Trang

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2018

08-04-2018 : (phần I) CHÚA NHẬT II PHỤC SINH năm B


08/04/2018
Chúa Nhật tuần 2 Phục Sinh năm B.
Kính Lòng Thương Xót Chúa.
(phần I)

Bài Ðọc I: Cv 4, 32-35
"Họ đồng tâm nhất trí".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Lúc bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 16ab -18. 22-24
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi, nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần. - Ðáp.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Ga 5, 1-6
"Mọi cái sinh ra bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, ai tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến Ðấng sinh thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bởi Ðấng đó. Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến con cái Thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành các giới răn Người. Vì chưng, lòng yêu mến Thiên Chúa là chúng ta tuân giữ giới răn Người, và giới răn của Người không nặng nề.
Vì những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa? Ðấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Ðức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa, có Thánh Thần làm chứng rằng Chúa Kitô là chân lý.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 20, 19-31
"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Hội Thánh Của Chúa Sống Lại
Sau khi sống lại, Chúa Yêsu, Chúa Yêsu không còn hiện diện hữu hình ở trần gian nữa. Người còn hiện ra nhiều lần cho môn đệ xem thấy mà tin. Nhưng đó chỉ là những lúc họa hiếm và mau qua. Từ nay cách thức hiện diện thường xuyên của Người với chúng ta là Thánh Thể và Hội Thánh. Ðó là hai bí tích hiểu theo nghĩa rộng để Người ở với chúng ta hằng ngày. Hội Thánh được gọi là Thân Thể của Chúa Kitô và Thánh Thể chính là thịt máu Người. Thế nên sau lễ Phục sinh, Phụng vụ kéo mắt chúng ta nhìn vào Hội Thánh, nơi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa để hiểu biết, yêu mến, bắt chước Người nhiều hơn. Và cũng trong Hội Thánh, chúng ta được tiếp xúc với Thánh Thể để nhận lấy sức sống Chúa muốn ban cho chúng ta. Như vậy, suy nghĩ về Hội Thánh phải là thao thức của chúng ta trong mùa Phục sinh này. Và người ta có thể suy nghĩ từ ngoài đi vào hoặc từ trong đi ra. Hôm nay chúng ta hãy theo thứ tự các bài đọc Kinh Thánh trong Thánh lễ để tìm hiểu Hội Thánh từ ngoài vào trong, từ hiện tượng khả giác vào tới mầu nhiệm thâm sâu. Và chúng ta sẽ thấy giáo xứ và giáo phận chúng ta còn thiếu sót nhiều quá để xứng đáng là Hội Thánh của Chúa Kitô Phục sinh.

1. Một Hội Thánh Sống Xã Hội
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay họa lại cho chúng ta một hình ảnh về Hội Thánh thời các tông đồ ở Yêrusalem. Ðây chỉ là một trong mấy bức họa hiếm hoi về Hội Thánh ấy. Còn 2, 3 bức họa nữa cũng ở trong sách Công vụ Tông đồ này. Và nếu được phép căn cứ vào câu đầu tiên của sách này mô tả đời sống của Hội Thánh ở thời bấy giờ: chuyên cần với giáo huấn của các tông đồ, sự hiệp thông, việc bẻ bánh và kinh nguyện (2,42) thì bức họa của đoạn sách Công vụ hôm nay là bức họa thứ hai, nói về sự hiệp thông của cộng đoàn dân Chúa.
Quả vậy, chính câu đầu tiên đã nói lên chủ đề: " Ðoàn lũ những kẻ tin chỉ có một tấm lòng, một linh hồn". Ðể mô tả sự hiệp thông thắm thiết giữa mọi người giữa mọi người nên một ấy, đoạn sách hôm nay nói rằng: "Không một người nào nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của chung".
Nhiều người đã vịn vào câu văn này để khẳng định Hội Thánh thời bấy giờ thi hành điều mà bây giờ thi hành điều mà bây giờ người ta gọi là "cộng sản", và Hội Thánh đã cộng sản trước cộng sản. Thiết tưởng không nên có những lời nói như vậy vì những lời nói thế chẳng đẹp lòng ai cả và chỉ tỏ ra đọc sách Công vụ rất hời hợt.
Hôm nay chúng ta cứ thử về nhà đọc lại đoạn sách này. Thánh Luca không cho chúng ta nhiều yếu tố để quả quyết gì về tổ chức xã hội của cộng đoàn dân Chúa thời bấy giờ. Người chỉ cho chúng ta một cái nhìn đạo đức về thái độ của các tín hữu đối với nhau. Nếu được phép tưởng tượng thì chúng ta có thể nghĩ rằng: thời ấy tín hữu của Chúa sống như mọi người về mặt xã hội kinh tế. Họ không hề có ý tưởng làm thành "một quốc gia ở trong một quốc gia", nghĩa là tổ chức với nhau một hệ thống sản xuất hay kinh tế riêng biệt. Họ chỉ khác đồng bào chung quanh ở chỗ là tin Chúa. Và vì chưa biết Chúa đủ, nên họ chuyên cần đến nghe lời của các Tông đồ trong các buổi họp chung. Ở đó họ được dẫn giải thêm về đạo lý, được cầu nguyện chung, được bẻ bánh chung, khiến họ được mật thiết kết hợp với Chúa và cùng Người làm nên một thân thể. Rồi chính khi ấy họ đã nhận ra mình là chi thể của nhau, là anh em con một Cha, một Chúa. Thế là một đức tin, một Thánh Thể để kết họ nên một với nhau trong tình mến. Họ thấy không được phép để cho ai trong anh em thiếu thốn nữa, nếu đang khi ấy họ có nhiều của cải hơn. Thế là như Barnaba, họ đem bán của riêng, đem huê lợi đến cho các tông đồ để chia sẻ cho anh em tùy theo nhu cầu.
Tất cả như vậy đã xảy ra từ một động lực bên trong. Việc hiệp thông với Chúa đã dẫn sang ý thức phải hiệp thông với nhau; và không thể hiệp thông chân thật với anh em khi có của mà để anh em túng thiếu. Ðó hoàn toàn là đạo đức chứ không phải cộng sản gì! Nhưng là đạo đức chân thật, biết và dám thi hành những đòi hỏi của niềm tin và lòng mến. Kẻ không đạo đức được như vậy cũng không thể có những hành động như thế.
Sách Công vụ ngay sau đoạn văn hôm nay đã kể chuyện vợ chồng Ananya và Saphyra. Hai người cùng bàn nhau đem bán một thửa đất riêng, rồi đem một phần tiền đến nói với thánh Phêrô: đó là tất cả số tiền bán được. Họ tưởng lừa được Phêrô. Nhưng họ quên Thánh Thần bấy giờ ở với Phêrô một cách rất đặc biệt. Phêrô bảo hai người: cớ sao đồng tình và đồng lõa ăn gian nói dối? Ai bắt phải bán đất đi? Và ai buộc phải đem lại tất cả số tiền?
Rồi câu chuyện thế nào, mọi người đã rõ. Ở đây chúng ta chỉ cần lưu ý: mấy lời của Phêrô làm cho chúng ta hiểu việc các tín hữu buổi đầu "không nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của chung". Ý nghĩa như thế nào? Ðó là một sự tự nguyện, phát xuất từ tinh thần hiệp thông xây trên một niềm tin chung; chứ không phải là một tổ chức xã hội có tính cách hành chánh.
Sự tự nguyện này vẫn còn tồn tại trong Hội Thánh ở nơi các cộng đoàn tu sĩ... Nó còn là đòi hỏi của Tin Mừng mà nhiều khi chúng ta không dám nghĩ tới. Vẫn biết hoàn cảnh đã thay đổi; xã hội đã biến chuyển; con cái Chúa không bao giờ "làm thành một Nước ở trong một Nước" để có nếp sống xã hội riêng; nhưng đang khi sống tốt thể chế xã hội của Nước mình, họ luôn phải nhớ đòi hỏi của Tin Mừng buộc họ phải sống hiệp thông với anh em. Và như vậy họ không được để anh em túng thiếu khi họ đang có của. Ðó là ý nghĩa cụ thể của đạo Bác ái. Và đó cũng là một trong những lý do của việc dâng tiền trong thánh lễ. Cử chỉ này không thể nào không gợi lên nếp sống hiệp thông chia sẻ mà bài sách Công vụ hôm nay nói về Hội Thánh thời các Tông đồ.
Thiết tưởng, lương tâm chúng ta còn bị chất vấn nhiều về vấn đề này. Nhưng nếu chúng ta muốn có thiện chí làm tốt hơn thì chúng ta phải đào sâu đức tin hơn, vì như đã nói, nếp sống hiệp thông kia đã phát xuất từ niềm tin mới mẻ. Bài thư Yoan có nhiều yếu tố quý báu giúp chúng ta làm công việc này.

2. Một Hội Thánh Sống Ðức Tin
Chúng ta có thể nghĩ đoạn thư này rời rạc và thiếu chặt chẽ. Nhưng nếu nắm được ý của thánh Yoan, chúng ta sẽ thấy đây là những tư tưởng rất quan trọng. Người muốn nói với những kẻ có đức tin để xác định niềm tin của họ phải như thế nào và có những hệ luận nào trong đời sống cụ thể.
Sánh với bài sách Công vụ trên đây, chúng ta có thể nói thánh Yoan đã đi từ trong ra đến ngoài đang khi thánh Luca đi từ ngoài vào trong. Tác giả sách Công vụ mô tả nếp sống xã hội của cộng đoàn dân Chúa; còn tác giả bài thư tìm hiểu động lực của nếp sống này.
Ðó là niềm tin mới, chưa gặp thấy nơi một xã hội loài người nào. Người tín hữu khác mọi người ở chỗ tin Yêsu là Ðức Kitô. Muốn thấy tính cách mới mẻ của niềm tin này, chúng ta phải trở về thời các tông đồ, hay phải nhìn sang lương dân. Ngoài các tín hữu ra, ai có thể có một ý tưởng như thế? Tin Yêsu là Ðức Kitô có nghĩa là tin Thiên Chúa đã thi hành kế hoạch cứu nhân độ thế của Người nơi con người và đời sống của Yêsu người thành Nadarét. Là tin Thiên Chúa yêu thương loài người đến độ đang khi chúng ta còn là tội nhân thù nghịch đã ban Con Một Người làm hy lễ đền tội chúng ta. Mà không phải chỉ đền và tha tội, nhưng còn nhờ cuộc Tử nạn Phục sinh của Ðức Kitô, cho chúng ta được tái sinh bởi Thiên Chúa để làm con cái Người. Một niềm tin như vậy đã ám tàng công nhận Ðức Yêsu là Con Thiên Chúa, vì nếu không, Yêsu sẽ chỉ là một sứ giả, một dụng cụ đặc biệt của Thiên Chúa, khiến niềm tin của chúng ta sẽ chẳng mới mẻ gì, vì đã thiếu gì người tự xưng là tiên tri của thượng đế sai đến với loài người.
Ðức tin của chúng ta thì khác. Nó mới sánh với mọi suy nghĩ và tin tưởng của loài người, vì nó khẳng định Yêsu là Con Thiên Chúa đã đến cứu loài người khiến ai tin thì được sinh lại bởi Thiên Chúa và được làm con cái Chúa. Ðó là nội dung đức tin mới.
Nó chân thật vì có nền tảng vững vàng. Ai chối bỏ được việc Ðức Yêsu Kitô đã đến? Không những Người đã đến nhờ Nước và Máu, mà có Thánh Thần làm chứng. Không những Người đã đến nhờ nước sống Yorđan khi chịu Yoan rửa, mà còn nhờ đến máu chảy ra trên Thập giá. Nhất là khi ở trên cây gỗ này, Người đã để Máu và Nước chảy ra từ cạnh sườn để từ nay Hội Thánh có Nước Rửa tội và có Máu Thánh Thể ban ơn tha thứ tội lỗi và sự sống thần linh mới cho loài người. Nhưng tất cả cuộc đời của Ðức Kitô từ khi nhận nước rửa ở sông Yorđan đến khi chảy máu ra trên Thập giá, cũng như tất cả các bí tích Thánh tẩy và Thánh Thể trong Hội Thánh làm cho người ta được ơn tha thứ và có sự sống mới, tất cả những điều ấy có giá trị chân thật đáng tin là vì cuối cùng có Chúa Thánh Thần đã đến làm chứng cho sự nghiệp của Ðức Kitô và sức sống của Hội Thánh. Ðức tin của chúng ta đi từ cơ sở các việc đã xảy ra trong cuộc đời của Ðức Kitô và của Hội Thánh mà đã được Thánh Thần làm chứng, nên là đức tin chân thật và vững vàng, khiến chúng ta thật là những người có phúc.
Thánh Yoan, trong đoạn thư này, nói đến cái phúc của người tín hữu là họ đã thắng được thế gian. Họ là những người tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi Ðức Yêsu Kitô thì họ được sinh làm con cái Thiên Chúa. Và như vậy họ không thuộc về thế gian nữa. Họ đã được giải thoát ra khỏi ách thống trị của thế gian tức là của sức mạnh thù nghịch với Thiên Chúa và con người. Họ được nên giống như Ðức Yêsu Kitô giờ đây đã sống lại, không còn gì có thể cầm giữ được nữa, kể cả tử thần là kẻ thù cuối cùng của con người. Nói cách khác, tín hữu nhờ đức tin bây giờ tuy còn sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian và lệ thuộc thế gian nữa. Họ đã chiến thắng thế gian nhờ đức tin. Họ đã thuộc về Chúa và trở nên con cái Chúa.
Như vậy họ phải sống sự sống của Người, phải giữ lệnh truyền của Người, vì lệnh truyền của Người chỉ là đòi hỏi của sự sống của Người. Yoan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu: Tình yêu là sự sống của Thiên Chúa; thì chính Yoan cũng nói lệnh truyền của Người là chúng ta hãy yêu mến nhau. Ðó là điều mà trong đoạn thư hôm nay Yoan đã viết: phàm ai yêu mến đấng sinh thành, tức là Thiên Chúa, tất phải yêu mến kẻ bởi Chúa mà sinh ra, tức là các con cái Thiên Chúa. Và lệnh truyền đó không nặng nề, vì như Augustinô nói: "Khi người ta yêu thì hoặc không thấy gì nặng nề, hoặc có thấy thì cũng yêu sự nặng nề ấy khiến nó không còn nặng nề nữa". Do đó nền tảng và động lực của nếp sống hiệp thông trong Hội Thánh là niềm tin và lòng mến, mà bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết đã phát xuất từ đâu.

3. Một Hội Thánh Của Chúa Sống Lại
Chúng ta biết bài Tin Mừng này đến nỗi chỉ cần nghe nhắc tới tên Tôma là chúng ta có thể thuật lại rành rẽ. Nhưng có lẽ chúng ta đã đồng hóa nội dung của nó với lòng cứng tin của Tôma, làm như thế, bài Tin Mừng hôm nay chỉ muốn nói xấu vị Tông đồ này. Không thể như vậy, vì nếu như vậy thì đoạn văn này không còn phải là Tin Mừng nữa.
Yoan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và Tôma là để chúng ta tin và bởi tin thì chúng ta được sống, tức là được hạnh phúc. Người muốn nói đến nguồn gốc đức tin của chúng ta. Người đi sâu và đi vào trong hơn bài Thánh Thư và bài sách Công vụ.
Chẳng riêng gì Tôma, mọi môn đồ khi ấy đều chưa tin. Vì thế họ mới đóng cửa nhà, vì sợ người Dothái. Nhưng Ðức Yêsu bổng dưng đã đến đứng giữa họ, bất chấp cửa đóng then cài. Người phải ban bình an trấn tỉnh họ. Rồi Người cho họ thấy các thương tích của Người. Họ liền mừng rỡ vì thấy ngay là Thầy mình đã sống lại. Chính sự sống lại của Người khiến họ được vui mừng. Chính mầu nhiệm Phục sinh là Tin Mừng. Và Tin Mừng này, chính Ðức Yêsu đã mang đến khi hiện ra và cho họ thấy các thương tích của Người. Người thật là đấng khơi nguồn và viên thành đức tin của Hội Thánh.
Tôma là một trong các tông đồ và sẽ là một trong các cột trụ để Hội Thánh vươn lên. Ông có quyền đòi hỏi được như các bạn đồng nghiệp, và chúng ta cũng buộc Tôma phải được như vậy để đức tin của chúng ta có cơ sở vững vàng. Do đó thật là vì chúng ta mà Yoan thuật lại câu chuyện về Tôma để minh chứng rõ ràng đức tin của chúng ta bắt nguồn từ việc các Tông đồ được thấy Chúa hiện ra với thương tích của Người, hầu mọi người biết Ðấng chịu nạn đã sống lại thật. Ðó là Tin Mừng cho mọi người; vì như vậy là bằng chứng "thế gian", tức là sức mạnh thù nghịch Thiên Chúa và con người đã bị đánh bại, để từ nay ai tin vào Ðức Kitô Phục sinh sẽ chiến thắng thế gian, sẽ được ơn tha tội và có sự sống mới. Và những người như vậy sẽ tạo nên một nét mới mẻ trong đời sống xã hội con người.
Sách Công vụ hôm nay đề cao nét sống mới mẻ này khi mô tả việc hiệp thông ở trong Hội Thánh. Thư Yoan tìm hiểu động lực của hiện tượng đó nơi đức tin, và bài Tin Mừng cho thấy Ðấng khơi nguồn đức tin ấy là Ðức Yêsu sống lại đã hiện ra với các môn đồ.
Chúng ta giờ đây nhờ đức tin các tông đồ truyền cho sắp được tiếp xúc với Ðức Kitô sống lại, trong mầu nhiệm bàn thờ. Chúng ta hãy có lòng tin và lòng mến của Tôma để kêu lên: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi". Lòng tin và mến ấy chỉ chân thật nếu chúng ta nêu gương các tín hữu tiên khởi mà sống hiệp thông với nhau trong việc cầu nguyện, bẻ bánh, nhưng cũng phải có trong đời sống xã hội nữa. Chỉ khi đó chúng ta mới làm cho giáo xứ và giáo phận chúng ta được nên giống Hội Thánh của các Tông đồ, tức là Hội Thánh của chính Ðức Yêsu Kitô đã sống lại.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật II Phục Sinh, Năm B
Bài đọc: Acts 4:32-35; I Jn 5:1-6; Jn 20:19-31.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hậu quả của niềm tin vào Chúa sống lại.

            Tin thế nào sống thế ấy: Nếu không tin vào sự sống lại, con người sẽ chỉ biết sống theo những giá trị đời này; nhưng nếu tin vào sự sống lại của Đức Kitô, con người sẽ sống theo những giá trị mà Ngài răn dạy. Niềm tin vào sự sống lại không những giúp con người vượt qua những đau khổ của cuộc sống, mà còn biết giúp con người biết tuân giữ những gì Chúa dạy.
            Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự quan trọng của niềm tin vào sự sống lại của Đức Kitô. Trong Bài Đọc I, niềm tin vào Chúa phục sinh giúp các tín hữu đầu tiên biết yêu thương nhau; họ bỏ mọi sự làm của chung, để không ai phải thiếu thốn gì cả. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Gioan I, xác nhận: Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và nếu ai yêu mến Thiên Chúa, cũng thắng thế gian, vì thế gian từ chối không nhận biết Ngài. Trong Phúc Âm, tác giả tường thuật hai lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần đầu không có sự hiện diện của Thomas, Chúa ban bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Lần thứ hai, Chúa hiện đến với các tông đồ và có sự hiện diện của Thomas. Ngài thách thức ông hãy xỏ ngón tay ông vào các lỗ đinh đóng của Ngài, để ông tin Chúa vẫn sống.
 KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 
1/ Bài đọc I: Sức mạnh của niềm tin vào Chúa sống lại
1.1/ Các tín hữu bỏ mọi sự làm của chung: Chủ nghĩa cộng sản mơ ước có được một mô hình lý tưởng này; nhưng họ đã thất vọng ê chề, vì con người có thói quen vơ vét. Họ dám lấy ngay cả của chung để làm của riêng. Mấy chục năm qua, người cộng sản chẳng những đã không thực hiện được mơ ước “thiên đàng trần gian;” mà còn làm cho những bất công xã hội ra nặng nề hơn.
            Trình thuật của Sách TĐCV đề cập tới mô hình lý tưởng của cộng đòan các tín hữu đầu tiên: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.” Để làm được điều này, các tín hữu phải có niềm tin vững mạnh nơi sự quan phòng của Thiên Chúa và nhất là niềm tin vào Đức Kitô sống lại. Nếu Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự, tại sao phải lo lắng đến ngày mai? Nếu Đức Kitô đã chinh phục sự chết, còn uy quyền nào lớn hơn uy quyền của Thiên Chúa? Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.

1.2/ Mọi người đều có đủ dùng: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.” Lý do chính giúp các tín hữu đầu tiên có thể làm được chuyện này là niềm tin vào sự sống lại. Truyền thống Do-thái tin hạnh phúc có được là chỉ ở đời này. Gần thời của Chúa, niềm tin vào đời sau bắt đầu được đề cập đến, nhưng chưa rõ ràng lắm (Sách Daniel và Macabbees). Khi Chúa Giêsu đến, Ngài làm sáng tỏ quan niệm này bằng dạy dỗ (Jn 6:39-40) và chứng minh bằng cái chết và sự phục sinh của Ngài. Nếu các tín hữu tin có sự sống lại, họ sẽ không quyến luyến quá nhiều vào của cải vật chất nữa, nhưng biết sống làm sao để đạt hạnh phúc đời sau.
            Trong xã hội con người, bất công xã hội thường xảy ra: Người giầu có, có quá nhiều, đến chỗ dư thừa; người nghèo khó, thiếu quá nhiều, đến nỗi hóa bần cùng. Cả hai hạng người đều có lý do để biện minh cho mình. Người giầu đưa lý do: tôi làm ăn lương thiện, không ăn cắp của ai, và xứng đáng được hưởng những gì do tay tôi làm ra. Người nghèo trả lời: “Ở đời muôn sự của chung.” Tất cả là của Thiên Chúa ban cho con người, và mọi người đều là con cái Thiên Chúa. Con người không phải là chủ nhân, nhưng chỉ là quản lý của những của cải. Chúng tôi nghèo, không phải vì chúng tôi lười biếng, nhưng vì không có cơ hội để làm ăn. Hãy cho chúng tôi cơ hội, chưa chắc chúng tôi đã túng nghèo như vậy. Thực ra, để giải quyết bất công xã hội và cho mọi người có cơ hội đồng đều, Thiên Chúa đã thiết lập năm Jubilee, xảy ra mỗi 50 năm (x/c Lev 25). Trong năm này, mọi ruộng đất tài sản phải được trả về cho chủ nhân cũ, vì quá túng nghèo mà phải bán đi. Mục đích của năm này là để mọi người đều có cơ hội làm lại cuộc đời.

2/ Bài đọc II: Yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người.

2.1/ Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô: Có một sự hợp lý tòan vẹn trong đạo lý của Đức Kitô: Ai yêu Thiên Chúa, người đó cũng phải yêu những kẻ được Đấng ấy sinh ra, các con Thiên Chúa; cách riêng: Đức Giêsu Kitô. Vì thế, khi người nào nói mình yêu Thiên Chúa, người ấy cũng phải yêu Đức Kitô và tha nhân. Chúa Giêsu đã từng tranh luận với người Do-thái về điểm này khi Ngài nói: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi” (Jn 8:42).
            Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng lời nói, nhưng phải biểu tỏ bằng việc làm. Thánh Gioan khuyên nhủ các tín hữu: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu.”

2.2/ Ai tin vào Đức Kitô là thắng thế gian: Để hiểu điều này, chúng ta cần phải phân biệt các ý nghĩa khác nhau khi Gioan nói về thế gian (ko,smoj): (1) thế gian là trái đất, nơi con người sinh sống; (2) tất cả con người, nhất là những người chống lại Thiên Chúa; (3) cách sống hay tiêu chuẩn giá trị của thế gian, nhất là những tiêu chuẩn đối nghịch với Thiên Chúa; và (4) đồ trang sức (1 Pe 3.3). Theo văn mạch, tác giả có lẽ ám chỉ theo nghĩa (3) của thế gian ở đây: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” Những người chống Thiên Chúa là những người không tin Đức Kitô được Thiên Chúa sai đến, hay những người chỉ tin vào thiên tính, hay vào nhân tính của Người. Hơn nữa, Gioan còn nhấn mạnh: “Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.”

3/ Phúc Âm: Phúc thay những người không thấy mà tin.

3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, lúc không có Thomas.
            (1) Bình an của Chúa Giêsu: Sự lo lắng và sợ sệt làm con người bất an, như trình thuật kể tâm trạng của các tông đồ vào những ngày sau khi Chúa chết: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái.” Đang khi các ông hoảng hốt lo sợ như thế, Đức Giêsu biết rõ các ông cần điều gì nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”
            Bình an các ông có được là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc mới xảy ra; nhưng giờ đây các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt. Hơn nữa, Ngài còn chứng minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với các ông là sự thật, tất cả những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều hiện thực. Sự hiện diện của Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực trong tâm hồn, vì Ngài bảo đảm cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, được biểu lộ qua Đức Kitô.     
            (2) Lệnh được sai đi: Khi Đức Kitô chọn các tông đồ, Ngài muốn các ông tiếp tục thi hành sứ vụ Ngài đã khởi sự; nên Người lại nói với các ông: “"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."” Sự bình an các tông đồ có được, không phải chỉ do sự hiện diện của Đức Kitô, nhưng còn do sự hiện diện và quyền năng của Thánh Thần, mà Đức Kitô đã thổi hơi vào các tông đồ. Với sự bình an và quyền năng của Thánh Thần, Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trước đây, sự lo lắng và sợ hãi làm cho các ông không dám sống và làm chứng cho sự thật; nhưng giờ đây, sau khi đã cảm nhận được sự bình an qua niềm tin vào Chúa sống lại và sức mạnh của Thánh Thần; các tông đồ mở tung cửa đi vào thế giới và làm chứng cho Đức Kitô. Các ông biết nếu Đức Kitô đã chinh phục kẻ thù ghê gớm nhất là sự chết, còn gì phải sợ nữa.

3.2/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, có cả Thomas.
            (1) Sự cứng lòng của Thomas: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Thomas, cũng gọi là Didymus, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."        Chúng ta đừng vội trách Thomas, vì các tông đồ khác cũng từng cứng lòng như ông khi họ chưa nhìn thấy Chúa. Tuy nhiên, cách thức “khi nhìn thấy mới tin” chỉ là một trong nhiều cách thức con người dùng để tin một điều là sự thật.
            (2) Phản ứng của Thomas khi nhìn thấy Chúa: "Tám ngày sau, các môn đệ của Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."
                Ông Thomas thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. " Lời thưa của Thomas không đơn thuần chỉ là niềm tin vào Chúa sống lại; nhưng là lời tuyên xưng Đức Kitô là Thầy và là Thiên Chúa của ông. Tin khi đã thấy là cách thức thấp nhất con người dùng khi muốn tin điều gì là thật; nhưng Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến những cách thức cao hơn, khi Ngài nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” Con người có thể tin Thiên Chúa qua các việc Ngài làm trong vũ trụ, hay qua Kinh Thánh, hay qua lời chứng của các chứng nhân. Lề Luật Do-thái chỉ đòi lời của 2 chứng nhân có thế giá. Chúng ta đã có hàng triệu chứng nhân đã làm chứng cho sự phục sinh của Thiên Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: 

            - Tin thế nào, sống như vậy. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô, hãy sống những gì Ngài dạy; đừng sống như những người chỉ tin vào cuộc sống đời này.
            - Niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô phải giúp chúng ta vượt qua những lo lắng, buồn phiền, và sợ sệt của cuộc sống. Nếu một Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, còn gì quí giá hơn có thể ban mà Ngài từ chối không ban cho chúng ta. Nếu một Thiên Chúa uy quyền đến độ chinh phục được kẻ thù ghê gớm nhất của con người là sự chết, chúng ta còn phải sợ hãi gì nữa?
            - Hãy đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự bình an đích thực của Ngài. Sự bình an này sẽ giúp chúng ta biết sống và làm chứng cho Đức Kitô phục sinh. 
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


08/04/2018
CHÚA NHẬT TUẦN 2 PS – B
KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Ga 20,19-31

DẤU VẾT RIÊNG CỦA MÔN ĐỆ

“Bình an cho anh em… Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... Hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20,19.21.22)
Suy niệm: Chúa Phục Sinh hiện đến, trao ba điều: bình an, sứ mạng, và Thánh Thần. Chúa Phục Sinh hiện diện bằng xương bằng thịt nhưng chỉ tạm thời thôi. Rồi Người sẽ về cùng Cha. Người vẫn tiếp tục hiện diện với các môn đệ ‘mọi ngày cho đến tận thế’, nhưng là trongThánh Thần, bảo chứng của bình an và nguồn lực của sứ mạng. Từ đây, ‘dấu vết riêng’ ghi trong căn cước của người môn đệ Chúa Giê-su sẽ là sự hiện diện của Thánh Thần. Không thể trực tiếp thấy Thánh Thần nơi tôi, nhưng thế giới có thể thấy dấu vết của Ngài nơi sứ mạng của tôi và nơi sự bình an sâu thẳm (phát tiết thành niềm vui sâu thẳm) trong tâm hồn tôi, cho dẫu bao thăng trầm, bao nghịch cảnh.

Mời Bạn: ‘Dấu vết riêng’ của người môn đệ Chúa có nơi bạn không? Tôi có đang thi hành sứ mạng (bằng hình thức nào đó) không? Tôi có đang thật sự cảm nếm niềm bình an sâu xa không? Nói cách khác: tôi có đang sống trong Thánh Thần của Chúa Phục Sinh không?

Chia sẻ: Bạn đã từng cảm nghiệm được niềm bình an sâu xa mà ngay giữa hoàn cảnh đầy bất an và tăm tối chưa? Sự bình an đó có gắn liền với sứ mạng và với kinh nghiệm của bạn về Chúa Thánh Thần không?

Sống Lời Chúa: Chu toàn bổn phận hằng ngày của bạn theo sự hướng dẫn của Thánh Thần và với tâm hồn bình an để những Tô-ma của ngày nay thấy được và sờ được sự hiện diện sống động của Chúa Phục Sinh qua cuộc sống của bạn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần, xin chiếm lĩnh trọn vẹn con người con, để con không bao giờ đánh mất bình an, và không bao giờ xa rời sứ mạng. Amen.
(5 phút Lời Chúa)


HÃY NHÌN XEM (8.4.2018 – Chúa nht 2 Phc sinh, Năm B: Chúa nht v Lòng Thương xót ca Thiên Chúa)
Tin bao gi cũng đòi mt bước nhy vt khi cái thy. Chúng ta không được phúc thy Chúa theo kiu Tôma, nhưng chúng ta vn được thy Chúa theo nhng kiu khác.


Suy nim:
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo,
hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã.
Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua.
Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ,
Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng:
Thầy chính là Ðấng đã bị đóng đinh và đâm thâu;
Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo,
dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc.
Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau.
Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức
cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu
thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành.
Có những vết thương tưởng  chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương.
Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh.
Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến
để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình.
Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập,
để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy,
nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma,
nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin.
Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình,
của Hội Thánh, của cả thế giới,
để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt
giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin”,
và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người -cũng như con- đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con sẽ về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG TƯ
Chia Sẻ Kinh Nghiệm Riêng
Của Mình Cho Người Khác
“Thiên Chúa đã nâng Đức Giêsu dậy, và tất cả chúng tôi làm chứng về điều đó” (Cv 2,32).
Chứng từ của đức tin về Chúa Phục Sinh là một mối dây gắn kết tất cả các thành viên của Dân Thiên Chúa lại bằng một cách thế đặc biệt. Công Đồng đã đúc kết tiếng gọi này thành một lời hiệu triệu rõ ràng cho tất cả mọi giáo dân. Công Đồng tuyên bố rằng sứ mạng này đúng thực thuộc về mọi người giáo dân, do họ đã tháp nhập vào Đức Kitô qua Phép Rửa: “Mỗi người giáo dân phải là một chứng nhân cho thế giới về sự sống lại và về sự sống của Chúa Kitô” (GH 38).
Một cách thiết yếu, làm chứng nghĩa là chứng thực về sự chắc chắn của một sự thật – và sự chắc chắn này, một cách nào đó, là kết quả của kinh nghiệm bản thân. Một số phụ nữ đã là những người chứng đầu tiên về cuộc Phục Sinh của Chúa (Mt 28,5-8). Khi họ đến cửa mộ, họ không thấy Đức Giêsu, nhưng họ bắt đầu chắc chắn về sự Phục Sinh của Người vì ngôi mộ trống rỗng và vì thiên thần nói với họ rằng Người đã sống lại. Đó là cuộc hạnh ngộ nguyên sơ nhất của họ với mầu nhiệm Phục Sinh. Kinh nghiệm của họ về Chúa càng đạt thêm giá trị khi Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ và các môn đệ trên đường về Emmau.



Hạnh Các Thánh
Thánh Julie Billiart
    (1751 - 1816)


    Sinh ở Cuvilly, nước Pháp, trong một gia đình nông dân trung lưu, ngay từ nhỏ Marie Rose Julie Billiart đã có lòng đạo hạnh và muốn giúp đỡ người nghèo. Mặc dù những năm niên thiếu thật êm đềm và thanh thản, nhưng khi lớn lên Julie đã phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.

    Khoảng 20 tuổi, sau khi tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù địch muốn giết hại cha mình, cô Julie đã bị chấn động đến độ bất toại và tàn phế. Trong thời gian này, khi chịu lễ hàng ngày, cô luyện tập đời sống tâm linh và dành bốn đến năm giờ đồng hồ trong sự chiêm niệm. Trong vòng hai thập niên kế đó, dù phải liệt giường nhưng cô vẫn tiếp tục dạy giáo lý, khuyên bảo và thu hút nhiều người đến với cô vì nghe tiếng thánh thiện của cô.

    Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, cô Julie dùng nhà mình làm nơi ẩn náu cho các linh mục đang bị lùng bắt. Do đó, chính cô trở thành nạn nhân bị săn đuổi. Với sự giúp đỡ của bạn bè, cô ẩn trong chiếc xe bò chở rơm trốn đến Cuvilly; trong một vài năm kế tiếp cô trốn ở Compeigne, di chuyển từ nhà này sang nhà khác bất kể sự đau đớn về thể xác. Có lần cô đau đớn đến độ mất cả tiếng nói.

    Nhưng giai đoạn này là thời gian phát triển đời sống tâm linh của Julie. Chính trong thời gian này cô được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Ðây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá." Thời gian trôi qua và Julie quen biết với một phụ nữ quý tộc, cô Francoise Blin de Bourdon, là người cùng chia sẻ việc dạy giáo lý với cô. Vào năm 1803, hai người bắt đầu thành lập một tổ chức lấy tên là Hội Dòng Ðức Bà Namur, để giáo dục người nghèo cũng như các thiếu nữ Công Giáo và huấn luyện giáo lý viên. Năm 1804, cô Julie được bình phục và có thể đi lại bình thường sau 22 năm tàn phế. Vào năm 1805, Julie và ba người bạn là các nữ tu đầu tiên của Hội Dòng Ðức Bà Namur khấn trọn. Sơ Julie được bầu làm Mẹ Bề Trên của tu hội trẻ trung này.

    Mặc dù Sơ Julie luôn luôn chú ý đến nhu cầu của người nghèo và đó vẫn là điều tiên quyết, nhưng sơ nhận thấy những người thuộc giai cấp khác của xã hội cũng cần được học hỏi về giáo lý Công Giáo. Từ lúc thành lập tu hội Các Nữ Tu của Ðức Bà cho đến khi từ trần, Sơ Julie luôn luôn di chuyển để mở các trường học khác nhau ở Pháp và Bỉ để phục vụ người nghèo cũng như giầu. Sau cùng, Sơ Julie và Sơ Francoise di chuyển nhà mẹ đến Namur, nước Bỉ.

    Sơ Julie từ trần năm 1816, và được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh năm 1969.
    
    Trích từ NguoiTinHuu.com


08 Tháng Tư
Cái Này Của Tôi

    Hai hiền nhân đã chung sống với nhau dưới một mái nhà trải qua nhiều năm tháng, nhưng không bao giờ họ lớn tiếng cãi vã nhau. Một hôm kia, một người có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Ông bảo bạn:

    "Ít ra là một lần, tôi muốn chúng ta phải cãi vã nhau, như chúng ta thấy thiên hạ thường làm".

    Ông kia không khỏi ngạc nhiên về ý nghĩ kỳ lạ này, nhưng chiều bạn, ông ta hỡm hờ hỏi: "Cãi vã thế nào được, ít ra chúng ta phải tìm ra một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ". Người có ý kiến phải cãi nhau đề nghị: "Này nhé, dễ lắm! Tôi để một viên đá ra giữa sân và quả quyết viên đá này là của tôi. Ông phải phùng mang trợn mắt, đỏ mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: làm gì có chuyện đó, viên gạch là của tôi. Rồi sau đó chúng ta cãi nhau".

    Nói xong ông ta bèn ra đường và tìm một viên đá to, khệ nệ khiêng ra đặt ở giữa sân. Ông bạn kia bắt đầu ngay, ông ta lớn tiếng:

    "Viên đá đó của tôi mà mắc mớ gì ông lại mang ra giữa sân". Ông kia cãi lại: "Viên đá này là của tôi. Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?". Nghe nói thế, ông kia đáp:

    "À phải rồi, viên đá đó ông tìm được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần có đá để làm gì".

    Nói xong, ông ta bỏ đi làm việc khác. Thế là ý định cãi nhau của hai người không được thành tựu như ý muốn.

    Ngay từ thuở bập bẹ nói được, con người đã học câu "Cái này là của tôi" để thể hiện quyền làm chủ của mình. Quan sát các cuộc cãi nhau của trẻ con, chúng ta nghe thấy câu nói đó được lặp đi lặp lại nhiều nhất.

    Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hòa vẫn xoay xung quanh câu xác quyết "Cái này là của tôi".

    Trẻ con tranh nhau hòn bi, trái banh. Người lớn giành nhau địa vị, lợi lộc. Quốc gia tranh nhau đất đai, hòn đảo, vùng ảnh hưởng, môi trường tiêu thụ.

    Trẻ con dùng lời vã cãi nhau, dùng thoi đánh đấm nhau. Người lớn dùng bạo lực, thủ đoạn thanh toán nhau. Quốc gia dùng khí giới, bom đạn giết hại, tàn phá nhau.

    Ngược lại bẩm tính thích tranh nhau chiếm hữu này, sứ điệp của Giáo Hội luôn vang lên hai tiếng: Chia sẻ.

    Ở Hoa Kỳ, mỗi gia đình công giáo được phân phát một hộp giấy, để trong suốt Mùa Chay, mỗi phần tử trong gia đình bỏ vào đấy những đồng tiền tiết kiệm do bớt ăn, bớt uống, bớt chi tiền vào những việc giải trí. Cuối Mùa Chay, những số tiền dành dụm đó được đóng góp vào quỹ dành cho việc tài trợ những chương trình cứu tế xã hội trong và ngoài nước.


    
    Trích sách Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét