêsu phải trách thái độ cứng lòng của các ông vì đã chối từ sự thật đến
không phải từ hai như Lề Luật đòi, nhưng nhiều nhân chứng khác nhau. Thánh
Marcô liệt kê ba lần Chúa hiện ra:
(1) Với một mình Mary
Magdala: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức
Giêsu hiện ra trước tiên với bà Mary Magdala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi
bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã
khóc lóc. Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không
tin.”
(2) Với hai môn đệ
trên đường về quê, Emmaus: “Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác
cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở về
báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.”
(3) Với Nhóm Mười Một:
“Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa.
Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin
những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người nói với các ông:
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo.””
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn học
để biết sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi mọi gian trá.
- Không chỉ học biết sự
thật, chúng ta còn phải có can đảm để nói sự thật, sống theo sự thật, và làm chứng
cho sự thật.
- Khi có sự xung đột
giữa điều Thiên Chúa nói và điều người phàm nói; chúng ta phải luôn luôn vâng lời
Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
07/04/2018
THỨ BẢY TUẦN BÁT NHẬT PS
Mc 16,9-15
NHƯNG HỌ KHÔNG TIN
Họ nghe bà nói Chúa
sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin. (Mc 16,11)
Suy niệm: Dù Thánh Kinh đã tiên báo,
dù Chúa Giê-su cũng nhiều lần báo trước cho các môn đệ rằng Ngài sẽ chịu chết rồi
sau ba ngày sẽ trỗi dậy, cái chết bi thảm của Chúa Ki-tô vẫn gây ra nơi các môn
đệ Ngài một cú sốc nặng nề đến nỗi họ có say mê Ngài đến mấy cũng không thể bịa
ra câu chuyện Thầy mình phá tung cửa mộ sống dậy. Ngay cả khi bà bà Ma-ri-a
Mác-đa-la ra mộ từ sáng sớm chạy về báo tin đã thấy Chúa sống lại, họ cũng
không tin. Chỉ khi chính họ, những người trong số môn đệ đã tận mắt gặp Ngài,
đó là Phê-rô, là Gia-cô-bê, là hai môn đệ làng Em-mau, là Tô-ma, là nhóm Mười
Hai, là các tông đồ, là hơn 500 anh em, lúc đó họ mới xác tín Ngài đã sống lại
như lời đã báo trước (1Cr 15,4). Một khi đã xác tín, họ sẵn sàng đem cả mạng sống
để bảo đảm lời chứng của mình là chứng thật:“Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa
đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv
2,32; 3,15).
Mời Bạn: Hiện tượng “mộ trống”
đã là một bằng chứng khó nuốt đối với những ai muốn phủ nhận sự thật Đức Ki-tô
đã chết và ngày thứ ba đã sống lại. Thế nhưng khi có những chứng nhân bất khuất
như thế làm chứng, thì đó quả là một sự thật chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa: Chúa
đã sống lại thật như lời Thánh Kinh.
Sống Lời Chúa: Noi gương
các tông đồ làm chứng nhân của Chúa Phục Sinh bằng đời sống hằng ngày của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, vô số người đã dám hy sinh cả cuộc sống để làm
chứng Chúa đã Phục sinh. Xin cho con biết noi gương các ngài để vững bước trong
niềm tin của mình. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Vẫn không tin (7.4.2018 – Thứ bảy trong Tuần Bát nhật Phục sinh)
Tin Đức Giêsu phục sinh cũng
không dễ đối với chúng ta hôm nay. Nếu thực sự tin vào sự phục sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác.
Suy niệm:
Theo các nhà chú giải,
sách Tin Mừng Marcô kết thúc ở chương 16, câu 8,
với việc các phụ nữ sợ
hãi, chạy trốn, không dám nói gì với các môn đệ.
Sách này cũng không nói
đến việc Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Kết thúc khác thường này
của Marcô làm chúng ta ngày nay chưng hửng.
Cả các Kitô hữu thế kỷ
thứ hai cũng bị ngỡ ngàng,
vì vào thời đó họ đã có
trong tay các sách Tin Mừng khác.
Các sách này đều kể
chuyện các phụ nữ đã đi gặp các môn đệ,
chuyện Đức Giêsu phục
sinh hiện ra gặp các bà trước tiên;
rồi sau đó, Ngài đã hiện
ra với các môn đệ
và sai các ông đi loan
báo Tin Mừng (Mt 28,19-20; Lc 24, 46-48; Ga 20, 21).
Để giải quyết khó khăn do
phần kết của sách Tin Mừng Marcô đặt ra,
một tác giả được ơn linh
hứng đã viết thêm phần phụ lục (Mc 16, 9-20),
dựa trên các sách Tin
Mừng khác và sách Công vụ Tông đồ.
Năm 1546, phần này đã
được Công đồng Trentô nhìn nhận là Lời Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn
mạnh đến thái độ không tin của các môn đệ.
Đức Giêsu phục sinh hiện
ra trước tiên cho bà Maria Mácđala.
Bà đi báo tin Thầy sống
lại cho những môn đệ đang buồn bã khóc lóc,
nhưng họ không tin (cc.
9-11).
Lần thứ hai, Đức Giêsu tỏ
mình cho hai môn đệ khi họ trên đường về quê.
Khi hai ông này báo tin
cho những môn đệ khác, thì họ cũng không tin (cc. 12-13).
Lần thứ ba, Đức Giêsu
đích thân tỏ mình cho nhóm Mười Một.
Ngài khiển trách họ về
tội không tin những kẻ đã thấy Ngài phục sinh (c. 14).
Xem ra tin Thầy Giêsu
phục sinh không phải là chuyện dễ, ngay cả đối với các môn đệ,
dù họ đã được nghe Thầy
báo trước nhiều lần khi còn sống bên Thầy,
dù có những người trong
nhóm làm chứng mình đã thấy Thầy sống lại.
Ở lại trong nỗi thất
vọng, buồn phiền thì dễ hơn sống lạc quan vui tươi.
Các môn đệ không ra khỏi
được nỗi đau do cái chết của Thầy.
Có những nỗi đau làm con
người khép kín và khoanh tay bất động.
Nhưng Đức Giêsu phục sinh
vẫn không bỏ rơi các học trò cứng cỏi của mình.
Ngài kiên trì chinh phục
họ bằng cách đến với họ và dùng bữa.
Ngài đưa họ ra khỏi thế
giới nhỏ bé của họ và giao cho họ một sứ mạng lớn lao.
“Hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (c. 15).
Tin Đức Giêsu phục sinh
cũng không dễ đối với chúng ta hôm nay.
Nếu thực sự tin vào sự
phục sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác.
Thanh thoát hơn, nhẹ
nhàng hơn, quảng đại hơn, vui tươi hơn...
Nhiều khi chúng ta vẫn
loan báo Tin Mừng với vẻ mặt buồn bã,
vẫn nói về đời sau mà
lòng còn quá nặng với vinh hoa đời này.
Chỉ mong chúng ta được
thực sự phục sinh như Thầy Giêsu,
để làm tròn sứ mạng Thầy
trao phó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng
còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay
cao,
không bị nỗi sợ hãi của
phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết
lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của
người kitô hữu
là cái liều chín chắn và
có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu
phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê
chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông
đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh
liệt
khiến con đổi cái nhìn về
cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực
sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận
tình hơn
với Chúa và với mọi
người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG TƯ
Được In Dấu Ấn Sự Sống
Chúng ta hãy cảm tạ vì
cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su Kitô. Chúng ta hãy cảm tạ vì Chúa Cha đã tôn vinh
Người. Người là Đấng đã hủy mình ra không, “trở thành vâng phục cho đến chết,
chết trên Thập Giá” (Pl 2,8).
Vâng, công cuộc cứu
chuộc thế giới được hoàn tất trong cuộc Phục Sinh của Người. Dấu ấn của sự chết
đã được tháo gỡ khỏi ngôi mộ đá lạnh lùng. Và dấu ấn sự sống đã được đóng vào
trái tim của những người tin. “Đức Kitô đã chịu hiến tế để làm chiên lễ Vượt
Qua của chúng ta” (1Cr 5,7).
Chúng ta hãy cảm tạ vì
hy tế của Đức Giêsu – hy tế đã đạt tới chính ngai tòa của Chúa Cha. Chúng ta
hãy cảm tạ vì tình yêu của Chúa Cha – tình yêu đã được mạc khải nơi cuộc Phục
Sinh của Chúa Con.
Chúng ta hãy cảm tạ vì
hơi thở của Chúa Thánh Thần Đấng trao ban sự sống. Hơi thở này được đón nhận bởi
các Tông Đồ, qui tụ tại căn gác thượng theo chỉ thị của Đức Giêsu. Đức Kitô sẽ
đến giữa họ, ngay cả xuyên qua những cánh cửa đóng kín. Người sẽ nói với họ:
“Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được
tha… “ (Ga 20,22-23).
Chính từ cuộc Phục
Sinh của Đức Giêsu mà chúng ta nhận được ơn tha thứ tội lỗi của chúng ta. Cuộc
hoán cải của chúng ta xảy ra nơi chính Thập Giá của Người. Và nơi cuộc Phục
Sinh của Người, chúng ta chiến thắng trên tội lỗi của mình. Người đã hòa giải
chúng ta với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Người đã trao cho chúng ta
chính sự sống của Người, Người mở lối cho chúng ta bước vào sự sống vĩnh cửu bất
diệt.
07 Tháng Tư
Bình An Trong Tâm Hồn
Purna, một môn đệ của Ðức Thích Ca,
xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai để tiếp tục tu
luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi lại cuộc đối thoại giữa hai
thầy trò như sau: Ðức Thích Ca cho biết ý kiến: "Nhân dân vùng
Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của họ
là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến
đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu khống
con, con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Nếu thật sự xảy ra như vậy,
thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện, vì họ chỉ lăng
mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá con". Ðức Thích Ca
tiếp lời: "Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế
nào?". Purna thưa: "Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng
Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh
đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con".
Nghe môn đệ xác quyết như thế, Ðức Phật
không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp: "Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết
con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?". Không cần suy nghĩ
lâu, Purna đáp: "Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những
người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư
nát này". Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo: "Purna, con đã tu tâm dưỡng
tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn hòa, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con
có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần
dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải
thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét".
Thiết
nghĩ tự tạo cho mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng
ta. Và theo kinh nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình
nền hòa bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến,
nghi kỵ cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù,
ghen ghét.
Trích sách Lẽ Sống
Lectio Divina: Máccô 16:9-15
Thứ Bảy trong
Tuần Bát Nhật Phục Sinh
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa và là Cha của chúng con,
Chúa Giêsu, Con Chúa, đã sống giữa chúng
con,
Xác thịt như xác thịt chúng con, máu như máu chúng con.
Người đã chết vì chúng con
Và Chúa đã cho Người sống lại.
Nguyện xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu và sự hiện diện của Người
Đến mức mà chúng con không bao giờ có thể ngừng loan báo
Và mọi người có thể tôn vinh
danh Chúa, Chúa chúng con.
Chúng con cầu xin nhờ Chúa Giêsu Kitô.
2.
Bài Đọc Tin Mừng – Máccô 16:9-15
Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ từng ở với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin.
Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy.
Sau hết, Chúa hiện ra với Mười Một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài”.
3.
Suy Niệm
– Bài
Tin Mừng hôm nay là một phần của đoạn văn rộng lớn hơn (Mc 16:9-20) đặt chúng ta trước một danh sách hay một bản tóm tắt các cuộc hiện ra khác nhau của Chúa Giêsu: (a) Chúa Giêsu hiện ra với bà Maria Mađalêna, nhưng các môn đệ đã không chấp nhận lời chứng của bà (Mc
16:9-11); (b) Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ, nhưng các người khác không chấp nhận lời chứng của họ (Mc
16:12-13); (c) Chúa Giêsu hiện ra với nhóm Mười Một, Chúa khiển trách việc cứng lòng của các ông và truyền cho các ông đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân (Mc 16:14-18); (d) Chúa lên Trời và tiếp tục cộng tác với các môn đệ (Mc
16:19-20).
– Bên
cạnh danh sách các lần hiện ra này trong Tin Mừng của Máccô, còn có các danh sách khác về những lần Chúa hiện ra nhưng không phải lúc nào cũng luôn ăn khớp với nhau. Lấy ví dụ, danh sách được lưu giữ bởi thánh Phaolô trong Thư gửi các tín hữu Côrintô thì rất khác biệt (1Cr
15:3-8). Việc khác nhau này cho thấy rằng lúc đầu các Kitô hữu tiên khởi đã không lo lắng chứng minh sự Phục Sinh của Chúa bằng cách nói về các lần hiện ra. Đối với họ, niềm tin vào Chúa Phục Sinh đã quá rõ ràng và sống động đến nỗi mà người ta không cần phải chứng minh điều đó. Một người phơi nắng trên bờ biển thì không cần lo chứng minh rằng mặt trời hiện hữu, bởi vì chính bản thân người ấy, bị rám nắng, đã là một bằng chứng hiển nhiên về sự hiện hữu của mặt trời. Các cộng đoàn, hiện hữu trong một đế quốc to lớn, là một bằng chứng sống của sự Phục Sinh. Danh sách các lần hiện ra đã bắt đầu xuất hiện sau đó, trong thế hệ thứ hai để bác bỏ những lời chỉ trích của kẻ thù.
– Mc
16:9-11: Chúa Giêsu hiện ra với bà Maria Mađalêna, nhưng các môn đệ không tin lời bà. Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên với bà Maria Mađalêna. Bà đi báo tin này với những người khác. Để đến thế gian, Thiên Chúa đã muốn dùng cung lòng của một thiếu nữ độ 15 hay 16 tuổi, tên là Maria thành Nagiarét (Lc 1:38). Để được công nhận là còn sống ở giữa chúng ta, Người muốn dùng lời loan báo của người phụ nữ đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, còn được gọi là Maria thành Mađalêna! (Đây là lý do tại sao bà có tên là Maria Mađalêna). Nhưng các môn đệ đã không tin bà. Thánh Máccô nói rằng Chúa Giêsu đã hiện ra lần đầu tiên với bà Maria Mađalêna. Trong danh sách các lần hiện ra, được lưu truyền trong thư gửi tín hữu Côrintô (1Cr 15:3-8), các lần hiện ra của Chúa Giêsu với những người phụ nữ đã không được đề cập đến. Các Kitô hữu tiên khởi đã gặp khó khăn lúng túng để tin vào lời chứng của người phụ nữ. Đó là điều tội lỗi!
– Mc
16:12-13: Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ đang trên đường về miền quê, nhưng những môn đệ khác cũng không tin họ.
Không đi vào quá nhiều chi tiết, thánh Máccô đề cập đến lần hiện ra của Chúa Giêsu với hai môn đệ, “đang trên đường về miền quê”. Có lẽ đây là một lời tóm tắt về lần hiện ra của Chúa Giêsu với các môn đệ trên đường đi Emmau, được thuật lại bởi thánh Luca (Lc 24:13-25). Máccô nhấn mạnh khi nói rằng “những môn đệ khác cũng không tin các ông ấy”.
– Mc
16:14-15: Chúa Giêsu khiển trách các ông đã cứng lòng và Người truyền cho các ông đi loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật. Vì
lý do này, Chúa Giêsu hiện ra với nhóm Mười Một môn đệ và khiển trách các ông bởi vì họ đã không tin lời của những kẻ đã thấy Người sống lại. Lần nữa, Máccô đề cập đến việc cứng lòng của các môn đệ trong việc tin vào lời chứng của những kẻ đã có kinh qua với sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tại sao vậy? Có lẽ để giáo huấn ba điều. Trước nhất, đức tin vào Chúa Giêsu thì đi qua lòng tin tưởng vào những người làm chứng. Thứ hai, không ai phải nản lòng, khi mà có sự nghi ngại hoặc không tin tưởng dấy lên trong lòng. Thứ ba, để bác bỏ lời chỉ trích của những kẻ nói rằng người Kitô hữu thì ngây thơ và cả tin với bất kỳ điều gì, bởi vì nhóm Mười Một môn đệ đã rất khó khăn để chấp nhận sự thật về Chúa Phục Sinh!
– Bài
Tin Mừng hôm nay kết thúc với lời sai đi: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài!” Chúa Giêsu trao cho các môn đệ sứ vụ đi loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Bà
Maria Mađalêna, hai môn đệ trên đường Emmau và nhóm Mười Một môn đệ: Ai là kẻ có khó khăn nhất để tin vào sự Phục Sinh? Tại sao? Tôi nhận thấy mình giống như ai trong các người ấy?
– Những dấu chỉ để có thể thuyết phục người ta rằng có sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta là gì?
5.
Lời nguyện kết
Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài
(Tv 67:1-2)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét