Trang

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2018

08-04-2018 : (phần II) CHÚA NHẬT II PHỤC SINH năm B


08/04/2018
Chúa Nhật tuần 2 Phục Sinh năm B.
Kính Lòng Thương Xót Chúa.
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật II Phục Sinh, năm B

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
CHÚA NHẬT KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Cv 4,32-35; 1Ga 5,1-6; Ga 20,19-31

“Ông Tôma thưa Người: ‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!’
Đức Giêsu bảo: ‘Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin!’”
(Ga 20,28-29)

I. CÁC BÀI ĐỌC

1. Bài đọc 1: Cv 4,32-35

Trong khoảng 30 năm sau biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Giáo Hội thời sơ khai đã tiến triển mạnh mẽ trong Đế Quốc Rôma. Sách Tông Đồ Công Vụ minh định: Kitô giáo không phải là một mối đe dọa chính trị đối với Rôma, nhưng là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng đang kiến tạo một “vương quốc” thiêng liêng, vốn bao gồm tất cả những ai tin vào danh Đức Giêsu Kitô.

Cv 4,32-35 thuộc phần thứ nhất trong Sách Tông Đồ Công Vụ (1,1 – 6,7), vốn được thánh Luca viết ra để trình bày cho chúng ta biết về sự tiến triển của Hội Thánh tại Giêrusalem và tại Giuđêa sau biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô.

Sự tiến triển của Hội Thánh thời sơ khai được tô đậm bởi những nét đẹp sau đây:

1) Các tín hữu đông đảo nhưng có sự hiệp nhất (đồng tâm nhất trí).
2) Các tông đồ là những vị lãnh đạo hữu hình: Thiên Chúa ban ơn dồi dào cho các ngài, và các ngài dám can đảm làm chứng cho Đức Kitô.
3) Các tín hữu xem mọi sự là của chung: cộng đoàn có nhiều người quảng đại và trung thực (vd. Ông Barnabas), vì thế không ai trong cộng đoàn gặp cảnh túng thiếu.

Những nét đẹp này tái khẳng định những điều tốt đẹp nơi đời sống cộng đoàn tiên khởi vốn đã được thánh Luca trình bày trước đó ở Cv 2,42-47. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý là cũng có một số thành viên trong cộng đoàn không sống được những nét đẹp này. Câu chuyện có liên hệ đến hai nhân vật Ananias và Sapphira (x. Cv 5,1-11) là một dẫn chứng cụ thể. Thật vậy, sự hiệp nhất trong cộng đoàn ít nhiều đã bị sứt mẻ bởi hai kẻ này, vốn đã giữ lấy một phần tiền cho riêng mình sau khi đã bán một thửa đất. Khi làm như vậy, họ đã không sống được tinh thần quảng đại và trung thực như đã được thể hiện nơi ông Barnabas và nơi nhiều tín hữu khác.

2. Bài đọc 2: 1Ga 5,1-6

Theo truyền thống, thánh Gioan Tông Đồ đã viết thư này, có lẽ để gửi cho giáo đoàn tại Êphêsô. 1Ga 2,19 cho chúng ta biết một số kẻ “phản Kitô” đã tách khỏi giáo đoàn. Họ đang tìm cách lôi kéo nhiều người theo lạc thuyết của họ. Thánh Gioan đã viết thư này để giúp giáo đoàn phân định sự thật khỏi sự dối trá, lầm lạc cả trong giáo thuyết lẫn trong cung cách sống.

Những kẻ phản Kitô này không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (x. 2,2). Họ cũng không tin Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm (x. 4,2-3). Thánh Gioan, trái lại, khẳng định: “Ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, thì người ấy đã được Thiên Chúa sinh ra” (5,1). Như thế, việc chúng ta nhận lãnh ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa hệ tại ở niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu (x. 5,1), là Đấng Cứu Độ (x. 4,9-10.14), và là Con Thiên Chúa (x. 4,15; 5,5). Niềm tin này giúp chúng ta thắng được thế gian (x. 5,4).

Như kẻ làm con phải biết kính yêu cha mẹ mình, thì người được tái sinh trong Đức Kitô cũng phải biết yêu mến và thảo kính đối với Thiên Chúa. Thái độ này được thể hiện cụ thể qua việc chúng ta tuân giữ các lệnh truyền của Thiên Chúa (x. 5,4), vốn giúp chúng ta ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong chúng ta (x. 3,24).

Người yêu mến Thiên Chúa đích thực thì cũng yêu mến anh em mình (x. 5,1b). Không có sự tách biệt giữa việc yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người. Kẻ biết yêu thương thì có sự sống nơi mình. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết (x. 3,14). Nhưng chúng ta không thể yêu thương qua lời nói mà thôi, mà phải qua việc làm cụ thể, như thánh Gioan đã dạy chúng ta: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (3,18).

Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và với tha nhân, thực ra, chẳng phải tiên thiên đến từ phía chúng ta. Đúng ra, phải nói rằng Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, đã sai Con Một của Người đến để cứu độ chúng ta (x. 4,10). Nơi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, chúng ta nghiệm thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho những tội nhân như chúng ta đã lên đến tột đỉnh, đã đạt mức thập toàn. Từ cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương mình hết mức, mà chúng ta thấy cần phải lấy tình yêu đáp đền tình yêu. Tình yêu thương đồng loại cũng phát xuất và được củng cố từ tình yêu thảo kính chúng ta dành cho Thiên Chúa, khi chúng ta nhận biết Thiên Chúa muốn yêu thương hết mọi người.

3. Bài Tin Mừng: Ga 20,19-31

Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Phục Sinh Năm B nằm trong loạt trình thuật liên hệ đến Ngày Phục Sinh của Đức Giêsu (x. Ga 20,1.19): Ngôi Mộ Trống (Ga 20,1-10); Đức Giêsu hiện ra với bà Maria Magdalena (Ga 20,11-19); Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ (Ga 20,19-31).

Trình thuật Ngôi Mộ Trống ghi lại bằng chứng về biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu, với điểm nhấn nơi  “niềm tin” của người môn đệ được Đức Giêsu thương mến. Trình thuật Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ như được thánh Mátthêu trình bày ở 28,9-10 cũng có phiên bản tương ứng ở Ga 20,11-18, với Maria Magdalena là hiện thân của nỗi buồn nơi các môn đệ cũng như niềm vui của họ khi được gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Cuối cùng, trong Ngày Phục Sinh, Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ, và trong cuộc gặp gỡ này, Ngài đã ban cho các ông Thần Khí của Ngài.

Đọc kỹ hơn Ga 20,19-31, chúng ta có thể rút ra những điểm chính sau đây:

1) Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ và Người đã cho các ông xem tay và cạnh sườn mình, củng cố bằng chứng về việc Người đã thực sự phục sinh (x. c20). Việc hiện ra này cũng để thực hiện lời Người đã nói trước đó với các môn đệ: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” (16,16).

2) Hai lần Đức Giêsu nói “bình an cho anh em” (x. cc19.21), kiện toàn lời Người đã hứa trong lúc nói lời chia tay các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (14,27; đ/c 16,33).

3) Việc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh đã đem lại niềm vui cho các môn đệ, ứng nghiệm lời Người đã tiên báo: “Thật, Thầy bảo thật anh em: Anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (16,20).

4) Đấng Phục Sinh thổi Thánh Thần vào các môn đệ. Sự kiện này nhắc nhớ đến St 2,7 khi Thiên Chúa thổi sinh khí vào Adam. Qua quà tặng là Chúa Thánh Thần, Đấng Phục Sinh mang lại sức sống mới cho các môn đệ, và qua các ngài, cho toàn nhân loại. Cùng với quà tặng đặc biệt là Chúa Thánh Thần, các môn đệ được ban năng quyền tha tội cho con người.

5) Đấng Phục Sinh đã trao sứ mạng của riêng mình cho các môn đệ: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (c.21). Đấng Phục Sinh sẽ sai họ đi theo cùng cách thức Chúa Cha đã sai Người (x. 13,16.20; 17,18).

6) Ông Tôma chẳng dễ tin vào những lời chứng của các môn đệ khác. Ông không chỉ muốn “được thấy Chúa”, mà còn được tự mình kiểm chứng dấu đinh nơi tay và dấu đòng nơi cạnh sườn Chúa (x. c25).

7) Trong lần hiện ra 8 ngày sau đó, Đấng Phục Sinh sẵn lòng cho ông Tôma thực hiện những điều ông muốn. Nhưng đồng thời, Người cũng mời gọi ông “đừng cứng lòng, nhưng hãy tin” (x. c27). Dịp này, ông Tôma đã diễn tả đức tin ở tầm mức cao nhất của người môn đệ vào Đức Giêsu: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (c28). Toàn bộ Tin Mừng Gioan được viết ra cũng nhằm mục đích này, đó là đưa người đọc đến niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, để qua đó, họ được sự sống nhờ danh Người (x. c31).

8) “Phúc cho những người không thấy mà tin” là lời chúc phúc Đấng Phục Sinh dành cho tất cả chúng ta, là những Kitô hữu đang tin vào Đức Giêsu Kitô không chỉ ngang qua lời chứng vị thánh sử Gioan về Ngôi Mộ Trống, về việc Đức Giêsu hiện ra với nhiều môn đệ, mà còn ngang qua kinh nghiệm thường ngày chúng ta có được với Đấng Phục Sinh, được thể hiện qua việc suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa, qua đời sống Phụng Vụ và các Bí Tích, qua việc tiếp xúc với nhiều người, qua công việc và những môi trường sống khác nhau, v.v.

II. GỢI Ý MỤC VỤ

1. Tại sao các tín hữu thời sơ khai có thể sống được những nét đẹp như được trình bày trên đây? Ai là suối nguồn hiệp nhất cho họ? Tôi thấy mình cần phải noi gương các tín hữu thời sơ khai ở điểm nào? Tại sao và làm thế nào?

2. Đâu là những phẩm chất cần có nơi cộng đoàn tôi đang sống, nơi môi trường đức tin tôi đang thực hành, để khuôn mặt của Đấng Phục Sinh có thể được con người hôm nay dễ dàng nhận ra hơn?

3. Không có sự tách biệt giữa lòng mến Chúa và yêu người. Tôi có thể minh họa nhận định này thế nào qua kinh nghiệm sống của mình?

4. Thánh Gioan dạy chúng ta: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (3,18). Điều này đã được cụ thể hóa thế nào nơi cuộc đời tôi? Nơi giáo xứ của tôi? Nơi cộng đoàn tu của tôi?

5. Đức Giêsu Phục Sinh đến ban bình an cho các môn đệ, đến trao ban Thánh Thần của Người cho họ, đến để củng cố những lời Người đã hứa trước đó, đến để sai các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ của Người, đến để cho kẻ cứng lòng tin được dịp kiểm chứng và mời gọi kẻ ấy đặt lòng tin vào Người, đến để nói lời chúc phúc cho những kẻ không thấy mà tin. Trong Mùa Phục Sinh này, tôi cảm thấy mình mong đợi Đấng Phục Sinh đến để ban cho tôi điều gì? Tại sao?

6. Thiên Chúa đã thể hiện lòng xót thương của Người cho chúng ta thế nào qua biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, qua việc Người hiện ra với các môn đệ? Tôi còn nghiệm thấy Thiên Chúa đang tỏ lòng xót thương đối với tôi qua những cách thức nào khác?

III. LỜI NGUYỆN CHUNG

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra để củng cố đức tin cho các tông đồ, ban bình an và Chúa Thánh Thần để các ông chu toàn sứ mạng được ủy thác. Trong tâm tình ngợi khen và cảm tạ Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.

1. “Như Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn ý thức và chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh qua những nỗ lực bảo vệ môi trường và sự sống, cùng thực thi công bình bác ái.

2. Bình an là quà tặng của Chúa Phục Sinh cho nhân loại. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người cùng mọi dân tộc trên thế giới được đón nhận bình an và sức sống của Chúa Kitô, tích cực cộng tác xây dựng hoà bình, bênh vực và thi hành công lý.

3. “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần.” Chúng ta cùng cầu xin cho những người đang hoang mang trong niềm tin và lạc hướng trong cuộc sống, được Thánh Thần của Đấng Phục Sinh nâng đỡ hướng dẫn, luôn sống trong niềm vui và bước đi trong ánh sáng.

4. Chúa Giêsu là dung mạo Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta cũng trở nên dấu chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa trong xã hội hiện tại bằng một đời sống yêu thương và dấn thân phục vụ mọi người.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đấng Phục Sinh vinh hiển, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và củng cố niềm tin nơi chúng con, để chúng con luôn trung thành bước theo Chúa và can đảm làm chứng cho Ngài giữa thế giới hôm nay. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.



SCĐ CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

CHỦ ĐỀ

BÀI GIÁO LÝ I VỀ CUỘC SỐNG KITÔ HỮU
TIN YÊU VÀ GIỮ CÁC GIỚI RĂN


"Phúc cho những ai không thấy mà tin"
(Ga 20,29)

Sợi chỉ đỏ

- Bài đọc I (Cv 4,32-35) : các kitô hữu ở giáo đoàn Giêrusalem thực hiện giới răn yêu thương bằng việc chia xẻ : họ đã tự nguyện để của riêng thành của chung.

- Bài đọc II (1 Ga 5,1-6) : nếu tin thì yêu, và nếu yêu thì giữ các giới răn Chúa.

- Bài Tin Mừng (Ga 20,19-30) : 2 mức độ tin : tin vì thấy và tin dù không thấy.

Như thế, bài giáo lý I này nhấn mạnh 3 điểm : tin, yêu và giữ giới răn.

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ:

Mặc dù đã được tái sinh thành con Chúa qua bí tích Rửa tội, chúng ta vẫn còn rất yếu như một đưa trẻ sơ sinh. Chúng ta cần được nuôi dưỡng thêm  bằng Lời Chúa và bánh Thánh thể. Chúng ta cần được nâng đỡ bởi một cộng đoàn. Nhất là chúng ta cần được tác động bởi Chúa Thánh Thần. Ngày xưa Đức Giêsu phục sinh đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các tông đồ, thì hôm nay chúng ta cũng xin Ngài ban Thánh Thần cho chúng ta và nói với chúng ta "Bình an cho chúng con".

 II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Chúng ta còn ích kỷ, cần được Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta tình bác ái huynh đệ.

- Chúng ta còn hoài nghi, cần được Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta lòng tin tưởng cậy trông.

- Chúng ta còn yếu tin, cần được Chúa Thánh Thần giúp cho đức tin chúng ta vững mạnh thêm.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc I : Cv 4,32-35

Trong hai tác phẩm của mình là sách Tin Mừng và sách Công vụ, Thánh Luca thường viết những bảng toát yếu để thỉnh thoảng tóm lược lại những điểm chính của những đoạn mà Ngài đang viết. Trong phần thứ nhất của sách Công vụ (1,12—5,42) mô tả cách sống của các tín hữu trong giáo đoàn Giêrusalem tiên khởi, có 3 bảng toát yếu tóm lại những nét chính của cuộc sống này (2,42-47 ; 4,32-35 ; 5,12-16). Đoạn được chọn hôm nay là bảng toát yếu thứ hai. Ngoài những nét chung với 2 bảng toát yếu kia, nét riêng biệt của bảng này là việc để của riêng thành của chung :

- Đây không phải là một quy định có tính bó buộc (xem Cv 5,3-4 lời Phêrô nói với Khanania : "Khi đất còn đó, nó chẳng là của anh sao ? Bán đi rồi thì anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó sao ?"), nhưng là việc làm tự nguyện để thực thi cách cụ thể giới luật yêu thương, vì yêu thương không phải chỉ bằng tình cảm hay bằng lời mà còn phải bằng hành động cụ thể.

- Thể thức : các tín hữu bán những bất động sản như ruộng đất, nhà cửa rồi đem tiền giao cho Hội Thánh giữ. Hội thánh phân phối lại cho các tín hữu theo nhu cầu từng người. Như thế, có kẻ góp ít (hoặc không góp gì) mà được hưởng nhiều và có kẻ góp nhiều mà được hưởng ít. Nhưng không ai phân bì, vì họ đã ý thức việc chia xẻ cho nhau.

- Kết quả là trong giáo đoàn không có ai phải túng thiếu.

2. Đáp ca : Tv 117
(như Chúa nhật I Ps)

Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.

3. Bài Tin Mừng : Ga 20,19-30

Đoạn này tường thuật hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh với các tông đồ cách nhau 8 ngày :

- Trong lần hiện ra thứ nhất, Đức Giêsu cho các ông thấy tay và cạnh sườn Ngài (tức là thấy những vết thương Ngài đã chịu trong cuộc chịu nạn). Khi thấy những dấu chứng đó, các tông đồ đã tin rằng người đang ở trước mặt họ là Thầy họ nên họ vui mừng. Sau đó, Đức Giêsu ban Thánh Thần cho các ông và sai các ông đi (nhưng chưa nói là đi đâu và đi để làm gì). Nhưng lần đó không có mặt Tôma. Khi Tôma trở về và được các tông đồ kia thuật lại thì ông không tin. Ông đòi điều kiện là phải thấy (chẳng những thấy mà còn sờ) những thương tích của Đức Giêsu thì mới tin.

- 8 ngày sau, Đức Giêsu hiện ra lần thứ hai. Lần này có mặt Tôma. Đức Giêsu bảo riêng Tôma hãy đưa tay ông ra chạm trực tiếp vào các vết thương của Ngài. Nhưng khi đó Tôma không còn bảo lưu yêu cầu thấy của mình nữa. Ông tuyên xưng đức tin ngay. Ông gọi Đức Giêsu là "Chúa" và là "Thiên Chúa". Tôma đã vươn tới mức độ cao của đức tin : tin mà không cần thấy.

Như thế đoạn Tin Mừng này trình bày hai mức độ tin : mức độ thấp là tin vì thấy, nghĩa là tin dựa vào bằng chứng ; mức độ cao là tin mà không cần thấy, nghĩa là tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.

Đức Giêsu đánh giá mức độ thứ hai là cao hơn, và kêu gọi chúng ta – qua lời nói với Tôma - hãy cố vươn lên mức độ cao ấy : "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con tin. Nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin".

4. Bài đọc II : 1 Ga 5,1-6

Lý do khiến thánh Gioan viết bức thư này là để giúp tín hữu khỏi bị lây nhiễm những tư tưởng sai lệch của thuyết ngộ đạo.

Nói một cách rất tóm lược, thuyết ngộ đạo chủ trương rằng chỉ cần biết ("ngộ") thì được cứu độ. Đành rằng "biết" là một điều rất quan trọng (trong quyển Tin Mừng thứ tư, thánh Gioan cũng rất nhấn mạnh vào sự "biết" này), nhưng sai lầm của thuyết này là do quá đề cao sự "biết" nên bỏ đi hai điều khác cũng quan trọng không kém, đó là tin và yêu. Trong đoạn thư này, thánh Gioan lưu ý tín hữu về hai điều ấy :

- Tín hữu là người đã tin rằng Đức Giêsu là Kitô. Mà tin vào Đức Giêsu Kitô thì cũng phải yêu mến Đấng đã sinh ra Đức Giêsu Kitô, tức là Thiên Chúa.

- Mà làm sao để biết mình yêu mến Thiên Chúa ? Thưa là qua cách sống cụ thể là thực hành các giới răn của Ngài.

IV. GỢI Ý GIẢNG:

* 1. Hành trình của Tôma

Hành trình của Tôma đi qua ba giai đoạn : vắng mặt – hồ nghi – và tuyên xưng đức tin. Đó cũng là hành trình đức tin của kitô hữu chúng ta.

- Khi Đức Giêsu hiện ra lần thứ nhất, Tôma không có mặt, cho nên ông không tin. Ông đòi thấy bằng chứng rồi mới tin. Thế nhưng nếu có bằng chứng rồi thì đã là chuyện hiển nhiên, đâu còn phải là đức tin nữa. Đức tin không thuộc phạm vi khoa học hay lý luận, nên không dựa trên bằng chứng.

- Nhưng đức tin không phải là mù quáng. Tuy không đòi bằng chứng nhưng phải có lý do. Lý do để tin là lời làm chứng của những người có uy tín. Tôma chưa tin khi nghe lời thuật của các bạn, nhưng khi nghe lời của Đức Giêsu thì ông tin ngay. Sau này ông còn trở thành nhân chứng để cho nhiều người khác cùng tin nữa. Tin theo lời làm chứng của ai đó bao hàm một tình cảm với người đó : vì mình có tình cảm với người đó nên khi người ấy nói thì mình tin. Điều này làm nên giá trị của sự tin vào lời chứng, cho nên Đức Giêsu nói "Phúc cho kẻ không thấy mà tin".

- Lý do để tin còn là những dấu chỉ. Dấu chỉ Đức Giêsu cho Tôma là những thương tích của Ngài. Chỉ cần thấy những dấu chỉ ấy, ông không đòi đụng chạm và sờ mó nữa, ông tin ngay. Ngày nay chúng ta không thấy Chúa, nhưng chúng ta có những dấu chỉ Ngài ban, đó là các bí tích, các biến cố và gương sống quảng đại của các tín hữu nhiệt thành. Chính chúng ta cũng phải là những dấu chỉ cho người khác nhận biết Chúa.

* 2. Hạnh phúc của tín hữu Giêrusalem

Các tín hữu Giêrusalem đã thể hiện đức tin bằng việc chia xẻ, không phải chia xẻ những cái mình dư thừa mà chia xẻ chính tiền bạc và tài sản của mình. "Đồng tiền liền khúc ruột", chia xẻ tất cả tiền bạc của mình là chia xẻ chính sự sống của mình.

Kết quả của chia xẻ như thế là trong Hội Thánh không có ai bị túng thiếu và mọi người đều hạnh phúc.

Gương của các tín hữu Giêrusalem cho chúng ta hiểu được rằng : một đức tin sống động sẽ biến thành tình yêu. Và khi sống đức tin và tình yêu như thế thì người ta sẽ hạnh phúc, vì khi đó người ta sống sự sống của chính Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương và chia xẻ.

* 3. Dấu chỉ của yêu thương


Làm sao biết được người đó thực sự yêu thương ta ?

- Có phải vì người đó luôn quấn quít bên ta ? Chưa chắc.

- Có phải vì người đó thường tặng quà cho ta ? Chưa chắc.

- Có phải vì người đó đề nghị sống chung với ta ? Chưa chắc.

Người thương ta thật là người tế nhị biết ý của ta và luôn làm theo ý ta.

Đó là điều Thánh Gioan nói : "Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến Thiên Chúa, là chúng ta thực hành các giới răn của Ngài".

* 4. Phúc cho ai không thấy mà tin

Bài Tin Mừng này khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều.

Điều thứ nhất khiến tôi suy nghĩ là điều kiện mà Tôma đặt ra : "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin". Mặc dù xem ra Đức Giêsu không tán thành thái độ của Tôma, nhưng trong thâm tâm tôi, tôi vẫn tán thành, bởi vì đó là thái độ của người chín chắn, cẩn thận, không nhẹ dạ. Trong những giao tế xã hội, tôi vẫn giữ thái độ cẩn thận ấy. Chẳng hạn khi tôi đi mua hàng, tôi không thể chỉ dựa vào những lời quảng cáo của người bán hàng để rồi mau chóng tin theo mà bỏ tiền ra mua ngay một món hàng mà tôi chưa thử. Huống chi câu chuyện mà Tôma nghe các bạn thuật lại là một chuyện "động trời" chưa bao giờ xảy ra : một người chết sống lại ! Đòi hỏi phải kiểm nghiệm xong rồi mới tin là một đòi hỏi hợp lý.

Nhưng khi tôi tán thành với Tôma, phải chăng là tôi không tán thành với Đức Giêsu ? Ngài đòi tôi "không thấy mà tin". Phải chăng Ngài đòi hỏi một điều không hợp lý ?

Suy nghĩ thêm, tôi mới hiểu rằng Đức Giêsu không coi nhẹ sự hợp lý, nhưng Ngài đề cao sự hợp tình. Trong tương quan giữa những người yêu thương nhau, không nên cái gì cũng đối xử với nhau bằng lý, mà phải đối xử với nhau bằng tình. Thí dụ cha mẹ nói với đứa con rằng "Con đừng thọc tay vào ổ điện nhé, điện giật chết đấy !" Nếu đứa con không tin, đòi thử nghiệm xong rồi mới tin thì nó sẽ ra sao ? Nó phải tin cha mẹ chứ, vì nó biết cha mẹ yêu thương nó. Vì Đức Giêsu yêu tôi nên Ngài có quyền đòi hỏi cao hơn sự hợp lý, Ngài có quyền đòi hỏi sự hợp tình.

Tôi cũng suy nghĩ về chữ "Phúc" trong câu Đức Giêsu nói với Tôma : "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Đọc Tin Mừng theo Thánh Matthêu, tôi đã biết có tám mối phúc. Bây giờ tôi biết thêm mối phúc thứ chín nữa. Tại sao không thấy mà tin thì có phúc ? Tôi nghĩ rằng hạnh phúc thường đi đôi với tình yêu. Khi yêu ai thì người ta dễ tin vào người ấy. Tin thể hiện Yêu, và chính vì yêu nên hạnh phúc. Đến đây tôi khám phá một dây liên hệ giữa ba điều : Yêu – Tin – và Hạnh phúc.

Và kết luận tôi rút ra được từ bài Tin Mừng này là :

- Trong tương quan với những người không thân thiết lắm, tôi có thể cẩn thận đòi hỏi sự hợp lý.

- Nhưng trong tương quan với những người thân yêu, tôi phải cư xử sao cho hợp tình.

- Nhất là trong tương quan với Chúa, tôi phải tin Ngài để chứng tỏ là tôi yêu Ngài. Và nếu tôi tin yêu Ngài như thế thì tôi là người hạnh phúc.

* 5. Thấy bằng trái tim

Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện về vị tu sĩ Hồi Giáo Nasruddin như sau :

Một ngày nọ, nhà của thầy bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội trèo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng, vì mạng sống Thầy chỉ còn "ngàn cân treo sợi tóc". Họ liền căng một tấm thảm, giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn :

- Nhảy đi, Thầy nhảy xuống đi !

Thầy Nasruddin nói :

- Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò hề !

- Ôi, Thầy ơi ! Không phải trò đùa đâu, Thầy nhảy mau đi !

Thầy Nasruddin vẫn ngoan cố :

- Không ! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.

*
Tin là chấp nhận bấp bênh, là chấp nhận có thể bị lừa dối. Nhưng không thể sống mà không tin. Người ta không thể nói : "Có thấy mới tin". Trên đời này có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin. Chẳng ai thấy rõ lòng dạ con người, nhưng họ vẫn tin vào tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn, tình làng xóm… Người ta cũng không thể nói : "Tôi chỉ tin vào Chúa nếu có bằng chứng". Paul Misraki nói : "Nếu bạn chỉ đợi có bằng chứng mới tin, thì đức tin đã trở thành khoa học rồi".

Khủng hoảng lớn nhất của thế giới ngày nay là khủng hoảng niềm tin. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi hãy giữ vững niềm tin.

- Tin vào Thiên Chúa và tin vào con người.

- Tin vào thế giới do Người tạo nên.

- Tin vào cuộc đời mà Người gởi ta đến.

- Tin vào vẻ đẹp và hạnh phúc Người tặng ban.

"Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga.20,28). Người tín hữu Kitô là những người không thấy mà tin. Họ không thấy Chúa bằng con mắt thường, nhưng họ thấy Người bằng con mắt đức tin. Họ không thấy Chúa bằng giác quan, nhưng họ thấy Người với cả trái tim. Thiên Chúa muốn cho giác quan chúng ta ra tăm tối, để niềm tin được ăn rễ sâu trong Người.

Miguel de Unamuno viết : "Tôi tin vào Thiên Chúa như tin vào một người bạn, vì tôi cảm nhận được hơi thở tình yêu của Người, cảm nhận được bàn tay vô hình và khả giác của Người tác động đến tôi".

Nhà sinh vật học Jean Henry Fabre sau 87 năm khảo sát và suy tư đã phải thốt lên : "Tôi không thể nói rằng tôi tin vào Thiên Chúa, mà là tôi trông thấy Người". Thấy Chúa là Cha rất nhân từ hằng yêu thương chăm sóc con người, và thấy mọi người là anh em với nhau. Cha Michel Quoist có viết : "Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Người để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn vào trần gian với ánh mắt của Đức Kitô".

*
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thấy Chúa đi ngang qua cuộc đời chúng con, để chúng con tin Chúa đang sống động, hiện diện, thật gần, ngay bên cạnh chúng con, trong cuộc sống và trong người anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

 * 6. Mảnh suy tư

- Điều cốt yếu thường không nhìn thấy được.

- Thế giới hữu hình chỉ là một phần của thế giới rộng lớn hơn bao gồm nhiều điều vô hình.

- Nhiều khi thị giác, thính giác và xúc giác lại là trở ngại cho cảm xúc và suy nghĩ.

- Đôi khi cần phải tin thì mới thấy được.

- Tối quá người ta không thấy, nhưng sáng quá người ta cũng chẳng thấy.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế : Anh chị em thân mến, thánh Tôma đã đòi đụng chạm đến Đức Giêsu Phục sinh để có dấu hiệu chắc chắn nâng đỡ niêm tin của mình. Niềm tin của chúng ta cũng còn yếu kém lắm, chúng ta hãy sốt sắng nguyện xin :



1. Xin cho Hội thánh Chúa ngày nay / là những người chỉ gặp Đức Giêsu trong đức tin / luôn vững tin vào Chúa Phục sinh / để nâng đỡ niềm tin cho nhiều người khác.

2. Xin cho những người còn "cứng lòng tin" trên khắc thế giới / có được cơ hội gặp gỡ Đức Giêsu để dẹp bỏ thành kiến và mặc cảm / mà đón nhận tình thương cứu độ của Người.

3. Xin cho những người đang gặp khủng hoảng về đức tin / hoặc đánh mất niềm tin vì gặp nhiều gian nan thử thách / tìm được những người biết cảm thông và chia sẻ niềm tin cho họ.

4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta biết nêu gương sáng về đức tin cho nhau / bằng việc sống đức tin và truyền bá đức tin cho người khác.

Chủ tế  : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã phán rằng : "Phúc cho ai không thấy mà tin". Xin cho chúng con là những người không được thấy Chúa, cũng luôn vững vàng tin rằng Chúa đã sống lại và ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Chúa là đáng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. TRONG THÁNH LỄ

- Trước kinh Lạy Cha : Nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô, chúng ta đã trở thành con Thiên Chúa. Vậy chúng ta cũng hãy cùng với Ngài và trong Ngài dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha.

- Chúc bình an : Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã ban bình an cho các môn đệ. Giờ đây chúng ta cũng hãy chúc cho nhau được bình an.

VII.  GIẢI TÁN

Anh chị em hãy nhớ lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Chúa sai anh chị em đi, anh chị em hãy đi bình an.

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật II Phục Sinh (B) – Kính Lòng Thương Xót Chúa
Ch Nht 8 Tháng Tư, 2018
S v ca các môn đ và
Li chng ca Tông Đ Tôma
Ga 20:19-31 


1.  Li nguyn m đu

Ly Cha, Đng trong ngày ca Chúa đã t tu con cái Người đ ca tng Đng Trước Hết và là Sau Hết, Đng hng sng đã chiến thng s chết, xin ban cho chúng con sc mnh ca Chúa Thánh Thn, Đng đã chế ng được s d, đ làm trm tĩnh các s lo lng và do d ca chúng con, xin cho chúng con có th mnh dn đáp tr vi s vâng li và lòng yêu mến, đ ng tr trong vinh quang vi Đc Kitô.

Bài Đc
a) Chìa khóa dn đến bài đc:
Chúng ta đang đc trong quyn được gi là sách ca s sng li, trong đó chúng ta được cho biết, không hn theo mt th t hp lý, mt s s vic liên quan đến vic Đc Kitô Phc Sinh và các s tht chng minh điu đó. Theo sách Tin Mng th tư, nhng s vic đã được xy ra vào bui sáng (20:1-18) và bui ti ngày đu tiên sau ngày th by, và tám ngày sau đó, ti cùng mt đa đim và cùng ngày trong tun. Chúng ta đang đng trước mt biến c quan trng nht trong lch s loài người, mt biến c thách đ tng bn thân chúng ta. Thánh Phaolô tông đ đã nói: Nếu Đc Kitô đã không sng li thì vic rao truyn ca chúng ta tr thành vô ích và đc tin ca chúng ta cũng nên vô dng và chúng ta vn còn sng trong ti li (1Cr 15:14, 17), v tông đ đã không biết Đc Giêsu trước khi Người phc sinh, nhưng li là người sau này đã đi rao ging mt cách thiết tha trn c quãng đi ca ông. Chúa Giêsu được sai đi bi Chúa Cha. Và Chúa cũng sai chúng ta đi. S st sng ca chúng ta đ “đi xut phát t chiu sâu đc tin ca chúng ta vào Đng Đã Sng Li. Chúng ta có sn sàng đ nhn lãnh s y thác” ca Người và dâng hiến cuc đi chúng ta cho Nước Tri ca Người chưa? Đon Tin Mng này không ch nói v đc tin ca nhng k chưa thy (li chng ca Tôma), nhưng nó còn nói v s v được y thác cho Giáo Hi bi Đc Kitô.

b) Phân đon bài Tin Mng đ tr giúp cho bài đc:

Ga 20:19-20: Chúa hin ra vi các môn đ và cho các ông xem nhng vết thương
Ga 20:21-23: Ân sng Chúa Thánh Thn ban cho s v
Ga 20:24-26: Chúa hin ra đc bit vi ông Tôma tám ngày sau đó
Ga 20:27-29: Cuc đi thoi ca Chúa vi Tôma
Ga 20:30-31: Mc đích ca bài Phúc Âm theo thánh Gioan

c) Phúc Âm:

19 Vào bui chiu ngày th nht trong tun, nhng ca nhà các môn đ hp đu đóng kín, vì s người Do Thái, Chúa Giêsu hin đến, đng gia các ông và nói: Bình an cho các con20 Khi nói điu đó, Người cho các ông xem tay và cnh sườn Người. By gi các môn đ vui mng vì xem thy Chúa. 21 Chúa Giêsu li phán bo các ông rng: Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thy, Thy cũng sai các con22 Nói thế ri, Người thi hơi và phán bo các ông: Các con hãy nhn ly Thánh Thn, 23các con tha ti ai, thì ti người y được tha. Các con cm ti ai, thì ti người y b cm li.
24 By gi trong mười hai tông đ, có ông Tôma gi là Điđymô, không cùng vi các ông, khi Chúa Giêsu hin đến. 25 Các môn đ khác đã nói vi ông rng: Chúng tôi đã xem thy Chúa. Nhưng ông đã nói vi các ông kia rng: Nếu tôi không nhìn thy vết đinh tay Người, nếu tôi không thc ngón tay vào l đinh, nếu tôi không thc bàn tay vào cnh sườn Người, thì tôi không tin.
26 Tám ngày sau, các môn đ li hp nhau trong nhà và có Tôma vi các ông. Trong khi các ca vn đóng kín, Chúa Giêsu hin đến đng gia mà phán: “Bình an cho các con”. 27 Đon Người nói vi Tôma: Hãy x ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thy; hãy đưa bàn tay con ra và x vào cnh sườn Thy; ch cng lòng, nhưng hãy tin28 Tôma thưa rng: Ly Chúa tôi, ly Thiên Chúa ca tôi! 29 Chúa Giêsu nói vi ông: Tôma, vì con đã xem thy Thy, nên con đã tin. Phúc cho nhng ai đã không thy mà tin.
30 Chúa Giêsu còn làm nhiu phép l khác trước mt các môn đ, và không có ghi chép trong sách này; 31 nhưng các điu này đã được ghi chép đ anh em tin rng Chúa Giêsu là Đng Kitô, Con Thiên Chúa, và đ anh em tin mà được sng nh danh Người.

3.  Giây phút cu nguyn trong thinh lng

Đ cho Li Chúa được thm nhp vào tâm hn chúng ta

4.  Suy Nim

a) Mt vài câu hi gi ý đ giúp cho s suy nim ca chúng ta:

Người nào hoc điu gì trong bài Tin Mng đã to s chú ý và thích thú cho tôi? Có th nào mt người t nhn là Kitô hu mà li chưa tin vào s Phc Sinh ca Chúa Giêsu được chăng? Vic tin vào s phc sinh tht là quan trng đến mc như thế ư? Điu gì s b thay đi nếu chúng ta không còn rao ging Li Chúa và không tiếp tc làm chng nhân ca cuc sng? Ân sng ca Chúa Thánh Thn cho s v có ý nghĩa gì đi vi tôi? S v ca Đc Giêsu trên thế gian được tiếp tc như thế nào sau khi Chúa Phc Sinh? Ni dung ca bn công b s v truyn giáo là gì? Vic làm chng ca ông Tôma mang mt giá tr gì đi vi tôi? Tôi có s nghi ng nào v tín lý không? Nếu có, đó là nhng điu gì? Tôi s gii quyết và vượt qua nhng nghi ngi y bng cách nào? Tôi có kh năng bin minh cho đc tin ca tôi không?

b) Dn gii:


Vào bui chiu cùng ngày, ngày th nht trong tun: Các môn đ đang tri qua mt ngày đc bit. Đi vi cng đoàn, vào lúc quyn Tin Mng th tư được viết, ngày sau ngày Sabát đã là “ngày ca Chúa (Kh 1:10), Chúa Nht (Dies Domini), và nó còn quan trng hơn c ngày Sabbát trong truyn thng ca người Do Thái.
Nhng ca nhà các môn đ đu đóng kín: Mt chi tiết cho thy rng thân th ca Đc Giêsu phc sinh, dù rng vn có th nhn ra, đã không b chi phi bi các điu kin vt lý như người phàm.
Bình an cho các con: Đây không phi là mt li ước nguyn, nhưng đó chính là s bình an thc s đã được ha hn vi các ông khi các ông bun ru vì cái chết ca Chúa (Ga 14:27; 2Tx 3:16; Rm 5:3), s bình an cu chuc, s viên mãn nhng li ha bi Thiên Chúa, gii thoát khi tt c mi s hãi, chiến thng ti li và cõi chết, giao hòa vi Thiên Chúa, hoa trái cuc kh nn ca Người, tng phm cho không t Thiên Chúa. S bình an này được lp li ba ln trong đon Kinh Thánh này cũng như trong phn dn nhp (20:19) và tiếp theo sau đó (20:26) trong cùng mt th cách.
Người cho các ông xem tay và cnh sườn Người: Chúa Giêsu cho thy bng chng hin nhiên và rõ ràng rng chính Người là k đã b đóng đinh vào thp giá. Ch có Gioan đã ghi li chi tiết v vết thương nơi cnh sườn Người là do ngn giáo ca mt tên lính La-mã đâm vào, trong khi y Phúc Âm ca Luca li nhc đến vết thương nơi chân (Lc 24:39). Khi cho các môn đ xem các vết thương, Chúa Giêsu mun nói rng s bình an mà Người ban tng cho các ông đến t cây thp giá (2Tm 2:1-13). Nhng vết thương này là mt phn căn tính ca Người như Đng Đã Sng Li T Cõi Chết (Kh 5:6).
Các môn đ vui mng vì xem thy Chúa: Nim vui mng này ging như nim vui mng được din t bi tiên tri Isaia khi ông din t v ba tic thiêng liêng (Is 25:8-9), ni vui ngày tn thế đã được báo trước trong li t bit và rng không ai có th ct đi được (Ga 16:22, 20:27). (Xin xem thêm Lc 24:39-40; Mt 28:8; Lc 24:41).
Như Cha đã sai Thy, Thy cũng sai các con: Chúa Giêsu là người truyn giáo đu tiên, chúng tôi xác nhn là tông đ và v linh mc thượng tế ca đc tin (Kh 3:1). Sau khi tri qua kinh nghim ca thp giá và s phc sinh, li cu nguyn ca Chúa Giêsu cùng Chúa Cha đã tr thành s tht (Ga 13:20; 17:18; 21:15, 17). Đây không phi là mt s v mi, nhưng đó là s v ca Đc Giêsu m rng đến nhng người là môn đ ca Chúa, gn lin vi Người như các cành nho gn lin vi cây nho (15:9), vì thế các môn đ cũng gn lin vi Giáo Hi ca Người (Mt 28:18-20; Mc 16:15-18; Lc 24:47-49). Con Thiên Chúa hng sng đã được sai đến thế gian đ thế gian, nh Con ca Người, mà được cu đ (Ga 3:17) và tt c s hin din ca Người trên thế gian, được gn bó vi ý đnh cu chuc ca Chúa Cha, là s hin din liên tc ca thánh ý Chúa đ cho tt c được cu ri. Người lưu li như mt di sn cuc cu chuc lch s này cho toàn th Giáo Hi và, nht là nhng người đã được tuyn chn trong Giáo Hi.
Người thi hơi vào các môn đ: C ch này gi nh li vic Thiên Chúa đã thi hơi ban sc sng vào con người (St 2:7), vic này đã không thy nhc đến mt nơi nào khác trong Tân Ước. Nó đánh du cho s khi đu ca mt cuc tác to mi.
Hãy nhn ly Thánh Thn: Sau khi Đc Giêsu đã được tôn vinh, Thn Khí Chúa s được trao ban (Ga 7:39). đây Thn Khí được truyn đến cho mt s v đc bit, trong ngày L Ngũ Tun (Cv 2) Chúa Thánh Linh hin xung trên toàn th dân Thiên Chúa.
Các con tha ti ai, thì ti người y được tha. Các con cm ti ai, thì ti người y b cm li: Chúng ta cũng có th tìm thy quyn năng ca vic tha ti hoc không tha ti trong Phúc Âm ca thánh Mátthêu dưới mt hình thc có v pháp lý hơn (Mt 16:19; 18:18). Theo nhng người Lut Sĩ và Bit Phái (Mc 2:7), và theo truyn thng (Is 43:25), ch có Thiên Chúa là đng có quyn tha ti. Chúa Giêsu có quyn này (Lc 5:24) và Người truyn li cho Giáo Hi Người. Trong lúc suy nim, tt hơn hết là chúng ta không nên vướng bn vi li văn ca s phát trin v thn hc trong truyn thng giáo hi và nhng cuc tranh cãi v thn hc sau đó. Trong quyn Tin Mng th tư, s din đt có th được hiu theo mt ý nghĩa rng. đây nó là vn đ v quyn tha ti trong Giáo Hi như là cng đoàn cu ri và mt cách đc bit cho nhng ai đã được tuyn chn vi quyn năng này là nhng người chia s trong các đc sng qua s tha kế và s v tông đ. Trong quyn năng tng quát này được bao gm c quyn tha ti sau khi đã ra ti, mà chúng ta gi là bí tích hòa gii được nhc đến qua nhiu hình thc khác nhau trong sut chiu dài lch s ca Giáo Hi.
By gi trong nhóm Mười Hai tông đ, có ông Tôma gi là Điđymô: Ông Tôma là mt trong nhng nhân vt chính trong quyn Phúc Âm th tư và đc tính đa nghi ca ông, d b hoang mang nn lòng, đã được làm ni bt (11:16; 14:5). Mt môn đ trong Nhóm Mười Hai vào by gi là mt li nói khuôn sáo (6:71), bi vì tht ra h ch còn li mười mt người. “Điđymô” có nghĩa là “Sinh Đôi”, và chúng ta có th cũng là anh em song sinh ca ông bi vì s cng lòng tin ca chúng ta vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đng đã chết và đã sng li.
Chúng tôi đã xem thy Chúa! Khi các ông Anrê, Gioan, và Philípphê đã gp được Đng Cu Thế, h lin chy đi loan báo cho các người khác (Ga 1:41-45). Bây gi li có li tuyên b chính thc bi nhng người chng tn mt (Ga 20:18).
Nếu tôi không nhìn thy vết đinh tay Người, nếu tôi không thc ngón tay vào l đinh, nếu tôi không thc bàn tay vào cnh sườn Người, thì tôi không tin: Ông Tôma không tin li nhng người chng. Ông mun chính mình chng kiến tn mt. Quyn Tin Mng th tư ý thc v s khó khăn rng có mt s người có th có lòng hoài nghi v vic Chúa Phc Sinh (Lc 24:34-40; Mc 16:11; 1Cr 15:5-8), nht là nhng k chưa được gp Đng Đã Sng Li. Tôma là người din đt cho h (và cho c chúng ta). Ông đã sn sàng đ tin, nhưng ông mun làm sáng t tt c nhng hoài nghi riêng trong lòng, vì lo rng s b sai lm. Chúa Giêsu đã không nhìn Tôma như mt người theo ch nghĩa hoài nghi, mà xem ông như mt người mun đi tìm s tht và mong mun được đáp ng trn vn. Tuy nhiên, đây là mt dp đ th hin mt s cm kích các tín hu tương lai (Câu 29).
Hãy x ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thy. Hãy đưa bàn tay con ra và x vào cnh sườn Thy. Ch cng lòng, nhưng hãy tin! Chúa Giêsu lp li nhng li ca Tôma và bt đu cuc đi thoi vi ông. Người hiu lòng hoài nghi và các ước mun ca Tôma nên giúp ông. Chúa Giêsu biết rng Tôma yêu mến Chúa và vì vy Người đng lòng trc n vì Tôma chưa tn hưởng được s bình an đến t đc tin. Chúa Giêsu giúp ông ln lên trong đc tin. Đ đi sâu hơn vào trong ch đ này, chúng ta có th đc thêm: 1Ga 1-2; Tv 78:38; 103:13-14; Rm 5:20; 1Tm 1:14-16.
Ly Chúa tôi, ly Thiên Chúa ca tôi!: Đây là li tuyên xưng đc tin vào Đng Đã Sng Li và vào thiên tính ca Người như đã được công b chương đu ca Phúc Âm theo thánh Gioan (1:1). Trong Cu Ước, nhng ch Chúa và Thiên Chúa được tương ng vi các ch Giavê” và Elohim (Tv 35:23-24; Kh 4:11). Đây là li tuyên xưng đc tin vào bn tính Thiên Chúa ca Đc Giêsu Phc Sinh mt cách đy đ và trc tiếp nht. Đi vi nhng người Do Thái, các t ng này mang mt ý nghĩa giá tr hơn vì h đã dùng trong các văn bn v Chúa Giêsu liên quan đến bn tính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã không chnh sa nhng li ca Tôma như Người đã hiu chnh nhng li mà các người Do Thái đã dùng đ buc ti Người là đã mong mun được bng Thiên Chúa (Ga 5:18 và các câu tiếp theo); do đó Chúa đã xác nhn vic mang bn tính Thiên Chúa ca Người.
Tôma, vì con đã xem thy Thy, nên con đã tin. Phúc cho nhng ai đã không thy mà tin! Chúa Giêsu không th tha th cho nhng k ch biết đi tìm nhng du l và đim thiêng đ mà tin (Ga 4:48) và Người đã dùng ông Tôma đ chnh đn vic y. đây chúng ta nên nh đến mt đon Phúc Âm khác nói v mt đc tin chân chính hơn, mt phương cách hoàn ho hướng v mt đc tin mà chúng ta phi khao khát nhưng không có các điu đòi hi ca Tôma, mt đc tin được nhn lãnh như mt món quà tng và như là mt hành đng ca lòng tin, ging như gương đc tin ca cha ông chúng ta (Kh 11) và ca Đc Maria (Lc 1:45). Chúng ta, nhng người sng sau Chúa Giêsu hai ngàn năm, đã được bo cho biết v Người, dù rng chúng ta chưa h gp Người, nhưng chúng ta vn có th yêu mến và tin tưởng vào Người đ chúng ta có th chan cha vi mt nim vui vinh quang và rc r khôn t (1Pr 1:8).
Các điu đã được ghi chép đ anh em tin rng Chúa Giêsu là Đng Kitô, Con Thiên Chúa, và đ anh em tin mà được sng nh danh Người: Sách Phúc Âm th tư, cũng như các sách Phúc Âm khác, không là phương tin đ viết mt cun tiu s đy đ v Chúa Giêsu, nhưng ch đ cho chúng ta biết là Chúa Giêsu là Đng Cu Thế, Đng Mêssia đang được mong đi, Đng Gii Thoát, và Người chính là Con Thiên Chúa. Tin tưởng vào Người có nghĩa là chúng ta có s sng đi đi. Nếu Đc Giêsu không phi là Thiên Chúa, thì đc tin ca chúng ta tr nên vô ích!

5.  Cu Nguyn

Thánh Vnh 118 (117)

Hãy t ơn Chúa vì Chúa nhân t;
Muôn ngàn đ
i Chúa vn trn tình thương!
Israel hãy nói lên r
ng:
“Muôn ngàn đ
i Chúa vn trn tình thương.
Nhà Aaron hãy nói lên r
ng:
“Muôn ngàn đ
i Chúa vn trn tình thương.
Ai kính s
CHÚA hãy nói lên rng:
“Muôn ngàn đ
i Chúa vn trn tình thương.
Chúng xô đy tôi, xô cho tôi ngã,
nh
ưng Chúa đã phù tr thân này.
Chúa là s
c mnh tôi, là Đng tôi ca ngi;
chính Ng
ười cu đ tôi.
Kìa nghe ti
ếng reo mng chiến thng trong doanh tri chính nhân:
Tng đá mà người th xây loi b
l
i tr nên tng đá chính góc tường.
Đó chính là công trình c
a Chúa;
công trình kỳ di
u trước mt chúng ta.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui m
ng hoan h.
L
y Chúa, xin ban ơn cu đ, ly Chúa!
Ôi l
y Chúa, xin thương giúp thành công.
6.  Chiêm Nim

Li nguyn kết

Ly Chúa Giêsu, con xin cm t Chúa, Chúa là Chúa ca con và là Thiên Chúa ca con, Chúa đã yêu thương con và đã ct tiếng gi con, Người đã ct nhc con tr thành môn đ Chúa. Chúa đã ban cho con Thn Khí Chúa, Đng được sai đến, đ con ra đi công b và làm chng cho s phc sinh ca Chúa, v lòng t ái ca Chúa Cha, đ cho mi người trên thế gii được nhn lãnh ơn cu đ. Chúa chính là đường, là s tht và là s sng, Chúa là ánh bình minh không bao gi xế tà, là vng thái dương ca công lý và hòa bình. Xin Chúa hãy ban cho con được cư ng trong tình yêu ca Chúa, xin ràng buc con vào Chúa như cành nho gn lin vi cây nho. Xin Chúa hãy ban cho con s bình an ca Chúa đ con có th khc phc được nhng yếu đui ca con, đi din vi nhng nghi ngi ca con và mnh dn bước theo ơn gi ca Chúa và đ con sng trn vn vi nhim v Chúa đã giao phó cho con, ca tng Chúa đến muôn đi. Chúa là đng hng sng, hng tr muôn đi. Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét