16/12/2018
Chúa Nhật tuần 3
Mùa Vọng năm C
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật III Mùa Vọng
- năm C
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM C
(Xp 3,14-18a; Pl 4,4-7; Lc 3,10-18)
(Xp 3,14-18a; Pl 4,4-7; Lc 3,10-18)
NIỀM VUI THÚC ĐẨY HÀNH ĐỘNG
“Hãy vui lên… vì Chúa đã gần đến” (Pl 4,5)
Lễ phục màu hồng của phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là dấu
chỉ cho thấy Mùa Vọng ngầm chứa và hướng về niềm vui, vì Thiên Chúa đã gần đến
để cứu chúng ta, như được diễn tả trong các bài đọc: “Hãy vui lên”. Tuy nhiên,
để có được niềm vui đó, chúng ta cần có một cuộc hoán cải nội tâm, biến con người
cũ thành con người mới.
I. CÁC
BÀI ĐỌC
1. Bài
đoc I (Xp 3,14-18a)
Ngôn sứ Xôphônia xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 7 tCN
ở Vương Quốc Giuđa (phía Nam Israel). Vào thời đó, đời sống của dân Do-thái bị
suy đồi về luân lý bên trong, ngoại bang xâm lăng bên ngoài. Đời sống của toàn
dân nằm trong tình trạng bi thảm, tồi tệ. Trong tình cảnh đó, ngôn sứ Xôphônia
loan báo “Hãy hoan hỉ, hãy cất tiếng ca, hãy hân hoan, hãy nhảy mừng…”.
Các tâm tình đầy vui tươi phấn khởi này đã được vị
Ngôn Sứ gửi tới cho thiếu nữ Sion, tức thành Giêrualem cũng như cho nhà Israel
để trấn an họ rằng Đừng sợ! Chúa là Thiên Chúa, Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi,
chính Người cứu thoát ngươi. Người yêu thương ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ sung sướng
reo mừng. Người sẽ quy tụ các con cái hư hỏng của ngươi lại.
Sứ điệp này diễn tả niềm vui hai chiều: niềm vui của
toàn dân Israel vì họ sắp được cứu thoát. Đó cũng là niềm vui của chính Thiên
Chúa vì Người muốn dân hoán cái, thay đổi đời sống để Người ra tay hành động hầu
bảo vệ và chở che cho Dân riêng của Người.
2. Bài
đọc II (Pl 4,4-7)
“Hãy vui lên” là lời mời gọi tha thiết được thánh
Phaolô gửi tới cho cộng đoàn Kitô hữu ở Philipphê. Lý do chính của niềm vui này
chính là vì “Chúa đã gần đến”. Tuy nhiên, niềm vui này không đơn giản chỉ là một
cảm xúc mau qua, nhưng là hoa trái của một nỗ lực sống đức tin được thể hiện
qua các chiều kích khác nhau trong viễn ảnh hướng về ngày Chúa đến.
Về mặt xã hội: sống sao cho mọi người thấy anh em sống
hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến.
Về đời sống thường nhật: đừng lo lắng gì cả,
nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn,
mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện.
Về đời sống đạo: để cho bình an của Thiên Chúa là
bình an vượt lên trên mọi hiểu biết giữ cho lòng trí anh em được kết
hợp với Đức Kitô Giêsu.
3. Bài
Tin Mừng (Lc 3,10-18)
Trong thời gian dân chúng đang mong đợi Đấng Mêsia,
Gioan Tẩy giả đã xuất hiện để kêu gọi mọi người lãnh nhận Phép Rửa tỏ lòng sám
hối để cầu ơn tha tội (Lc 3,3). Như thế, Phép Rửa của Gioan chính
là dấu chỉ hữu hình của thái độ hoán cải thay đổi đời sống.
Thái độ hoán cải được diễn tả qua thao thức “chúng
tôi phải làm gì?” Đây không chỉ đơn thuần là những thao thức muốn thay đổi bên
ngoài nhưng là muốn biến đổi nội tâm. Câu trả lời của Gioan Tiền Hô cho thao thức
này không chỉ là một lời mời gọi hay lời khuyên chung chung, nhưng là những đề
nghị và quyết tâm cụ thể tùy thuộc vào hoàn cảnh của từng người. Với dân chúng
là sự chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì
ăn, thì cũng làm như vậy”. Với người thu thuế là an vui với hiện tại:
“Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”. Với binh lính là không
áp bức hà hiếp: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng
lòng với đồng lương của mình”.
Chính nỗ lực hoán cải không ngừng đã làm cho thời
gian đợi chờ của người Do-thái mang một sắc thái tích cực và như thế niềm vui
không chỉ đến với họ khi Đấng Mêsia xuất hiện, nhưng đã thực sự bắt đầu ngay từ
những nỗ lực hoán cải, thay đổi đời sống theo hướng tích cực, tùy theo bối cảnh
sống của họ hằng ngày.
II. GỢI
Ý MỤC VỤ
1. Hãy nức lòng phấn khởi. Án lệnh phạt
ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa… Vì ngươi,
Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Dân
chúng thời Ngôn sứ Xôphônia vui mừng vì biết rằng Thiên Chúa sắp đến giải thoát
họ, nhưng đâu là lý do làm Thiên Chúa lại phải giải thoát họ? Xôphônia không ngần
ngại khẳng định rằng: Thiên Chúa hân hoan vui mừng vì yêu Dân người. Như thế,
niềm vui của con người xuất phát từ niềm xác tín Thiên Chúa luôn yêu thương
mình, nên Người sẽ làm cho tâm hồn con người luôn ngập tràn niềm vui và hy vọng,
mặc cho những bất ổn hay biến động của thời cuộc ngày đêm ập đến như hòng muốn
cướp mất đi niềm vui của con người.
2. Vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy
anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến. Một trong đòi hỏi hàng
đầu đi kèm với lời mời gọi “Hãy vui lên” chính là đời sống đức tin trong tương
quan với Thiên Chúa trong niềm mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô ngự đến. Các nỗ lực
hoán cải bản thân, những dấn thân trong việc thực thi bác ái sẽ chẳng mang lại
một giá trị vĩnh cửu nào trước nhan Chúa nếu chúng không được đặt trên nền tảng
của một đời sống đức tin. Thành tâm trình bày những ước vọng của mình lên Chúa,
gói ghém cả tấm lòng vào những câu kinh lời nguyện như làn hương trầm tỏa bay
lên trước tôn nhan Chúa… Tất cả những tâm tình thực hành tôn giáo này sẽ quyện
vào nhau khiến cho mọi hoạt động trong đời sống Kitô hữu có được một định hướng
đúng đắn và biểu lộ niềm vui chờ ngày được hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa.
3. “Chúng tôi phải làm gì?” là câu
hỏi mà người môn đệ Chúa Kitô hoặc mỗi Kitô hữu phải đặt ra cho mình. Ông Gioan
Tiền Hô đã gợi ý ba điều: - một cuộc sống biết không ngừng chia sẻ; - một thái
độ biết an vui với cuộc sống hiện có; - một nỗ lực không để cho bạo lực và giả
dối thống trị thế giới này. Ba điều này vừa chung nhưng cũng áp dụng riêng cho
từng đối tượng tùy theo hoàn cảnh riêng của mình. Nếu tôi đến với ông Gioan Tiền
Hô, tôi sẽ nhận được đề nghị nào, và từ đó có những quyết tâm cụ thể nào tùy
thuộc vào hoàn cảnh của riêng tôi, để giúp tôi thay đổi đời sống hầu đón Chúa đến?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ
tế: Anh chị em thân mến! Thánh
Phaolô đã mời gọi: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa.” Niềm vui trong Chúa phải
thúc đẩy những hành động cụ thể trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô ngự đến. Với niềm
hân hoan tin tưởng, cộng đoàn chúng ta cùng tha thiết dâng lên Thiên Chúa lời cầu
xin:
1. Cầu cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, các Đức Giám mục
và hàng giáo sĩ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa là nguồn sức mạnh và chỗ nghỉ ngơi
cho những ai vất vả mệt nhọc, ban cho các ngài luôn có đủ nghị lực và lòng nhiệt
thành để hướng dẫn đàn chiên của Chúa.
2. Cầu cho các dân tộc trên thế giới. Chúng ta cùng
cầu xin Chúa là nguồn vui và hạnh phúc của nhân loại, ban cho các dân tộc trên
thế giới được vui sống trong bình an và tình huynh đệ, cho nhà cầm quyền các quốc
gia biết tôn trọng sự thật và thực thi công lý.
3. Cầu cho những người nghèo khổ thiếu thốn. Chúng
ta cùng cầu xin Chúa là Vua Tình Thương soi lòng các Kitô hữu để họ luôn biết nỗ
lực sống tinh thần bác ái phục vụ, giúp những người thiếu thốn hay kém may mắn
cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa.
4. Cầu cho cộng đoàn đang hân hoan chờ mong Chúa đến.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban Thánh Thần cho mọi người trong cộng đoàn chúng
ta, để Người liên kết và dẫn đường chỉ lối giúp chúng ta biết tìm đến nguồn an
vui đích thực là Ðức Kitô, Ðấng cứu độ trần gian.
Chủ
tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng,
Chúa đã sai Con Một đến trần gian để giải thoát và ban ơn cứu độ cho nhân loại.
Xin nhận lời chúng con cầu nguyện, ban ơn thanh tẩy và thánh hóa tâm hồn, để
chúng con xứng đáng đón nhận ơn cứu độ mà Con Chúa ban tặng. Người hằng sống và
hiển trị muôn đời.
SCĐ CHÚA NHỰT III VỌNG C
Chủ đề :
Hãy vui mừng vì Chúa sắp đến
“Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”
(Lc 3,16)
Sợi chỉ
đỏ :
Lời
Chúa trong các Chúa nhật thứ III Mùa Vọng năm nào cũng kêu gọi hãy vui mừng vì
Chúa sắp đến.
–
Trong bài đọc I (Xp 3,14-18), ngôn sứ Xôphônia kêu gọi “thiếu nữ Sion”, tức là
dân Chúa, hãy vui mừng vì Thiên Chúa đang ngự đến giữa họ.
–
Trong bài Tin Mừng (Lc 3,10-18), Gioan tẩy giả chỉ cho người ta những điều cụ
thể phải làm để khi Chúa đến họ có thể thoát khỏi sự trừng phạt và vui hưởng những
ơn lành của Ngài.
– Và
trong bài đọc II (Pl 4,4-7), thánh Phaolô lặp đi lặp lại lời hô hào hãy vui
lên, vì Chúa đã gần đến.
I. Dẫn
vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Chúa
nhật thứ III Mùa vọng này thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Lời kêu gọi
“hãy vui lên” được lặp đi lặp lại trong các bài đọc. Chúng ta vui vì Chúa đã đến
gần. Nhất là khi chúng ta họp nhau trong Thánh lễ thì Chúa rất gần. Ngài đang
hiện diện giữa cộng đoàn chúng ta.
II. Gợi
ý sám hối
– Mặc
dù Chúa đã bảo chúng ta đừng lo, nhưng vì thiếu lòng trông cậy và phó thác nên
chúng ta cứ băn khoăn lo lắng về cuộc sống vật chất ở trần gian này.
–
Chúng ta chưa thực sự thấm nhuần tinh thần lạc quan của Tin Mừng nên chúng ta
chưa tỏa chiếu niềm vui ra môi trường chung quanh.
– Khi
cầu nguyện, thường chúng ta hay trình bày với Chúa những băn khoăn lo lắng phàm
tục, rất ít khi chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa vì tình thương bao la của Ngài
dành cho chúng ta.
III.
Lời Chúa
1.
Bài
đọc I (Xp 3,14-18)
Ngôn
sứ Xôphônia rao giảng trong thế kỷ VII trước công nguyên, vào những năm trước
khi vua Giosias thực hiện cuộc cải cách tôn giáo.
Khi
đó nước Do thái đang ở trong một tình trạng tồi tệ : bên trong thì đạo đức
suy dồi, bên ngoài thì họa xâm lăng đang rình sẵn. Mặc dù vậy, Xôphônia vẫn kêu
gọi dân chúng hãy vui lên, lý do là “Án lệnh phạt ngươi Thiên Chúa đã rút lại,
và thù địch của ngươi Ngài đã đẩy lùi xa”.
2.
Đáp
ca (Tv Is 12)
Thánh
vịnh này triển khai tâm tình lạc quan của bài đọc I : Lý do khiến dân Sion
lạc quan là vì Thiên Chúa chính là sức mạnh và là Đấng cứu độ họ.
3.
Tin
Mừng (Lc 3,10-18)
Khi
“dọn đường” tâm hồn cho các thính giả nghe Gioan giảng, ông đã nói “Hãy sám hối”.
Người ta hỏi lại “Vậy chúng tôi phải làm gì ?”. Và Gioan đã chỉ cho họ những
việc cụ thể phù hợp với tình trạng cuộc sống của họ :
– Người
có thì hãy chia sớt cho kẻ không có.
– Người
đang sống bằng những thu nhập bất công thì hãy cố gắng sống công bình.
– Kẻ
đang áp bức người khác thì chấm dứt những việc làm hà hiếp của mình.
Gioan
còn khiêm tốn phủ nhận những dư luận coi ông là chính Đấng Messia, và giới thiệu
Đấng Messia thật cho họ biết.
4.
Bài
đọc II (Pl 4,4-7)
Thánh
Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy vui và vui luôn mãi trong niềm vui của
Chúa. Niềm vui này không chỉ là một tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ
thể trong cuộc sống : (1) sống hiền hòa rộng rãi với mọi người ; (2)
Không phải lo lắng gì cả, vì có gì thì cứ trình bày với Chúa ; (3) Lòng
trí luôn được bình an.
IV. Gợi
ý giảng
*
1. Bí quyết hạnh phúc
Lời
Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy vui luôn. Nhưng làm thế nào để có thể vui
luôn ? Câu chuyện sau đây có thể cho ta câu trả lời.
Một
người chăn cừu sai đứa con trai của mình đến hỏi một nhà hiền triết về bí quyết
của hạnh phúc. Nhà hiền triết đưa cho chàng trai một chiếc muỗng đựng đầy dầu
và bảo : “Hãy cầm chiếc muỗng đi vòng quanh tòa lâu đài này và cố làm sao
đừng cho một giọt dầu nào bị đổ”.
Chàng
trai nghe lời, đi vòng quanh tòa lâu đài, đôi mắt chẳng dám nhìn bất cứ thứ gì khác
mà chỉ dán chặt vào chiếc muỗng. Khi chàng trở lại, nhà hiền triết hỏi “Có thấy
gì không ?”. Chàng trai đáp “Dạ chẳng thấy gì cả”. Nhà hiền triết lại bảo
“Bây giờ hãy đi một vòng nữa và hãy mở mắt quan sát tòa lâu đài”. Chàng trai lại
cầm chiếc muỗng đi một vòng. Lần này chàng chăm chú ngắm nhìn từng chi tiết của
tòa lâu đài : những gian phòng rất đẹp, những món trang trí rất mỹ thuật,
khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, những vòi nước rất ngoạn mục… Khi trở lại, chàng kể
hết cho nhà hiền triết nghe. Ông hỏi : “Thế những giọt dầu ta giao cho
ngươi thì sao ?” Chàng nhìn xuống chiếc muỗng. Ôi thôi, dầu đã đổ hết chẳng
còn giọt nào.
Bấy
giờ nhà hiền triết nói : “Ta chỉ có một lời khuyên nhỏ cho ngươi : bí
quyết của hạnh phúc là khả năng vừa ngắm được mọi vẻ đẹp của tòa lâu đài, vừa
không làm đổ mất một giọt dầu nào trong muỗng”. Chàng trai trẻ chợt hiểu :
người chăn cừu có thể du ngoạn để ngắm nhìn những vẻ đẹp khắp nơi, nhưng không
bao giờ được quên đàn cừu của mình. Bí quyết hạnh phúc là vừa chu toàn nhiệm vụ
được giao cho mình, vừa vui hưởng cuộc sống.
Thật
dễ có hạnh phúc khi ta làm điều ta muốn làm. Nhưng để tìm được hạnh phúc không
phải trong điều ta muốn làm mà trong điều ta phải làm thì phải có ơn Chúa.
Hạnh
phúc thật không do thỏa mãn được những ước muốn ích kỷ của mình. Hạnh phúc thật
không thể có khi những điều ta làm lại khác với những điều ta tin. Hạnh phúc thật
không thể có khi không có tình yêu. Bởi vậy nỗi buồn sẽ ập xuống trên ta mỗi
khi ta trả lời “không” với tình yêu.
Chúng
ta cũng không nên đồng hóa vui và sướng. Sướng thuộc về thể xác, còn vui thuộc
về tinh thần. Sướng chẳng bao lâu rồi cũng sẽ chán, còn vui thì không bao giờ
chán.
Điểm
cuối cùng : chỉ có Chúa mới đong đầy mọi mơ ước của chúng ta, do đó nguồn
phát sinh hạnh phúc chính là sự hiện diện của Chúa. Có Chúa trong đời ta thì đời
ta sẽ vui. Ngôn sứ Isaia kêu gọi “Hãy vui lên”. Nhưng tại sao vui ? Thưa
vì “Có Chúa ở giữa chúng ta”. và Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê “Tôi
muốn anh em hãy vui luôn”. Tại sao ? Thưa “Vì Chúa đã đến gần”. Niềm vui
mà thế gian này không thể ban cho chúng ta là niềm vui xuất phát từ ý thức về
Chúa và về tình yêu của Ngài đối với chúng ta. (FM)
2.
Sự
vĩ đại của Gioan Tẩy Giả
Ngày
xưa có một người thắp đèn thường được người ta gọi là Ông T. Ông làm nhiệm vụ
thắp đèn hết sức chu đáo và đúng giờ. Mỗi tối khi màn đêm vừa buông xuống thì lập
tức ngọn đèn của ông cũng sáng lên. Không ai biết ông làm thế nào để canh đúng
giờ mà thắp đèn, bởi vì ông không có đồng hồ. Cuộc sống của ông cũng chẳng khá
giả gì, nhưng ông yêu nghề của mình. Mọi người đều thương mến ông, nhất là trẻ
con : khi trời tối khiến chúng không chơi đùa được nữa, thì ông đến, mang
lại ánh sáng và chúng có thể tiếp tục chơi.
Công
việc của Ông T. thật có ý nghĩa. Nhưng điều khiến ông vĩ đại là ông bị mù !
Ông mang ánh sáng cho mọi người trong khi bản thân ông thì không nhìn thấy ánh
sáng !
Cuối
cùng thì điện đã đến với thị trấn này. Dân chúng trước đây quý mến ông thì bây
giờ không còn nhớ gì đến ông nữa. Ánh điện sáng hơn ánh đèn nên chẳng ai màng
tiếc nuối quá khứ làm chi nữa.
Ông
T. nhắc chúng ta nhớ tới thánh Gioan Tẩy giả. Cũng như Ông T. thánh Gioan đã cần
mẫn mang ánh sáng đến cho mọi người. Trong một thời gian, Ngài là sự ngưỡng mộ
và quý mến của mọi người. Nhưng Ngài luôn ý thức mình chỉ là kẻ dọn đường, một
ánh sáng lớn hơn sẽ đến, và Ngài sẽ không được đi trong ánh sáng tuyệt vời ấy.
Và khi ánh sáng tuyệt với ấy là Chúa Giêsu đến, Ngài lùi lại phía sau để nhường
bước cho Chúa Giêsu. Thật là vĩ đại.
Không
ai thành đạt chỉ nhờ vào bản thân mình, mà luôn có ai đó ở phía sau giúp đỡ
mình, hướng dẫn mình, khuyến khích mình, nói tóm lại là chuẩn bị cho mình. Rồi
khi mình thành đạt thì người ấy lặng lẽ biến đi vào quên lãng.
Để
làm một kẻ dọn đường cho người khác thì cần phải có tinh thần khiêm tốn và quảng
đại cao cả lớn lao. Thật vậy, vì đó là một hình thức chết đi chính mình. Rút
lui khỏi một chức vụ lớn để rồi chết dần mòn trong một cuộc sống âm thầm là điều
mà chỉ những người vĩ đại mới làm được. Có nhiều người làm hỏng mọi việc chỉ vì
bám giữ quá lâu địa vị và quyền lực của mình.
Những
bậc làm cha mẹ đã không ngại bỏ ra quãng thời gian tốt đẹp nhất của đời mình để
chuẩn bị tương lai cho con cái. Khi con cái đã lớn, cha mẹ phải rút lui để
chúng có thể sống cuộc đời của chúng. Đó là sự vĩ đại của những người làm cha
làm mẹ.
Nhiều
người cứ muốn bám vào ánh đèn sân khấu rực rỡ chói chang, cứ muốn cho mình mãi
sáng và đẩy người khác lùi vào bóng tối. Chúng ta không được làm thế. Chúng ta
phải vận dụng hết mọi khả năng của mình để chiếu sáng tối đa, nhưng đồng thời
cũng phải quan tâm đừng cản đường tiến của người khác. Vả lại, chúng ta còn phải
nhớ rằng mình còn mang nợ của những kẻ đã dọn đường cho mình. (FM)
*
3. Đạo thực hành
Kitô
giáo là một đạo thực hành và có tính xã hội, nghĩa là không chỉ là tương quan
giữa Chúa với tôi, mà là Chúa – tôi – và những người khác.
Có một
câu chuyện về một người thợ giày tên là Martin. Ông sống và làm việc ở tầng hầm.
Tầng hầm này chỉ có mỗi một cửa sổ, cho nên ông chỉ nhìn thấy những bàn chân của
những người qua lại. Chỉ cần thấy đôi giầy của người đi qua là ông biết người ấy
là ai.
Đời
ông rất vất vả. Vợ ông đã chết, để lại một đứa con trai. Tuy nhiên khi thằng
con vừa đủ lớn để có thể giúp ông thì nó cũng lâm bệnh và chết. Ông Martin rơi
vào tuyệt vọng. Chôn cất thằng con xong, ông bỏ đạo và rơi vào thói rượu chè.
Một
ngày kia, một người bạn già đến thăm ông. Ông trút hết bầu tâm sự. Người bạn
khuyên ông nên đọc Tin Mừng, mỗi ngày một đoạn. Và bảo đảm rằng nhờ đó ông sẽ
tìm lại được ánh sáng và niềm vui cho cuộc sống.
Ông
Martin làm theo lời bạn. Mỗi ngày làm việc xong tới chiều là ông cầm sách Tin Mừng
đọc một đoạn. Ban đầu ông chỉ đọc những đoạn Tin Mừng Chúa nhật. Nhưng sau đó
thấy hấp dẫn nên ông đọc luôn những ngày trong tuần. Dần dà đời ông thay đổi,
niềm vui đã trở lại với đời ông.
Một
đêm, khi ông đang đọc Tin Mừng thì ông nghe có tiếng nói với mình “Martin, ngày
mai hãy nhìn qua cửa sổ, tôi sẽ đến thăm ông”. Vì khi đó chẳng có ai cả nên ông
Martin tin rằng đó là tiếng Chúa nói với ông. Bởi đó sáng hôm sau, lòng ông rất
phấn khởi. Ông vừa làm vừa nhìn qua cửa sổ. Ông chăm chú để ý mọi đôi giày đi
qua đi lại để chờ xem Chúa có đến thăm ông không. Nhưng chẳng có một đôi giày
nào lạ cả.
Đến xế
chiều thì ông thấy một đôi giày rất quen, đó là giày của một người lính già tên
là Stephen. Mở cửa ra, Ông Martin thấy Stephen đang đứng chắn ngay cửa, hai tay
khoanh chặt trước ngực vì trời đang rất lạnh. Ông Martin rất muốn hắn ta đi chỗ
khác cho rồi kẻo cứ chắn cửa sổ khiến ông không thấy được Chúa nếu Ngài đi
ngang qua. Tuy nhiên Stephen cứ đứng đấy mà run. Cuối cùng Ông Martin nghĩ rằng
chắc là hắn đói nên mời hắn vào ngồi cạnh lò sưởi, đưa cho hắn một ly trà và một
mẫu bánh mì. Một lác sau Stephan cáo từ. Ông Martin còn đưa thêm cho hắn một
chiếc áo khoác để đỡ lạnh. Suốt khoảng thời gian tiếp Stephen, Ông Martin không
quên để ý nhìn về cửa sổ. Mỗi lần có một bóng người đi qua là ông chăm chú
nhìn. Nhưng chẳng có gì đặc biệt.
Đêm
xuống. Ông Martin thu dọn đồ nghề và miễn cưỡng đóng cánh cửa sổ. Ăn buổi tối
xong, ông cầm quyển Tin Mừng và tình cở mở ngay đoạn này : “Bấy giờ dân
chúng đến hỏi Gioan ‘Chúng tôi phải làm gì ?’ Gioan đáp ‘Ai có hai áo hãy
chia cho người không có. Ai có gì ăn cũng hãy làm như vậy”. Ông Martin bỏ sách
xuống và suy nghĩ, rồi ông chợt hiểu rằng quả thực hôm nay Chúa đã đến thăm ông
qua anh chàng Stephen ấy. May mà ông đã đón tiếp tử tế. Thế là Ông Martin cảm
thấy lòng tràn ngập vui mừng, một niềm vui mà từ trước tới nay ông chưa từng cảm
nghiệm.
Ông
Martin đã đón rước Chúa vào đời mình bằng việc đọc Tin Mừng. Và bước thứ hai đến
một cách tự nhiên : ông đã đón rước Chúa qua việc đón rước người anh em
đói khổ.
Chúng
ta đang dọn đường cho Chúa đến, và chúng ta tin chắc rằng Ngài sẽ mang quà đến
cho chúng ta. Nhung hãy nhớ rằng Chúa không chỉ đến trong lễ Giáng sinh. Ngài
luôn đến, mọi lúc, mọi nơi, dưới mọi hình dáng, nhất là dưới hình dáng những
người đang cần giúp đỡ. (FM)
4.
Cho
Chúa một cơ hội
Cuộc
đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một người chưa có niềm tin như
sau :
– Anh
đã theo đạo Công giáo rồi sao ?
–
Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Ki tô.
– Vậy
xin hỏi anh, ông ta sinh ra trong quốc gia nào ?
– Rất
tiếc là tôi đã quên mất chi tiết này.
– Thế khi
chết, ông ta được bao nhiêu tuổi ?
– Tôi
cũng không nhớ rõ nên chẳng dám nói.
– Vậy
ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài ?
– Tôi
không biết !
– Quả
thật, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo
ông Kitô !
– Anh
nói đúng một phần. Tôi rất hỗ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế
nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này : Ba năm trước, tôi là người
nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một
cách kinh khủng. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận và buồn tủi.
Thế
mà, bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình
tôi đã tìm lại hạnh phúc, các con tôi trông ngóng, chờ tôi về sau giờ tan sở.
Những
điều này không ai khác hơn, chính là đức Ki tô đã làm cho tôi. Và đó là tất. cả
những gì tôi biết về Người.
Khi
lãnh phép rửa sám hối của Gioan, dân chúng hỏi ông : “Chúng tôi phải
làm gì ?” (Lc3,10). Qua câu hỏi ấy, chúng ta thấy sám hối mang
chiều kích cộng đoàn, sẵn sàng đổi mới bằng hành động cụ thể.
Các
Thánh thường nói : “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?” Đó
là một thái độ sẵn sàng làm theo ý Chúa. Có được tâm tình ấy quả không dễ dàng.
Nhưng nói được như Đức Maria mới thực là cao quí : “Xin Chúa cứ
làm cho tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38).
Người
tân tòng trong câu chuyện trên đây, sau khi được đổi mới hoàn toàn, ông đã
nói : “Những điều này không ai khác hơn, chính là Đức
Kitô đã làm cho tôi”.
Như vậy :
Sám hối
không chỉ là quay trở về với quá khứ, mà còn hướng đến một tương lai tốt đẹp
hơn.
Sám hối
không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn mang tính liên đới trong cộng đoàn.
Sám hối
không chỉ là một cảm xúc mông lung, nhưng chính là một quyết tâm hành động.
Sám hối
không chỉ là hướng tới đời sống thánh thiện, mà là trở về với một đấng
thánh : Chúa Giêsu Ki tô.
Vì thế,
sám hối chính là dành cho Chúa Ki tô cơ hội để Người thanh tẩy tâm can, thay
đổi con người, nhất là để Người biến những tâm tình và ước muốn của chúng ta
nên giống những tâm tình và ước muốn của Người.
Thay
vì sám hối bên ngoài, Chúa Ki tô muốn chúng ta thật sự hướng lòng về Người.
Thay
vì kiêu căng tự mãn, Chúa Ki tô muốn chúng ta thực sự khiêm tốn để nên giống
Người.
Thay
vì nô lệ cho của cải, tiền bạc, Chúa Kitô muốn chúng ta hãy ra khỏi nỗi bận tâm
về mình mà nhường cơm sẻ áo cho anh em.
Mùa Vọng
là mùa của hy vọng. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Cho dù con
người có sa ngã, phản bội, Thiên Chúa vẫn theo đuổi chương trình cứu độ của Người.
Cho dù thấp hèn tội lỗi, con người vẫn mang hình ảnh cao đẹp của Thiên Chúa,
nên mỗi người đều được Thiên Chúa tin tưởng, yêu thương. Mùa Vọng mời gọi chúng
ta sám hối, đồng thời cũng kêu gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác và hy vọng
nơi Người.
Lạy
Chúa Giêsu, sám hối là dọn đường cho Chúa đến, sám hối cũng là dọn lối để đến với
tha nhân.
Xin
dạy chúng con biết bày tỏ lòng sám hối bằng cách mềm mại để Chúa uốn nắn, và
quyết tâm sống công bình bác ái với anh em. Amen (TP)
*
5. “Chúa đã đến gần”
“Chúa
đã đến gần”. Câu này nghĩa là gì ?
– Phải
chăng là đã gần đến lễ Giáng sinh ? Hôm nay vào tuần thứ ba Mùa Vọng rồi.
Chỉ còn hơn một tuần nữa thôi. Hiểu như vậy là hời hợt quá.
– Phải
chăng là Chúa đã ở ngay cửa lòng chúng ta. Chỉ cần chúng ta mở cửa thì Ngài bước
vào ? Đúng vậy. Việc quan trọng nhất phải làm không phải là dọn dẹp bên
ngoài mà là mở rộng cửa lòng để đón Chúa.
– Và
còn một nghĩa rất đặc biệt nữa : “Chúa đã đến gần” nghĩa là Chúa ở ngay
trong những người gần cạnh chúng ta, ở ngay trong công việc chúng ta đang làm, ở
ngay trong hoàn cảnh chúng ta đang sống. Ăn thua là chúng ta có nhận ra Chúa
đang ở rất gần chúng ta hay không ?
*
6. Chuyện minh họa
a/
Ông nhà giàu và người thợ giày
Có một
người thợ giày suốt ngày vui vẻ ca hát. Lúc nào trẻ con trong xóm cũng xúm
quanh nghe ông hát.
Đối
diện nhà anh là một ông nhà giàu suốt đêm lo đếm tiền, đến sáng mới đi ngủ
nhưng cũng không ngủ được vì tiếng hát của anh thợ giày. Một hôm ông nghĩ ra một
cách buộc người thợ giày im tiếng hát.
Ông mời
người thợ giày sang nhà ông và tặng anh một túi đầy những đồng tiền vàng. Anh
thợ giày trở về nhà ngồi đếm tiền cả ngày. Đám trẻ con nhìn anh, anh sợ chúng
biết anh có nhiều tiền nên đuổi chúng đi và đóng cửa lại. Ban đêm anh cứ nhớ tới
túi tiền nên không ngủ được, anh ngồi dậy đem túi tiền giấu ở một nơi kín đáo.
Sau đó anh nghĩ rằng nơi đó cũng chưa đủ an toàn nên lại ngồi dậy đem dấu nơi
khác. Ban ngày lòng anh cũng canh cánh lo sợ. Thế là anh không còn hát ca gì nữa,
cũng không đóng được đôi giày nào nữa. Tệ hại nhất là trẻ con không còn tới
chơi với anh. Một thời gian sau anh chịu không nỗi nửa, đem túi vàng trả lại
ông nhà giàu. Thế là từ đó trở đi anh lại vui vẻ, hát ca và trẻ con trở lại
chơi với anh. (Willi Hoffsemmer).
b/
Tiếng cười – tặng phẩm
Sau mấy ngày hội thảo đầy căng thẳng, hai nhà truyền giáo Theodore Cuyler và
Charles Spurgeon đi ra ngoài xả hơi. Họ chạy nhảy giữa cánh đồng như thể các học
sinh được nghỉ học, vui chơi thỏa chí. Cuyler kể một câu chuyện vui làm
Spurgeon bật cười sảng khoái. Rồi thình lình ngài nói :
– Này
bạn Theodore, chúng ta hãy quì gối cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta tiếng cười
vui vẻ vừa rồi.
Và rồi cả hai nhà truyền giáo vĩ đại đó thản nhiên quì trên bãi cỏ xanh tươi
cám ơn Chúa trước quà tặng là tiếng cười đó.
Đâu có gì mâu thuẫn giữa cầu nguyện và cười vui ? Vì một đàng là biểu hiện
của sức khỏe tâm linh, một đàng là của sức khỏe thể xác.
7.
Bài
giải thích của Origène (+ 253)
Phép
rửa của Chúa Giêsu là rửa “bằng Thánh Thần và lửa” (Lc 3,17). Nếu bạn
thánh thiện, bạn sẽ được rửa bằng Thánh Thần ; nếu bạn tội lỗi, bạn sẽ bị
rửa bằng lửa. Cùng một phép rửa sẽ thành án phạt và lửa cho những người tội lỗi
bất xứng ; nhưng các thánh, tức những người trở lại cùng Chúa với một niềm
tin tưởng trọn vẹn, thì họ sẽ nhận được ơn sủng của Chúa Thánh Thần và ơn cứu độ.
Vậy,
Đấng được nói là “rửa bằng Thánh Thần và lửa” ấy, “tay Ngài
cầm nia rê sạch lúa trong sân : thóc mẫy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép
thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3,17-18). Tôi muốn tìm hiểu
xem vì sao Chúa cầm nia trong tay, và bởi luồng gió nào mà thóc lép bị thổi bay
đi trong khi lúa mẫy, nặng hơn, thì gom lại một chỗ. Vì, nếu gió không thổi thì
người ta không thể tách thóc mẫy ra khỏi thóc lép được.
Tôi
tin rằng phải hiểu gió là những cơn cám dỗ khiến cho trong đám đông các tín hữu
lẫn lộn lộ ra những người thuộc hạng thóc mẫy và những người thuộc hạng thóc
lép. Vì chưng, khi tâm hồn bạn bị cám dỗ khống chế thì không phải cơn cám dỗ ấy
biến bạn thành thóc lép, mà vì chính bạn thuộc về hạng thóc lép, tức là hạng
người nhẹ dạ và không có đức tin. Cám dỗ chỉ vạch trần bản chất ẩn dấu của bạn
mà thôi. Ngược lại, khi bạn can đảm chống lại cám dỗ thì cũng không phải cám dỗ
làm cho bạn trở nên trung thành và kiên trì. Cám dỗ chỉ giúp làm hiện rõ những
nhân đức kiên trì và can đảm có sẵn trong bản chất bạn trước đây còn ẩn kín mà
thôi. Chúa đã nói : “Ngươi tưởng rằng Ta còn có mục đích nào khác hơn
là làm tỏ lộ sự công chính của ngươi chăng ?” (G 40,3 theo bản
LXX). Chỗ khác Ngài còn nói : “Ta đã hạ ngươi xuống và cho ngươi chịu
đói hầu bày tỏ ra điều gì đang có trong lòng ngươi” (Đnl 8,3-5)
Cũng
một cách ấy, bão táp không làm vững chắc cho “ngôi nhà xây trên cát” (Mt
7,24-25). Nhưng nếu bạn muốn xây nhà thì hãy “xây trên đá”. Khi ấy
dù bão tố có nổi lên cũng không đánh đổ được ngôi nhà được xây trên đá, mà chỉ
làm sập ngôi nhà xây trên cát thôi. Cũng vậy, trước khi nổi lên bão tố, gió thổi,
sóng ùa, khi mọi sự còn yên tĩnh, chúng ta phải chú ý đến cái nền nhà, chúng ta
phải xây ngôi nhà chúng ta bằng những viên đá vững chắc là các giới răn của
Chúa ; khi cơn bắt bớ bùng nổ làm cho các kitô hữu phải hoang mang lo lắng
thì chúng ta chứng tỏ rằng ngôi nhà chúng ta đã được xây trên đá tảng là Chúa
Giêsu Kitô.
Nhưng
nếu ai đó chối bỏ Ngài – nguyện cho chúng ta thoát khỏi điều khốn nạn này – thì
người ấy phải biết rằng không phải lúc việc nó chối Chúa được tỏ lộ rõ ràng thì
nó mới chối Ngài đâu ; nó đã mang sẵn trong mình nó những gốc rễ xa xưa của
việc chối Chúa rồi ; chỉ sau này khi người ta khám phá điều nó mang sẵn
trong lòng thì điều ấy mới được công khai ra.
Vậy
chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta là ngôi nhà vững chắc không cơn bão nào
đánh đổ được vì đã được xây trên nền đá, trên Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
Kính dâng Ngài vinh quang và quyền lực đến muôn thuở muôn đời, Amen.
V. Lời
nguyện cho mọi người
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, thánh Phaolô mời gọi chúng ta : Anh em hãy vui luôn
trong niềm vui của Chúa, và giãi bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh
nguyện. Trong niềm hân hoan trông chờ Con Chúa ngự đến, chúng ta cùng dâng lời
cầu xin :
- Hội thánh luôn
khuyên nhủ con cái mình / cố gắng sống bác ái yêu thương với tất cả mọi
người / tôn trọng công bằng trong đời sống xã hội / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho các tín hữu / biết quan tâm đến lời khuyên tha thiết
của Hội thánh / và cố gắng thực hiện trong đời sống đức tin thường
ngày.
- Trên thế giới
ngày nay / vẫn còn biết bao người đang đói khổ vì thiên tai / vì
thiếu lương thực thực phẩm trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó / được cứu trợ đầy đủ và kịp
thời.
- Trong cuộc sống
thường ngày / có một số người chỉ lo cho bản thân mình / mà ít
khi quan tâm đến người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô
hữu hiểu rằng / họ cần phải sống theo lời thánh Phaolô dạy : /
là vui với người vui và khóc cùng người khóc.
- Chia sẻ cơm áo
cho những ai đói rách bần cùng / cũng như tôn trọng tài sản và danh dự
của mọi người / là bổn phận của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng chu toàn
các bổn phận quan trọng này.
Chủ tế :
Lạy Chúa, chúng con đang hết lòng trông đợi Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa giáng
trần để cứu độ chúng con. Xin Chúa ban ơn thanh tẩy tâm hồn chúng con sạch mọi
vết nhơ tội lỗi, để xứng đáng đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu
xin.
VI.
Trong Thánh Lễ
–
Chúc bình an : Có
lẽ từ trước tới nay chúng ta chúc bình an cho nhau chỉ bằng một cử chỉ cúi chào,
hờ hững, theo thói quen. Hôm nay, ý thức lời Chúa kêu gọi “Hãy vui lên”, chúng
ta hãy chúc bình an cho nhau với một tâm hồn vui vẻ và một ước muốn làm một điều
gì đó cho mọi người được vui.
VII.
Giải tán
Lời
tung hô trước Tin Mừng trong Thánh lễ hôm nay là “Allêluia. Thần Khí Chúa ngự
trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Anh chị em ra về và
hãy luôn nhớ thực hành lời đó.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật III Mùa Vọng (C)
Chủ
Nhật 16 Tháng Mười Hai, 2018
Việc
rao giảng của Gioan Tẩy Giả
Chuẩn
bị cho sự xuất hiện của Nước Trời
Lc
3:10-18
1.
Bài Đọc
a) Lời
nguyện mở đầu:
Lạy
Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy soi sáng tâm trí chúng con, xin hãy đổ đầy
những tâm hồn mà Chúa đã tạo dựng ra với ân sủng của Chúa. Xin hãy
là ánh sáng cho ngọn lửa sốt mến trí năng trong tâm hồn chúng con; xin hãy chữa
lành những vết thương của chúng con với nhũ hương của tình yêu
Chúa. Ánh sáng của sự khôn ngoan đời đời, xin hãy mặc khải cho chúng
con mầu nhiệm của Chúa Cha và Chúa Con được kết hợp trong một tình yêu duy nhất. Amen.
b) Phúc
Âm
10 Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng:
“Vậy chúng tôi phải làm gì?” 11 Ông trả lời: “Ai có hai
áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”. 12 Cả
những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng
tôi phải làm gì?” 13Gioan đáp: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức
đã ấn định cho các ngươi”. 14 Các quân nhân cũng hỏi: “Còn
chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?” Ông đáp: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai;
các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.
15 Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người
tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: “Có phải chính ông là Đức Kitô chăng?” 16 Gioan
trả lời cho mọi người rằng: “Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền
năng hơn tôi sẽ đến, – tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, – chính Người
sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. 17 Người cầm
nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi
trong lửa không hề tắt!” 18 Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa
khi rao giảng tin mừng cho dân chúng.
c)
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời
Chúa có thể thấm nhập vào lòng và soi sáng đời sống chúng ta.
2.
Suy Gẫm
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Một
phần của sứ điệp Tin Mừng theo Thánh Luca là sự cần thiết phải hối cải: metanoia,
đó là, một sự thay đổi tâm trí đến đường lối suy nghĩ và hành động thiêng liêng. Rất
thông thường chúng ta gặp trong sách Tin Mừng của Luca những hình ảnh lòng
thương xót của Thiên Chúa được thể hiện trong Đức Giêsu Kitô hướng về những kẻ
đói nghèo và tâm hồn khiêm nhu (Lc 1:46-55; 2:1-10; 5:12-31;
6:17-38). Những cảnh này trái ngược lại với việc cư xử khắt khe dành
cho những người giàu có và tự mãn mà con tim thì chai đá và đóng kín với Thiên
Chúa và với tha nhân nghèo túng (Lc 16:19-31; 17:1-3).
Văn bản
của phần phụng vụ Chúa Nhật tuần này trình bày với chúng ta về chủ đề này. Đoạn
Phúc Âm Lc 3:10-18 là một phần bài trình bày của Luca về lời rao giảng của ông
Gioan Tẩy Giả trong việc chuẩn bị cho mầu nhiệm Đức Giêsu. Gioan Tẩy
Giả công bố về ngày của Chúa sắp xảy ra: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ
cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Lc
3:7). Các ngôn sứ đã công bố về ngày của cơn thịnh nộ và sự cứu rỗi
sắp đến này, cũng như việc sắp xuất hiện của một ngôn sứ được biết đến giống
như ngôn sứ Êlia (Hc 48:11), là người sẽ đi trước dọn đường cho Chúa (Ml
3:1-5). Theo truyền thống Kitô giáo, Gioan Tẩy Giả là sứ giả, người
chuẩn bị cho ngày xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế: “Đấng có
quyền năng hơn tôi đang đến” (Lc 3:16). Trong thực tế, sứ vụ của
Gioan diễn ra vào thời điểm lòng kỳ vọng lớn lao về Đấng Thiên
Sai: “Hồi đó, dân đang trông ngóng” (Lc 3:15), và trong thâm tâm, ai
nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng
Mêssia. Sau đó, câu hỏi này cũng được đặt ra cho Chúa Giêsu (Lc
9:7-9, 18-21) là Đấng sau đó mặc khải danh phận của mình trong việc xác nhận
hàm ẩn của lời tuyên xưng đức tin bởi ông Phêrô.
Trong
các câu 3:1-18 của Tin Mừng Luca, chúng ta tìm được tất cả mọi dữ kiện liên
quan đến sứ vụ và tác vụ của Gioan Tẩy Giả. Ông đã được sai đến để
làm phép rửa như là một dấu hiệu của lòng ăn năn sám hối và rao giảng sự hoán cải
mang lại ơn cứu độ: “nảy sinh những hoa trái xứng đáng” (Lc 3:7);
“tôi làm phép rửa cho anh em trong nước” (Lc 3:16). Qua lời rao giảng
của ông, Gioan “đã công bố Tin Mừng” (Lc 3:18) rằng ơn cứu độ không chỉ dành
riêng cho một số người được tuyển chọn mà là cho tất cả mọi người, gồm cả những
kẻ thu thuế và binh lính (Lc 3:10-14), cho tất cả những ai sống và hành xử một
cách công bằng và trong tình bác ái. Đến lượt Chúa Giêsu, Người sẽ
tiếp tục làm rõ sự thật này bằng thái độ thương xót của mình đối với những người
thu thuế, kẻ tội lỗi và những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội (Lc 7:1-10, 36-50;
17:11-19; 18:9-14). Trong thực tế, chủ đề ơn cứu rỗi đã trở nên gắn
liền với Triều Đại Thiên Chúa sắp đến, mà đang ở giữa chúng ta (Lc 17:20-21) và
hàm ý công bằng xã hội và sự bình đẳng giữa tất cả mọi người (Lc
3:10-14). Do đó, ơn cứu độ không chỉ là một đặc tính trừu tượng và
cá nhân, mà là điều có thực và tập thể. Ơn cứu độ này được ban cho
chúng ta bởi Thiên Chúa trong những người đã được chịu phép rửa trong Chúa
Thánh Thần và lửa (Lc 3:16b). “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong
sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không
hề tắt mà đốt đi” (Lc 3:17). Sau câu chuyện Tin Mừng, chúng ta thấy
một vài lần Chúa Giêsu sẽ nhắc đến những dấu chỉ tương tự liên quan đến Triều Đại
sắp đến qua các lời khuyên răn và dụ ngôn (Lc 13:1-5;
17:22-37). Chúng ta có thể nói rằng trong việc nhìn vào sứ vụ và tác
vụ của Chúa Giêsu, Luca đã để cho chúng ta nhìn thấy sự hoàn thiện của việc
công bố và rao giảng của Gioan. Ở đây, chúng ta có thể nhớ lại những
gì Đức Giêsu đã nói trong hội đường tại Nagiarét: “Hôm nay đã ứng
nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).
b)
Một vài câu hỏi
để quy hướng cho phần suy gẫm và thực
hành của chúng ta.
i. Nhu cầu cho việc hoán cải: metanoia,
đó là, thay đổi phương cách suy nghĩ bất toàn của một người để hướng đến đường
lối suy nghĩ và hành động hoàn hảo của Thiên Chúa. Tôi có cảm thấy
có nhu cầu này không?
ii. Lòng thương xót của Thiên Chúa đối
với người nghèo khó và tâm hồn khiêm nhu được thể hiện trong Đức Giêsu
Kitô. Tôi có nhận thấy mình có những điều này không?
iii. “Một cảm giác trông ngóng đã nảy nở
trong thâm tâm người dân” (Lc 3:15). Các Kitô hữu tiên khởi đã băn
khoăn chờ đợi lần tái giáng lâm của Chúa: “Thần Khí và Tân Nương
nói: ‘Xin Ngài ngự đến!’ Ai nghe, hãy nói: ‘Xin Ngài ngự đến!’
” (Kh 22:17). Tôi có đang mong đợi sự xuất hiện của Chúa
không, hay là tôi đang quá bận rộn với đời sống vật chất mà tôi đã gắn bó cách
quá đáng vào tất cả những gì trước mắt?
iv. Theo truyền thống Kitô giáo,
Gioan Tẩy Giả là vị sứ giả đến để chuẩn bị mọi người cho việc giáng thế lần thứ
nhất của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Giáo Hội cũng đã nhận lãnh cùng một
sứ vụ chuẩn bị dọn đường cho Chúa sẽ đến lần nữa: “Phải, chẳng bao
lâu nữa Ta sẽ đến!” (Kh 22:20). Tôi có thể làm được những gì để chuẩn
bị cho lần xuất hiện thứ hai của Chúa?
v. Ơn cứu độ không dành riêng cho một
số ít người được chọn, mà là cho tất cả mọi người, bao gồm cả những người bị
coi là “bất xứng” với ơn cứu độ của Thiên Chúa. Trong thời Chúa
Giêsu, kẻ thu thuế và dân ngoại là những người trong số bị xem là “bất xứng”. Trong
thời đại của chúng ta, ai là những người thường xuyên bị xem là “bất xứng” với
ơn cứu độ?
vi. Chủ đề ơn cứu rỗi liên quan chặt
chẽ với việc Triều Đại Thiên Chúa sắp đến và có ngụ ý công bằng xã hội: “Này
đây, Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21:5). Tôi có thể làm được những gì để
phát huy công lý trong một cách mà sẽ ảnh hưởng đến cấu trúc của bất công xã hội?
3.
Cầu Nguyện
a)
Thánh Vịnh 97 (96:1-7, 10-12)
CHÚA
là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên,
vui đi nào, ngàn muôn hải đảo!
Mây u ám bao phủ quanh Người,
bệ ngai rồng là công minh chính trực.
vui đi nào, ngàn muôn hải đảo!
Mây u ám bao phủ quanh Người,
bệ ngai rồng là công minh chính trực.
Ngọn
lửa hồng mở lối tiên phong,
đốt tiêu tan địch thù tứ phía.
Ánh chớp của Người soi sáng thế gian,
địa cầu trông thấy mà run sợ;
núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan
vị Chúa Tể hoàn cầu.
Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực,
hết mọi dân được thấy vinh quang Người.
đốt tiêu tan địch thù tứ phía.
Ánh chớp của Người soi sáng thế gian,
địa cầu trông thấy mà run sợ;
núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan
vị Chúa Tể hoàn cầu.
Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực,
hết mọi dân được thấy vinh quang Người.
Nhục
nhã thay ai thờ ngẫu tượng,
huênh hoang vì những vật hư vô này.
Chư thần chư thánh, phục bái Chúa đi!
huênh hoang vì những vật hư vô này.
Chư thần chư thánh, phục bái Chúa đi!
Kẻ
yêu CHÚA, hãy ghét điều gian ác,
Người giữ gìn tính mạng kẻ hiếu trung,
giải thoát họ khỏi tay phường độc dữ.
Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính,
niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay.
Trước nhan thánh CHÚA, người công chính hãy vui mừng
tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ!
Người giữ gìn tính mạng kẻ hiếu trung,
giải thoát họ khỏi tay phường độc dữ.
Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính,
niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay.
Trước nhan thánh CHÚA, người công chính hãy vui mừng
tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ!
b)
Lời nguyện kết
Lạy
Ngôi Lời Chúa, là vẻ huy hoàng của Chúa Cha, trong sự viên mãn thời gian, Chúa
đã từ trời xuống để cứu chuộc thế gian. Tin Mừng bình an của Chúa đã
giải thoát chúng con khỏi tất cả mọi tội lỗi, tuôn đổ ánh sáng vào trong tâm
trí chúng con và hy vọng vào trong tâm hồn chúng con. Khi mà, giữa vẻ
huy hoàng của thiên đàng, Chúa sẽ trở lại như vị quan tòa, chào đón chúng con
vào bên phải của Chúa trong tập hợp những người được chúc
phúc. Chúng con ca ngợi Đức Kitô, Chúa chúng con, cùng với Đức Chúa
Cha và Chúa Thánh Thần, như có từ trước, bây giờ và đến muôn thuở muôn đời. Amen.
4.
Chiêm Niệm
Chiêm
niệm có nghĩa là biết làm thế nào để gắn bó với tất cả tâm hồn và trí khôn của
mình vào Chúa, Đấng mà qua Lời của Người biến đổi chúng ta trở thành những con
người mới, những người luôn làm theo thánh ý Người. “Bây giờ các con
đã biết những điều này, nếu các con thực hành tương xứng, thì thật phúc cho các
con!” (Ga 13:17)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét