08/04/2018
Chúa Nhật tuần 2 Phục Sinh năm B.
Kính Lòng Thương Xót Chúa.
(phần I)
Bài Ðọc I: Cv 4, 32-35
"Họ đồng tâm
nhất trí".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Lúc bấy giờ tất cả
đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng,
song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng
việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì
thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng
nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các
tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 2-4.
16ab -18. 22-24
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của
Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hỡi nhà
Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi nhà
Aaron, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người
tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã cất
nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ
sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi,
nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần. - Ðáp.
3) Phiến đá mà những
người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm
ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta
hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga 5, 1-6
"Mọi cái sinh
ra bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, ai
tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến Ðấng
sinh thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bởi Ðấng đó. Cứ dấu này chúng ta nhận
biết rằng chúng ta yêu mến con cái Thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến Thiên
Chúa và thực hành các giới răn Người. Vì chưng, lòng yêu mến Thiên Chúa là
chúng ta tuân giữ giới răn Người, và giới răn của Người không nặng nề.
Vì những gì sinh bởi
Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là
chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là
người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa? Ðấng đã đến nhờ nước và máu, chính
là Ðức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa,
có Thánh Thần làm chứng rằng Chúa Kitô là chân lý.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những
ai đã không thấy mà tin". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 19-31
"Tám ngày sau
Chúa Giêsu hiện đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ
nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người
Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho
các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy
giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng:
"Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".
Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy
Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai,
thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma
gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ
khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã
nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu
tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn
Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn
đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng
kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn
Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy
đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy
tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin.
Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Chúa Giêsu còn làm nhiều
phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng
các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con
Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Hội Thánh Của
Chúa Sống Lại
Sau khi sống lại, Chúa
Yêsu, Chúa Yêsu không còn hiện diện hữu hình ở trần gian nữa. Người còn hiện ra
nhiều lần cho môn đệ xem thấy mà tin. Nhưng đó chỉ là những lúc họa hiếm và mau
qua. Từ nay cách thức hiện diện thường xuyên của Người với chúng ta là Thánh Thể
và Hội Thánh. Ðó là hai bí tích hiểu theo nghĩa rộng để Người ở với chúng ta hằng
ngày. Hội Thánh được gọi là Thân Thể của Chúa Kitô và Thánh Thể chính là thịt
máu Người. Thế nên sau lễ Phục sinh, Phụng vụ kéo mắt chúng ta nhìn vào Hội
Thánh, nơi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa để hiểu biết, yêu mến, bắt chước Người
nhiều hơn. Và cũng trong Hội Thánh, chúng ta được tiếp xúc với Thánh Thể để nhận
lấy sức sống Chúa muốn ban cho chúng ta. Như vậy, suy nghĩ về Hội Thánh phải là
thao thức của chúng ta trong mùa Phục sinh này. Và người ta có thể suy nghĩ từ
ngoài đi vào hoặc từ trong đi ra. Hôm nay chúng ta hãy theo thứ tự các bài đọc
Kinh Thánh trong Thánh lễ để tìm hiểu Hội Thánh từ ngoài vào trong, từ hiện tượng
khả giác vào tới mầu nhiệm thâm sâu. Và chúng ta sẽ thấy giáo xứ và giáo phận
chúng ta còn thiếu sót nhiều quá để xứng đáng là Hội Thánh của Chúa Kitô Phục
sinh.
1. Một Hội Thánh Sống
Xã Hội
Bài sách Công vụ Tông
đồ hôm nay họa lại cho chúng ta một hình ảnh về Hội Thánh thời các tông đồ ở
Yêrusalem. Ðây chỉ là một trong mấy bức họa hiếm hoi về Hội Thánh ấy. Còn 2, 3
bức họa nữa cũng ở trong sách Công vụ Tông đồ này. Và nếu được phép căn cứ vào
câu đầu tiên của sách này mô tả đời sống của Hội Thánh ở thời bấy giờ: chuyên cần
với giáo huấn của các tông đồ, sự hiệp thông, việc bẻ bánh và kinh nguyện
(2,42) thì bức họa của đoạn sách Công vụ hôm nay là bức họa thứ hai, nói về sự
hiệp thông của cộng đoàn dân Chúa.
Quả vậy, chính câu đầu
tiên đã nói lên chủ đề: " Ðoàn lũ những kẻ tin chỉ có một tấm lòng, một
linh hồn". Ðể mô tả sự hiệp thông thắm thiết giữa mọi người giữa mọi người
nên một ấy, đoạn sách hôm nay nói rằng: "Không một người nào nói là mình
có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của chung".
Nhiều người đã vịn vào
câu văn này để khẳng định Hội Thánh thời bấy giờ thi hành điều mà bây giờ thi
hành điều mà bây giờ người ta gọi là "cộng sản", và Hội Thánh đã cộng
sản trước cộng sản. Thiết tưởng không nên có những lời nói như vậy vì những lời
nói thế chẳng đẹp lòng ai cả và chỉ tỏ ra đọc sách Công vụ rất hời hợt.
Hôm nay chúng ta cứ thử
về nhà đọc lại đoạn sách này. Thánh Luca không cho chúng ta nhiều yếu tố để quả
quyết gì về tổ chức xã hội của cộng đoàn dân Chúa thời bấy giờ. Người chỉ cho
chúng ta một cái nhìn đạo đức về thái độ của các tín hữu đối với nhau. Nếu được
phép tưởng tượng thì chúng ta có thể nghĩ rằng: thời ấy tín hữu của Chúa sống
như mọi người về mặt xã hội kinh tế. Họ không hề có ý tưởng làm thành "một
quốc gia ở trong một quốc gia", nghĩa là tổ chức với nhau một hệ thống sản
xuất hay kinh tế riêng biệt. Họ chỉ khác đồng bào chung quanh ở chỗ là tin
Chúa. Và vì chưa biết Chúa đủ, nên họ chuyên cần đến nghe lời của các Tông đồ
trong các buổi họp chung. Ở đó họ được dẫn giải thêm về đạo lý, được cầu nguyện
chung, được bẻ bánh chung, khiến họ được mật thiết kết hợp với Chúa và cùng Người
làm nên một thân thể. Rồi chính khi ấy họ đã nhận ra mình là chi thể của nhau,
là anh em con một Cha, một Chúa. Thế là một đức tin, một Thánh Thể để kết họ
nên một với nhau trong tình mến. Họ thấy không được phép để cho ai trong anh em
thiếu thốn nữa, nếu đang khi ấy họ có nhiều của cải hơn. Thế là như Barnaba, họ
đem bán của riêng, đem huê lợi đến cho các tông đồ để chia sẻ cho anh em tùy
theo nhu cầu.
Tất cả như vậy đã xảy
ra từ một động lực bên trong. Việc hiệp thông với Chúa đã dẫn sang ý thức phải
hiệp thông với nhau; và không thể hiệp thông chân thật với anh em khi có của mà
để anh em túng thiếu. Ðó hoàn toàn là đạo đức chứ không phải cộng sản gì! Nhưng
là đạo đức chân thật, biết và dám thi hành những đòi hỏi của niềm tin và lòng mến.
Kẻ không đạo đức được như vậy cũng không thể có những hành động như thế.
Sách Công vụ ngay sau
đoạn văn hôm nay đã kể chuyện vợ chồng Ananya và Saphyra. Hai người cùng bàn
nhau đem bán một thửa đất riêng, rồi đem một phần tiền đến nói với thánh Phêrô:
đó là tất cả số tiền bán được. Họ tưởng lừa được Phêrô. Nhưng họ quên Thánh Thần
bấy giờ ở với Phêrô một cách rất đặc biệt. Phêrô bảo hai người: cớ sao đồng
tình và đồng lõa ăn gian nói dối? Ai bắt phải bán đất đi? Và ai buộc phải đem lại
tất cả số tiền?
Rồi câu chuyện thế
nào, mọi người đã rõ. Ở đây chúng ta chỉ cần lưu ý: mấy lời của Phêrô làm cho
chúng ta hiểu việc các tín hữu buổi đầu "không nói là mình có của gì
riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của chung". Ý nghĩa như thế nào? Ðó
là một sự tự nguyện, phát xuất từ tinh thần hiệp thông xây trên một niềm tin
chung; chứ không phải là một tổ chức xã hội có tính cách hành chánh.
Sự tự nguyện này vẫn
còn tồn tại trong Hội Thánh ở nơi các cộng đoàn tu sĩ... Nó còn là đòi hỏi của
Tin Mừng mà nhiều khi chúng ta không dám nghĩ tới. Vẫn biết hoàn cảnh đã thay đổi;
xã hội đã biến chuyển; con cái Chúa không bao giờ "làm thành một Nước ở
trong một Nước" để có nếp sống xã hội riêng; nhưng đang khi sống tốt thể
chế xã hội của Nước mình, họ luôn phải nhớ đòi hỏi của Tin Mừng buộc họ phải sống
hiệp thông với anh em. Và như vậy họ không được để anh em túng thiếu khi họ
đang có của. Ðó là ý nghĩa cụ thể của đạo Bác ái. Và đó cũng là một trong những
lý do của việc dâng tiền trong thánh lễ. Cử chỉ này không thể nào không gợi lên
nếp sống hiệp thông chia sẻ mà bài sách Công vụ hôm nay nói về Hội Thánh thời
các Tông đồ.
Thiết tưởng, lương tâm
chúng ta còn bị chất vấn nhiều về vấn đề này. Nhưng nếu chúng ta muốn có thiện
chí làm tốt hơn thì chúng ta phải đào sâu đức tin hơn, vì như đã nói, nếp sống
hiệp thông kia đã phát xuất từ niềm tin mới mẻ. Bài thư Yoan có nhiều yếu tố
quý báu giúp chúng ta làm công việc này.
2. Một Hội Thánh Sống
Ðức Tin
Chúng ta có thể nghĩ
đoạn thư này rời rạc và thiếu chặt chẽ. Nhưng nếu nắm được ý của thánh Yoan,
chúng ta sẽ thấy đây là những tư tưởng rất quan trọng. Người muốn nói với những
kẻ có đức tin để xác định niềm tin của họ phải như thế nào và có những hệ luận
nào trong đời sống cụ thể.
Sánh với bài sách Công
vụ trên đây, chúng ta có thể nói thánh Yoan đã đi từ trong ra đến ngoài đang
khi thánh Luca đi từ ngoài vào trong. Tác giả sách Công vụ mô tả nếp sống xã hội
của cộng đoàn dân Chúa; còn tác giả bài thư tìm hiểu động lực của nếp sống này.
Ðó là niềm tin mới,
chưa gặp thấy nơi một xã hội loài người nào. Người tín hữu khác mọi người ở chỗ
tin Yêsu là Ðức Kitô. Muốn thấy tính cách mới mẻ của niềm tin này, chúng ta phải
trở về thời các tông đồ, hay phải nhìn sang lương dân. Ngoài các tín hữu ra, ai
có thể có một ý tưởng như thế? Tin Yêsu là Ðức Kitô có nghĩa là tin Thiên Chúa
đã thi hành kế hoạch cứu nhân độ thế của Người nơi con người và đời sống của
Yêsu người thành Nadarét. Là tin Thiên Chúa yêu thương loài người đến độ đang
khi chúng ta còn là tội nhân thù nghịch đã ban Con Một Người làm hy lễ đền tội
chúng ta. Mà không phải chỉ đền và tha tội, nhưng còn nhờ cuộc Tử nạn Phục sinh
của Ðức Kitô, cho chúng ta được tái sinh bởi Thiên Chúa để làm con cái Người. Một
niềm tin như vậy đã ám tàng công nhận Ðức Yêsu là Con Thiên Chúa, vì nếu không,
Yêsu sẽ chỉ là một sứ giả, một dụng cụ đặc biệt của Thiên Chúa, khiến niềm tin
của chúng ta sẽ chẳng mới mẻ gì, vì đã thiếu gì người tự xưng là tiên tri của
thượng đế sai đến với loài người.
Ðức tin của chúng ta
thì khác. Nó mới sánh với mọi suy nghĩ và tin tưởng của loài người, vì nó khẳng
định Yêsu là Con Thiên Chúa đã đến cứu loài người khiến ai tin thì được sinh lại
bởi Thiên Chúa và được làm con cái Chúa. Ðó là nội dung đức tin mới.
Nó chân thật vì có nền
tảng vững vàng. Ai chối bỏ được việc Ðức Yêsu Kitô đã đến? Không những Người đã
đến nhờ Nước và Máu, mà có Thánh Thần làm chứng. Không những Người đã đến nhờ
nước sống Yorđan khi chịu Yoan rửa, mà còn nhờ đến máu chảy ra trên Thập giá.
Nhất là khi ở trên cây gỗ này, Người đã để Máu và Nước chảy ra từ cạnh sườn để
từ nay Hội Thánh có Nước Rửa tội và có Máu Thánh Thể ban ơn tha thứ tội lỗi và
sự sống thần linh mới cho loài người. Nhưng tất cả cuộc đời của Ðức Kitô từ khi
nhận nước rửa ở sông Yorđan đến khi chảy máu ra trên Thập giá, cũng như tất cả
các bí tích Thánh tẩy và Thánh Thể trong Hội Thánh làm cho người ta được ơn tha
thứ và có sự sống mới, tất cả những điều ấy có giá trị chân thật đáng tin là vì
cuối cùng có Chúa Thánh Thần đã đến làm chứng cho sự nghiệp của Ðức Kitô và sức
sống của Hội Thánh. Ðức tin của chúng ta đi từ cơ sở các việc đã xảy ra trong
cuộc đời của Ðức Kitô và của Hội Thánh mà đã được Thánh Thần làm chứng, nên là
đức tin chân thật và vững vàng, khiến chúng ta thật là những người có phúc.
Thánh Yoan, trong đoạn
thư này, nói đến cái phúc của người tín hữu là họ đã thắng được thế gian. Họ là
những người tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi Ðức Yêsu Kitô thì họ được sinh
làm con cái Thiên Chúa. Và như vậy họ không thuộc về thế gian nữa. Họ đã được
giải thoát ra khỏi ách thống trị của thế gian tức là của sức mạnh thù nghịch với
Thiên Chúa và con người. Họ được nên giống như Ðức Yêsu Kitô giờ đây đã sống lại,
không còn gì có thể cầm giữ được nữa, kể cả tử thần là kẻ thù cuối cùng của con
người. Nói cách khác, tín hữu nhờ đức tin bây giờ tuy còn sống trong thế gian,
nhưng không thuộc về thế gian và lệ thuộc thế gian nữa. Họ đã chiến thắng thế
gian nhờ đức tin. Họ đã thuộc về Chúa và trở nên con cái Chúa.
Như vậy họ phải sống sự
sống của Người, phải giữ lệnh truyền của Người, vì lệnh truyền của Người chỉ là
đòi hỏi của sự sống của Người. Yoan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu: Tình
yêu là sự sống của Thiên Chúa; thì chính Yoan cũng nói lệnh truyền của Người là
chúng ta hãy yêu mến nhau. Ðó là điều mà trong đoạn thư hôm nay Yoan đã viết:
phàm ai yêu mến đấng sinh thành, tức là Thiên Chúa, tất phải yêu mến kẻ bởi
Chúa mà sinh ra, tức là các con cái Thiên Chúa. Và lệnh truyền đó không nặng nề,
vì như Augustinô nói: "Khi người ta yêu thì hoặc không thấy gì nặng nề, hoặc
có thấy thì cũng yêu sự nặng nề ấy khiến nó không còn nặng nề nữa". Do đó
nền tảng và động lực của nếp sống hiệp thông trong Hội Thánh là niềm tin và
lòng mến, mà bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết đã phát xuất từ đâu.
3. Một Hội Thánh Của
Chúa Sống Lại
Chúng ta biết bài Tin
Mừng này đến nỗi chỉ cần nghe nhắc tới tên Tôma là chúng ta có thể thuật lại
rành rẽ. Nhưng có lẽ chúng ta đã đồng hóa nội dung của nó với lòng cứng tin của
Tôma, làm như thế, bài Tin Mừng hôm nay chỉ muốn nói xấu vị Tông đồ này. Không
thể như vậy, vì nếu như vậy thì đoạn văn này không còn phải là Tin Mừng nữa.
Yoan đã ghi lại câu
chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và Tôma là để chúng ta tin và bởi tin thì
chúng ta được sống, tức là được hạnh phúc. Người muốn nói đến nguồn gốc đức tin
của chúng ta. Người đi sâu và đi vào trong hơn bài Thánh Thư và bài sách Công vụ.
Chẳng riêng gì Tôma, mọi
môn đồ khi ấy đều chưa tin. Vì thế họ mới đóng cửa nhà, vì sợ người Dothái.
Nhưng Ðức Yêsu bổng dưng đã đến đứng giữa họ, bất chấp cửa đóng then cài. Người
phải ban bình an trấn tỉnh họ. Rồi Người cho họ thấy các thương tích của Người.
Họ liền mừng rỡ vì thấy ngay là Thầy mình đã sống lại. Chính sự sống lại của
Người khiến họ được vui mừng. Chính mầu nhiệm Phục sinh là Tin Mừng. Và Tin Mừng
này, chính Ðức Yêsu đã mang đến khi hiện ra và cho họ thấy các thương tích của
Người. Người thật là đấng khơi nguồn và viên thành đức tin của Hội Thánh.
Tôma là một trong các
tông đồ và sẽ là một trong các cột trụ để Hội Thánh vươn lên. Ông có quyền đòi
hỏi được như các bạn đồng nghiệp, và chúng ta cũng buộc Tôma phải được như vậy
để đức tin của chúng ta có cơ sở vững vàng. Do đó thật là vì chúng ta mà Yoan
thuật lại câu chuyện về Tôma để minh chứng rõ ràng đức tin của chúng ta bắt nguồn
từ việc các Tông đồ được thấy Chúa hiện ra với thương tích của Người, hầu mọi
người biết Ðấng chịu nạn đã sống lại thật. Ðó là Tin Mừng cho mọi người; vì như
vậy là bằng chứng "thế gian", tức là sức mạnh thù nghịch Thiên Chúa
và con người đã bị đánh bại, để từ nay ai tin vào Ðức Kitô Phục sinh sẽ chiến
thắng thế gian, sẽ được ơn tha tội và có sự sống mới. Và những người như vậy sẽ
tạo nên một nét mới mẻ trong đời sống xã hội con người.
Sách Công vụ hôm nay đề
cao nét sống mới mẻ này khi mô tả việc hiệp thông ở trong Hội Thánh. Thư Yoan
tìm hiểu động lực của hiện tượng đó nơi đức tin, và bài Tin Mừng cho thấy Ðấng
khơi nguồn đức tin ấy là Ðức Yêsu sống lại đã hiện ra với các môn đồ.
Chúng ta giờ đây nhờ đức
tin các tông đồ truyền cho sắp được tiếp xúc với Ðức Kitô sống lại, trong mầu
nhiệm bàn thờ. Chúng ta hãy có lòng tin và lòng mến của Tôma để kêu lên:
"Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi". Lòng tin và mến ấy chỉ chân
thật nếu chúng ta nêu gương các tín hữu tiên khởi mà sống hiệp thông với nhau
trong việc cầu nguyện, bẻ bánh, nhưng cũng phải có trong đời sống xã hội nữa.
Chỉ khi đó chúng ta mới làm cho giáo xứ và giáo phận chúng ta được nên giống Hội
Thánh của các Tông đồ, tức là Hội Thánh của chính Ðức Yêsu Kitô đã sống lại.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật II Phục Sinh, Năm
B
Bài đọc: Acts 4:32-35; I
Jn 5:1-6; Jn 20:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hậu quả của niềm tin vào Chúa sống lại.
Tin thế nào sống thế ấy: Nếu không tin vào sự sống lại, con người sẽ chỉ biết sống
theo những giá trị đời này; nhưng nếu tin vào sự sống lại của Đức Kitô, con người
sẽ sống theo những giá trị mà Ngài răn dạy. Niềm tin vào sự sống lại không những
giúp con người vượt qua những đau khổ của cuộc sống, mà còn biết giúp con người
biết tuân giữ những gì Chúa dạy.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự quan trọng của niềm tin vào sự sống lại của Đức
Kitô. Trong Bài Đọc I, niềm tin vào Chúa phục sinh giúp các tín hữu đầu tiên biết
yêu thương nhau; họ bỏ mọi sự làm của chung, để không ai phải thiếu thốn gì cả.
Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Gioan I, xác nhận: Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng
yêu mến Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và nếu ai yêu mến Thiên Chúa, cũng thắng thế
gian, vì thế gian từ chối không nhận biết Ngài. Trong Phúc Âm, tác giả tường
thuật hai lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần đầu không có sự hiện diện
của Thomas, Chúa ban bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Lần thứ hai, Chúa hiện đến với các tông đồ và có sự hiện diện của Thomas. Ngài
thách thức ông hãy xỏ ngón tay ông vào các lỗ đinh đóng của Ngài, để ông tin
Chúa vẫn sống.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sức mạnh của niềm tin vào Chúa sống lại
1.1/ Các tín hữu bỏ mọi sự
làm của chung: Chủ nghĩa cộng sản mơ ước có
được một mô hình lý tưởng này; nhưng họ đã thất vọng ê chề, vì con người có
thói quen vơ vét. Họ dám lấy ngay cả của chung để làm của riêng. Mấy chục năm
qua, người cộng sản chẳng những đã không thực hiện được mơ ước “thiên đàng trần
gian;” mà còn làm cho những bất công xã hội ra nặng nề hơn.
Trình thuật của Sách TĐCV đề cập tới mô hình lý tưởng của cộng đòan các tín hữu
đầu tiên: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một
ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của
chung.” Để làm được điều này, các tín hữu phải có niềm tin vững mạnh nơi sự
quan phòng của Thiên Chúa và nhất là niềm tin vào Đức Kitô sống lại. Nếu Thiên
Chúa đã quan phòng mọi sự, tại sao phải lo lắng đến ngày mai? Nếu Đức Kitô đã
chinh phục sự chết, còn uy quyền nào lớn hơn uy quyền của Thiên Chúa? Nhờ quyền
năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và
Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.
1.2/ Mọi người đều có đủ
dùng: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu
thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt
dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.”
Lý do chính giúp các tín hữu đầu tiên có thể làm được chuyện này là niềm tin
vào sự sống lại. Truyền thống Do-thái tin hạnh phúc có được là chỉ ở đời này. Gần
thời của Chúa, niềm tin vào đời sau bắt đầu được đề cập đến, nhưng chưa rõ ràng
lắm (Sách Daniel và Macabbees). Khi Chúa Giêsu đến, Ngài làm sáng tỏ quan niệm
này bằng dạy dỗ (Jn 6:39-40) và chứng minh bằng cái chết và sự phục sinh của
Ngài. Nếu các tín hữu tin có sự sống lại, họ sẽ không quyến luyến quá nhiều vào
của cải vật chất nữa, nhưng biết sống làm sao để đạt hạnh phúc đời sau.
Trong xã hội con người, bất công xã hội thường xảy ra: Người giầu có, có quá
nhiều, đến chỗ dư thừa; người nghèo khó, thiếu quá nhiều, đến nỗi hóa bần cùng.
Cả hai hạng người đều có lý do để biện minh cho mình. Người giầu đưa lý do: tôi
làm ăn lương thiện, không ăn cắp của ai, và xứng đáng được hưởng những gì do
tay tôi làm ra. Người nghèo trả lời: “Ở đời muôn sự của chung.” Tất cả là của
Thiên Chúa ban cho con người, và mọi người đều là con cái Thiên Chúa. Con người
không phải là chủ nhân, nhưng chỉ là quản lý của những của cải. Chúng tôi
nghèo, không phải vì chúng tôi lười biếng, nhưng vì không có cơ hội để làm ăn.
Hãy cho chúng tôi cơ hội, chưa chắc chúng tôi đã túng nghèo như vậy. Thực ra, để
giải quyết bất công xã hội và cho mọi người có cơ hội đồng đều, Thiên Chúa đã
thiết lập năm Jubilee, xảy ra mỗi 50 năm (x/c Lev 25). Trong năm này, mọi ruộng
đất tài sản phải được trả về cho chủ nhân cũ, vì quá túng nghèo mà phải bán đi.
Mục đích của năm này là để mọi người đều có cơ hội làm lại cuộc đời.
2/ Bài đọc II: Yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người.
2.1/ Ai yêu mến Thiên
Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô: Có một sự hợp
lý tòan vẹn trong đạo lý của Đức Kitô: Ai yêu Thiên Chúa, người đó cũng phải
yêu những kẻ được Đấng ấy sinh ra, các con Thiên Chúa; cách riêng: Đức Giêsu
Kitô. Vì thế, khi người nào nói mình yêu Thiên Chúa, người ấy cũng phải yêu Đức
Kitô và tha nhân. Chúa Giêsu đã từng tranh luận với người Do-thái về điểm này
khi Ngài nói: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự
mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi” (Jn 8:42).
Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng lời nói, nhưng phải biểu tỏ bằng việc làm. Thánh
Gioan khuyên nhủ các tín hữu: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu
thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều
răn của Người. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu.”
2.2/ Ai tin vào Đức Kitô
là thắng thế gian: Để hiểu điều này, chúng
ta cần phải phân biệt các ý nghĩa khác nhau khi Gioan nói về thế gian (ko,smoj):
(1) thế gian là trái đất, nơi con người sinh sống; (2) tất cả con người, nhất
là những người chống lại Thiên Chúa; (3) cách sống hay tiêu chuẩn giá trị của
thế gian, nhất là những tiêu chuẩn đối nghịch với Thiên Chúa; và (4) đồ trang sức
(1 Pe 3.3). Theo văn mạch, tác giả có lẽ ám chỉ theo nghĩa (3) của thế gian ở
đây: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giêsu
là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không
phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là
chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” Những người chống Thiên Chúa là những người
không tin Đức Kitô được Thiên Chúa sai đến, hay những người chỉ tin vào thiên
tính, hay vào nhân tính của Người. Hơn nữa, Gioan còn nhấn mạnh: “Và điều làm
cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.”
3/ Phúc Âm: Phúc thay những người không thấy mà tin.
3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với
các Tông đồ, lúc không có Thomas.
(1) Bình an của Chúa Giêsu: Sự lo lắng và sợ sệt làm con người bất an, như trình
thuật kể tâm trạng của các tông đồ vào những ngày sau khi Chúa chết: “Vào chiều
ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì
các ông sợ người Do-thái.” Đang khi các ông hoảng hốt lo sợ như thế, Đức Giêsu
biết rõ các ông cần điều gì nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói:
"Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các
môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”
Bình an các ông có được là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không bao
giờ còn được nhìn thấy Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc mới
xảy ra; nhưng giờ đây các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt.
Hơn nữa, Ngài còn chứng minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với
các ông là sự thật, tất cả những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều
hiện thực. Sự hiện diện của Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực
trong tâm hồn, vì Ngài bảo đảm cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa,
được biểu lộ qua Đức Kitô.
(2) Lệnh được sai đi: Khi Đức Kitô chọn các tông đồ, Ngài muốn các ông tiếp tục
thi hành sứ vụ Ngài đã khởi sự; nên Người lại nói với các ông: “"Bình an
cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong,
Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em
tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm
giữ."” Sự bình an các tông đồ có được, không phải chỉ do sự hiện diện của
Đức Kitô, nhưng còn do sự hiện diện và quyền năng của Thánh Thần, mà Đức Kitô
đã thổi hơi vào các tông đồ. Với sự bình an và quyền năng của Thánh Thần, Ngài
sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trước đây, sự lo lắng và sợ hãi làm cho các
ông không dám sống và làm chứng cho sự thật; nhưng giờ đây, sau khi đã cảm nhận
được sự bình an qua niềm tin vào Chúa sống lại và sức mạnh của Thánh Thần; các
tông đồ mở tung cửa đi vào thế giới và làm chứng cho Đức Kitô. Các ông biết nếu
Đức Kitô đã chinh phục kẻ thù ghê gớm nhất là sự chết, còn gì phải sợ nữa.
3.2/ Chúa Giêsu hiện ra với
các Tông đồ, có cả Thomas.
(1) Sự cứng lòng của Thomas: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Thomas,
cũng gọi là Didymus, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói
với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
Chúng ta đừng vội trách Thomas, vì các
tông đồ khác cũng từng cứng lòng như ông khi họ chưa nhìn thấy Chúa. Tuy nhiên,
cách thức “khi nhìn thấy mới tin” chỉ là một trong nhiều cách thức con người
dùng để tin một điều là sự thật.
(2) Phản ứng của Thomas khi nhìn thấy Chúa: "Tám ngày sau, các môn đệ của
Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều
đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh
em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem
tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy
tin."
Ông Thomas thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. " Lời
thưa của Thomas không đơn thuần chỉ là niềm tin vào Chúa sống lại; nhưng là lời
tuyên xưng Đức Kitô là Thầy và là Thiên Chúa của ông. Tin khi đã thấy là cách
thức thấp nhất con người dùng khi muốn tin điều gì là thật; nhưng Chúa Giêsu muốn
nhấn mạnh đến những cách thức cao hơn, khi Ngài nói: “Phúc thay những người
không thấy mà tin!” Con người có thể tin Thiên Chúa qua các việc Ngài làm trong
vũ trụ, hay qua Kinh Thánh, hay qua lời chứng của các chứng nhân. Lề Luật
Do-thái chỉ đòi lời của 2 chứng nhân có thế giá. Chúng ta đã có hàng triệu chứng
nhân đã làm chứng cho sự phục sinh của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tin thế nào, sống như vậy. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô, hãy sống những gì
Ngài dạy; đừng sống như những người chỉ tin vào cuộc sống đời này.
- Niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô phải giúp chúng ta vượt qua những lo lắng,
buồn phiền, và sợ sệt của cuộc sống. Nếu một Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến
độ ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, còn gì quí giá hơn có thể ban mà
Ngài từ chối không ban cho chúng ta. Nếu một Thiên Chúa uy quyền đến độ chinh
phục được kẻ thù ghê gớm nhất của con người là sự chết, chúng ta còn phải sợ
hãi gì nữa?
- Hãy đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự bình an
đích thực của Ngài. Sự bình an này sẽ giúp chúng ta biết sống và làm chứng cho
Đức Kitô phục sinh.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
08/04/2018
CHÚA NHẬT TUẦN 2 PS – B
KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Ga 20,19-31
DẤU VẾT RIÊNG CỦA MÔN ĐỆ
“Bình an cho
anh em… Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... Hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga
20,19.21.22)
Suy niệm: Chúa Phục Sinh hiện đến, trao ba điều: bình an, sứ mạng, và Thánh Thần.
Chúa Phục Sinh hiện diện bằng xương bằng thịt nhưng chỉ tạm thời thôi. Rồi Người
sẽ về cùng Cha. Người vẫn tiếp tục hiện diện với các môn đệ ‘mọi ngày
cho đến tận thế’, nhưng là trongThánh Thần, bảo chứng của bình
an và nguồn lực của sứ mạng. Từ đây, ‘dấu vết riêng’ ghi
trong căn cước của người môn đệ Chúa Giê-su sẽ là sự hiện diện của Thánh Thần.
Không thể trực tiếp thấy Thánh Thần nơi tôi, nhưng thế giới có thể thấy dấu vết
của Ngài nơi sứ mạng của tôi và nơi sự bình an sâu thẳm (phát tiết thành niềm
vui sâu thẳm) trong tâm hồn tôi, cho dẫu bao thăng trầm, bao nghịch cảnh.
Mời Bạn: ‘Dấu vết riêng’ của người môn đệ Chúa có nơi bạn không? Tôi có đang
thi hành sứ mạng (bằng hình thức nào đó) không? Tôi có đang thật sự cảm nếm niềm
bình an sâu xa không? Nói cách khác: tôi có đang sống trong Thánh Thần của Chúa
Phục Sinh không?
Chia sẻ: Bạn đã từng cảm nghiệm được niềm bình an sâu xa mà ngay
giữa hoàn cảnh đầy bất an và tăm tối chưa? Sự bình an đó có gắn liền với sứ mạng
và với kinh nghiệm của bạn về Chúa Thánh Thần không?
Sống Lời Chúa: Chu toàn bổn phận hằng ngày của bạn theo sự hướng dẫn của Thánh Thần
và với tâm hồn bình an để những Tô-ma của ngày nay thấy được và sờ được sự hiện
diện sống động của Chúa Phục Sinh qua cuộc sống của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần, xin chiếm lĩnh trọn vẹn con người
con, để con không bao giờ đánh mất bình an, và không bao giờ xa rời sứ mạng.
Amen.
(5 phút Lời Chúa)
HÃY NHÌN XEM (8.4.2018 – Chúa nhật 2 Phục sinh, Năm B: Chúa nhật về Lòng Thương xót của Thiên Chúa)
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo
kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Suy niệm:
Thân xác chúng ta thường
mang những vết sẹo,
hậu quả của những lần bị
trầy trụa, té ngã.
Có những vết sẹo gợi lại
cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng
là chuyện đã qua.
Vết sẹo làm ta kém đẹp,
nhưng không làm đau như xưa.
Khi Ðức Giêsu phục sinh
hiện ra thăm các môn đệ,
Ngài giúp họ nhận ra Ngài
nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết
sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một
điều quan trọng:
Thầy chính là Ðấng đã bị
đóng đinh và đâm thâu;
Thầy đã chết nhưng Thầy
đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi
thấy Chúa phục sinh có sẹo,
dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho
các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi
với Ngài trên thiên quốc.
Chúng gợi lên những kỷ
niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau.
Nhưng nếu không có chúng
thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi
khỏi ký ức
cuộc khổ nạn kinh hoàng
và cái chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên
đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi
những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi
sự với tình yêu
thì mọi sự sẽ trở nên
nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin
Mừng về các vết thương đã lành.
Có những vết thương
tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người
khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã
làm các môn đệ bị thương.
Các vết sẹo của Thầy sẽ
chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu
những dấu đinh.
Chính lúc đó ông khám phá
thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng
sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi
xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ
đích thân hiện đến
để thỏa mãn những đòi hỏi
quá quắt của mình.
Lòng ông tràn ngập niềm
cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng
cỏi, khép kín, tự cô lập,
để bước vào thế giới của
lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều
ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến
các vết sẹo của Thầy,
nhưng ông tin Thầy là
Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một
bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc
thấy Chúa theo kiểu Tôma,
nhưng chúng ta vẫn được
thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi
tin.
Có khi phải tập nhìn lại
những vết sẹo của mình,
của Hội Thánh, của cả thế
giới,
để rồi tin rằng Chúa phục
sinh vẫn đang có mặt
giữa những trăn trở và
vấp váp, thất bại và khổ đau.
“Phúc cho những ai không
thấy mà tin”,
và phúc cho những ai biết
thấy nên tin.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui
tươi.
dù có phải lo âu và thống
khổ,
xin cho con đừng bao giờ
khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những
người quanh con,
những người -cũng như
con- đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu
thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn
biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận
khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong
khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối
cùng.
Và con sẽ về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương
muôn đời. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG TƯ
Chia Sẻ Kinh Nghiệm
Riêng
Của Mình Cho Người
Khác
“Thiên Chúa đã nâng Đức
Giêsu dậy, và tất cả chúng tôi làm chứng về điều đó” (Cv 2,32).
Chứng từ của đức tin về
Chúa Phục Sinh là một mối dây gắn kết tất cả các thành viên của Dân Thiên Chúa
lại bằng một cách thế đặc biệt. Công Đồng đã đúc kết tiếng gọi này thành một lời
hiệu triệu rõ ràng cho tất cả mọi giáo dân. Công Đồng tuyên bố rằng sứ mạng này
đúng thực thuộc về mọi người giáo dân, do họ đã tháp nhập vào Đức Kitô qua Phép
Rửa: “Mỗi người giáo dân phải là một chứng nhân cho thế giới về sự sống lại và
về sự sống của Chúa Kitô” (GH 38).
Một cách thiết yếu,
làm chứng nghĩa là chứng thực về sự chắc chắn của một sự thật – và sự chắc chắn
này, một cách nào đó, là kết quả của kinh nghiệm bản thân. Một số phụ nữ đã là
những người chứng đầu tiên về cuộc Phục Sinh của Chúa (Mt 28,5-8). Khi họ đến cửa
mộ, họ không thấy Đức Giêsu, nhưng họ bắt đầu chắc chắn về sự Phục Sinh của Người
vì ngôi mộ trống rỗng và vì thiên thần nói với họ rằng Người đã sống lại. Đó là
cuộc hạnh ngộ nguyên sơ nhất của họ với mầu nhiệm Phục Sinh. Kinh nghiệm của họ
về Chúa càng đạt thêm giá trị khi Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ và các môn
đệ trên đường về Emmau.
Hạnh Các Thánh
Thánh Julie
Billiart
(1751 - 1816)
Sinh ở Cuvilly, nước Pháp, trong một gia đình nông dân trung lưu, ngay từ nhỏ
Marie Rose Julie Billiart đã có lòng đạo hạnh và muốn giúp đỡ người nghèo. Mặc
dù những năm niên thiếu thật êm đềm và thanh thản, nhưng khi lớn lên Julie đã
phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn
dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.
Khoảng
20 tuổi, sau khi tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù địch muốn giết hại cha mình, cô
Julie đã bị chấn động đến độ bất toại và tàn phế. Trong thời gian này, khi chịu
lễ hàng ngày, cô luyện tập đời sống tâm linh và dành bốn đến năm giờ đồng hồ
trong sự chiêm niệm. Trong vòng hai thập niên kế đó, dù phải liệt giường nhưng
cô vẫn tiếp tục dạy giáo lý, khuyên bảo và thu hút nhiều người đến với cô vì
nghe tiếng thánh thiện của cô.
Khi
cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, cô Julie dùng nhà mình làm nơi ẩn náu cho
các linh mục đang bị lùng bắt. Do đó, chính cô trở thành nạn nhân bị săn đuổi.
Với sự giúp đỡ của bạn bè, cô ẩn trong chiếc xe bò chở rơm trốn đến Cuvilly;
trong một vài năm kế tiếp cô trốn ở Compeigne, di chuyển từ nhà này sang nhà
khác bất kể sự đau đớn về thể xác. Có lần cô đau đớn đến độ mất cả tiếng nói.
Nhưng giai đoạn này là thời gian phát triển đời sống tâm linh của Julie. Chính
trong thời gian này cô được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là
các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Ðây là những người con
tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá." Thời gian
trôi qua và Julie quen biết với một phụ nữ quý tộc, cô Francoise Blin de
Bourdon, là người cùng chia sẻ việc dạy giáo lý với cô. Vào năm 1803, hai người
bắt đầu thành lập một tổ chức lấy tên là Hội Dòng Ðức Bà Namur, để giáo dục người
nghèo cũng như các thiếu nữ Công Giáo và huấn luyện giáo lý viên. Năm 1804, cô
Julie được bình phục và có thể đi lại bình thường sau 22 năm tàn phế. Vào năm
1805, Julie và ba người bạn là các nữ tu đầu tiên của Hội Dòng Ðức Bà Namur khấn
trọn. Sơ Julie được bầu làm Mẹ Bề Trên của tu hội trẻ trung này.
Mặc
dù Sơ Julie luôn luôn chú ý đến nhu cầu của người nghèo và đó vẫn là điều tiên
quyết, nhưng sơ nhận thấy những người thuộc giai cấp khác của xã hội cũng cần
được học hỏi về giáo lý Công Giáo. Từ lúc thành lập tu hội Các Nữ Tu của Ðức Bà
cho đến khi từ trần, Sơ Julie luôn luôn di chuyển để mở các trường học khác
nhau ở Pháp và Bỉ để phục vụ người nghèo cũng như giầu. Sau cùng, Sơ Julie và
Sơ Francoise di chuyển nhà mẹ đến Namur, nước Bỉ.
Sơ
Julie từ trần năm 1816, và được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh năm 1969.
Trích từ NguoiTinHuu.com
08 Tháng Tư
Cái Này Của Tôi
Hai hiền nhân đã chung sống với nhau
dưới một mái nhà trải qua nhiều năm tháng, nhưng không bao giờ họ lớn tiếng cãi
vã nhau. Một hôm kia, một người có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Ông bảo bạn:
"Ít ra là một lần, tôi muốn chúng
ta phải cãi vã nhau, như chúng ta thấy thiên hạ thường làm".
Ông kia không khỏi ngạc nhiên về ý
nghĩ kỳ lạ này, nhưng chiều bạn, ông ta hỡm hờ hỏi: "Cãi vã thế nào được,
ít ra chúng ta phải tìm ra một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ". Người
có ý kiến phải cãi nhau đề nghị: "Này nhé, dễ lắm! Tôi để một viên đá ra
giữa sân và quả quyết viên đá này là của tôi. Ông phải phùng mang trợn mắt, đỏ
mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: làm gì có chuyện đó, viên gạch là của tôi. Rồi
sau đó chúng ta cãi nhau".
Nói xong ông ta bèn ra đường và tìm một
viên đá to, khệ nệ khiêng ra đặt ở giữa sân. Ông bạn kia bắt đầu ngay, ông ta lớn
tiếng:
"Viên đá đó của tôi mà mắc mớ gì
ông lại mang ra giữa sân". Ông kia cãi lại: "Viên đá này là của tôi.
Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?". Nghe nói
thế, ông kia đáp:
"À phải rồi, viên đá đó ông tìm
được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần có đá để làm gì".
Nói xong, ông ta bỏ đi làm việc khác.
Thế là ý định cãi nhau của hai người không được thành tựu như ý muốn.
Ngay từ thuở bập bẹ nói được, con người đã học câu "Cái này là của
tôi" để thể hiện quyền làm chủ của mình. Quan sát các cuộc cãi nhau của trẻ
con, chúng ta nghe thấy câu nói đó được lặp đi lặp lại nhiều nhất.
Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hòa vẫn xoay xung quanh câu xác quyết "Cái này là của tôi".
Trẻ
con tranh nhau hòn bi, trái banh. Người lớn giành nhau địa vị, lợi lộc. Quốc
gia tranh nhau đất đai, hòn đảo, vùng ảnh hưởng, môi trường tiêu thụ.
Trẻ
con dùng lời vã cãi nhau, dùng thoi đánh đấm nhau. Người lớn dùng bạo lực, thủ
đoạn thanh toán nhau. Quốc gia dùng khí giới, bom đạn giết hại, tàn phá nhau.
Ngược
lại bẩm tính thích tranh nhau chiếm hữu này, sứ điệp của Giáo Hội luôn vang lên
hai tiếng: Chia sẻ.
Ở
Hoa Kỳ, mỗi gia đình công giáo được phân phát một hộp giấy, để trong suốt Mùa
Chay, mỗi phần tử trong gia đình bỏ vào đấy những đồng tiền tiết kiệm do bớt
ăn, bớt uống, bớt chi tiền vào những việc giải trí. Cuối Mùa Chay, những số tiền
dành dụm đó được đóng góp vào quỹ dành cho việc tài trợ những chương trình cứu
tế xã hội trong và ngoài nước.
Trích
sách Lẽ Sống






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét