08/04/2019
Thứ hai tuần 5 mùa Chay năm C
BÀI ĐỌC I: Đn 13, 1-9.
15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)
“Đây tôi phải chết, dù tôi
không làm điều họ vu khống cho tôi”.
Trích sách Tiên tri
Đaniel.
Trong những ngày ấy,
có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của
Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người
công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông
có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là
người đáng kính hơn mọi người khác.
Năm đó, người ta đã đặt
lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: “Sự gian ác
phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như
cai quản dân chúng”. Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai
kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Đến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà
Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi
bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn
muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.
Hai ông chờ ngày thuận
tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo
hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó
không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô
thiếu nữ rằng: “Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta
tắm”.
Khi hai cô thiếu nữ ra
khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: “Kìa cửa vườn
đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận
lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận,
chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo
các cô thiếu nữ ra khỏi vườn”.
Bà Susanna thở dài và
nói: “Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu
tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà
tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!” Đoạn
bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông
chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra
cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ
rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.
Ngày hôm sau, khi dân
chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến,
lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai
ông nói với dân chúng: “Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của
ông Gioakim”. Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất
cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.
Khi hai vị kỳ lão ra đứng
giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt
lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: “Khi chúng tôi
đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa
đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn
tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy
tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi
không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa
tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó
là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Đó là điều chúng tôi xin làm
chứng”. Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là
thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.
Bấy giờ bà Susanna kêu
lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa hằng hữu, Đấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước
khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con
không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con”.
Chúa nhậm lời bà. Khi
họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Đaniel. Trẻ này
kêu lớn rằng: “Còn tôi, tôi không vấy máu bà này”. Mọi người hướng mắt nhìn về
đứa trẻ và nói: “Lời mi nói có ý nghĩa gì?” Đứa trẻ ra đứng giữa mọi người và
nói: “Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa
biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại,
vì hai ông đã làm chứng dối hại bà”.
Bấy giờ dân chúng vội
vã trở lại. Các kỳ lão nói với Đaniel: “Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo
cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão”. Đaniel liền nói
với họ: “Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi
tôi xét xử hai vị kỳ lão cho”.
Khi hai ông đứng xa
nhau, Đaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: “Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia
ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội
và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: ‘Ngươi chớ giết kẻ vô tội và
người công chính’. Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người
phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây chò”. Đaniel liền nói: “Đúng
là ông nói dối. Đây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông”. Đaniel cho ông ta
lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Đaniel nói với ông này rằng: “Hỡi dòng giống
Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã
làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ
Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều
theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai
người phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây sồi”. Đaniel liền nói:
“Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ
đợi phân thây tiêu diệt ông”.
Bấy giờ tất cả dân
chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa.
Đoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Đaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống,
họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật
Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan. Đó
là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này:
Đn 13, 41c-62
Trong những ngày ấy,
dân chúng lên án tử hình bà Susanna. Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: “Lạy
Chúa hằng hữu, Đấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ
làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác
ý vu khống cho con”.
Chúa nhậm lời bà. Khi
họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Đaniel. Trẻ này
kêu lớn rằng: “Còn tôi, tôi không vấy máu bà này”. Mọi người hướng mắt nhìn về
đứa trẻ và nói: “Lời mi nói có ý nghĩa gì?” Đứa trẻ ra đứng giữa mọi người và
nói: “Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa
biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại,
vì hai ông đã làm chứng dối hại bà”.
Bấy giờ dân chúng vội
vã trở lại. Các kỳ lão nói với Đaniel: “Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo
cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão”. Đaniel liền nói
với họ: “Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi
tôi xét xử hai vị kỳ lão cho”.
Khi hai ông đứng xa
nhau, Đaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: “Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia
ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm. Ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội
và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: ‘Ngươi chớ giết kẻ vô tội và
người công chính’. Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người
phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây chò”. Đaniel liền nói: “Đúng
là ông nói dối. Đây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông”. Đaniel cho ông ta
lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Đaniel nói với ông này rằng: “Hỡi dòng giống
Canaan, chứ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã
làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ
Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều
theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai
người phạm tội dưới cây gì?” Ông ta trả lời: “Dưới cây sồi”. Đaniel liền nói:
“Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ
đợi phân thây tiêu diệt ông”.
Bấy giờ tất cả dân
chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa.
Đoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Đaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống;
họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật
Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 22, 1-3a.
3b-4. 5. 6
Đáp: Dù bước đi
trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 5ab).
Xướng:
1) Chúa chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn
nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. –
Đáp.
2) Ngài dẫn tôi qua những
con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong
thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của
Ngài, đó là điều an ủi lòng con. – Đáp.
3) Chúa dọn ra cho con
mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén
rượu con đầy tràn chan chứa. – Đáp.
4) Lòng nhân từ và ân
sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định
cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. – Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: 2 Cr 6, 2b
Đây là lúc thuận tiện,
đây là ngày cứu độ.
PHÚC ÂM: Ga 8, 12-20
“Ta là sự sáng thế gian”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với những người biệt phái rằng: “Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi
trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống”. Những người biệt phái nói:
“Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực”.
Chúa Giêsu trả lời:
“Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ
Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng
chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét
ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không
phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Đấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của
các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Đấng
đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa”.
Họ nói: “Cha của ông
đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu
các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta”.
Chúa Giêsu nói những lời
trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt
Người, vì chưa đến giờ Người. Đó là lời Chúa.
Suy niệm:
Khi nghe qua lời Chúa Giêsu nói: “Ta là ánh sáng thế gian”, rất có thể nhiều người trong chúng ta sẽ chất vấn như những người Do Thái: điều này có nghĩa là gì?
Đừng nghe Lời Chúa cách qua loa, nghe cho có, nghe rồi để đó mà không suy gẫm. Nếu chúng ta nghe Lời Chúa mà lòng không cảm xúc, trí không suy tư, tim không đụng chạm đến lời, thì Lời Chúa chỉ là một bản văn tham khảo.
“Ta là Ánh sáng thế gian; Ta là Mục tử tốt lành; Ta là đường, là sự thật và là sự sống; Ta là sự sống lại và là sự sống, v.v.”. Chúng ta có liên tưởng gì về những điều Chúa Giêsu và Tin Mừng gọi “Ta là”? “Ta là”, đó chính là mặc khải căn bản và quan trọng nhất mà từ trong Cựu ước, qua Môsê, Chúa khẳng định danh của mình. Trong triết học, người ta gọi đây là xác định hữu thể. Tôi là ai? Căn tính của chúng ta chính là cái "ta là". Thiên Chúa tự bản thể là Thiên Chúa, Ngài khẳng định bản thể của Ngài là.
Chúng ta không thể hiểu cái "là", vốn là bản thể của Chúa Giêsu là gì nếu chúng ta không ở trong Người, không hiểu biết Người.
Người là ánh sáng. Chữ ánh sáng ấy không chỉ về ánh sáng vật lý, như của bóng đèn hay của môt ngôi sao. Đó là ánh sáng khác, ánh sáng mà trong kinh Tin Kính tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành...". Ánh sáng đó nói lên nguồn cội từ đời đời của Người, Là khởi nguyên và cũng là cùng đích của nhân loại.
Chúa Giêsu là ánh sáng. Ai ở trong Người thì biết Người là Thiên Chúa. Ai biết Chúa Giêsu là biết Thiên Chúa Cha. Ai đi trong ánh sáng Người thì ở trong sự thật, và chính sự thật đó sẽ giải thoát con người, dẫn con người đến nguồn sống đích thực.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi khi nghe Lời Chúa biết đặt tâm trí vào chính lời của Chúa và không ngừng suy niệm lời của Chúa nói với chúng con. Amen.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
Khi nghe qua lời Chúa Giêsu nói: “Ta là ánh sáng thế gian”, rất có thể nhiều người trong chúng ta sẽ chất vấn như những người Do Thái: điều này có nghĩa là gì?
Đừng nghe Lời Chúa cách qua loa, nghe cho có, nghe rồi để đó mà không suy gẫm. Nếu chúng ta nghe Lời Chúa mà lòng không cảm xúc, trí không suy tư, tim không đụng chạm đến lời, thì Lời Chúa chỉ là một bản văn tham khảo.
“Ta là Ánh sáng thế gian; Ta là Mục tử tốt lành; Ta là đường, là sự thật và là sự sống; Ta là sự sống lại và là sự sống, v.v.”. Chúng ta có liên tưởng gì về những điều Chúa Giêsu và Tin Mừng gọi “Ta là”? “Ta là”, đó chính là mặc khải căn bản và quan trọng nhất mà từ trong Cựu ước, qua Môsê, Chúa khẳng định danh của mình. Trong triết học, người ta gọi đây là xác định hữu thể. Tôi là ai? Căn tính của chúng ta chính là cái "ta là". Thiên Chúa tự bản thể là Thiên Chúa, Ngài khẳng định bản thể của Ngài là.
Chúng ta không thể hiểu cái "là", vốn là bản thể của Chúa Giêsu là gì nếu chúng ta không ở trong Người, không hiểu biết Người.
Người là ánh sáng. Chữ ánh sáng ấy không chỉ về ánh sáng vật lý, như của bóng đèn hay của môt ngôi sao. Đó là ánh sáng khác, ánh sáng mà trong kinh Tin Kính tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành...". Ánh sáng đó nói lên nguồn cội từ đời đời của Người, Là khởi nguyên và cũng là cùng đích của nhân loại.
Chúa Giêsu là ánh sáng. Ai ở trong Người thì biết Người là Thiên Chúa. Ai biết Chúa Giêsu là biết Thiên Chúa Cha. Ai đi trong ánh sáng Người thì ở trong sự thật, và chính sự thật đó sẽ giải thoát con người, dẫn con người đến nguồn sống đích thực.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi khi nghe Lời Chúa biết đặt tâm trí vào chính lời của Chúa và không ngừng suy niệm lời của Chúa nói với chúng con. Amen.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần V MC
Bài đọc: Dan
13:1-9, 15-17, 19-30, 33-62; Jn 8:1-11 or 8:12-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không được kết
án tha nhân.
Con người thường dễ
phê bình và kết án tha nhân, hơn là nhìn vào chính mình để xét mình và để nhận
ra những ước muốn sai trái và tội lỗi của mình. Nhiều khi vì ham muốn tình dục,
uy quyền, danh vọng, hay của cải, con người có thể sẵn sàng làm chứng gian để kết
án người vô tội, hay tìm đủ mọi cách để tha bổng kẻ đắc tội. Chúa Giêsu dạy các
môn đệ không được kết án bất cứ ai, vì quyền phán xét là quyền của Thiên Chúa,
và không ai sạch tội để có thể kết án tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh vấn đề kết án tha nhân. Trong Bài Đọc I, TT Daniel phá vỡ âm mưu của
hai vị thẩm phán làm chứng gian để kết án người vô tội. Họ ham muốn sắc đẹp của
Bà Suzanna và lập mưu để thông gian với Bà. Khi Bà từ chối không chịu, họ đã
tri hô Bà phạm tội ngọai tình với một thanh niên trẻ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
cũng phá vỡ âm mưu của các kinh-sư và Biệt-phái khi họ đặt Ngài vào thế lưỡng
nan: hoặc phải giữ luật Moses hoặc phải giữ luật yêu thương. Ngài trả lời họ:
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Không được làm chứng gian để kết án người lành.
1.1/ Sự ác độc của hai vị
thẩm phán:
(1) Lòng ham muốn tình
dục của hai vị thẩm phán: Là những người xét xử dân chúng, lẽ ra họ phải giữ
tâm hồn sáng suốt để xét xử công minh cho dân, hai vị thẩm phán này đã để “tâm
trí ra đồi bại, quay mắt đi để khỏi nhìn lên trời cao và chẳng nhớ đến những
phán quyết công minh của Thiên Chúa.” Họ ham muốn sắc đẹp của bà Suzanna, rình
rập khi Bà tắm trong vườn, và sửa sọan sẵn một âm mưu để cưỡng bức Bà hoặc phải
thông gian với họ, hoặc sẽ bị ném đá chết vì tội ngọai tình.
(2) Làm chứng gian khi
âm mưu không thành: Hai kỳ lão đó đứng dậy đặt tay lên đầu bà, và làm chứng
gian: “Chúng tôi đang dạo chơi một mình trong vườn, thì mụ này đã vào với hai tớ
gái, đóng cửa vườn lại, rồi cho các tớ gái đi ra. Một gã thanh niên núp sẵn ở
đó, đến bên mụ và nằm với mụ. Lúc ấy, chúng tôi đang ở một góc vườn, thấy chuyện
đồi bại, liền chạy tới. Chúng tôi thấy chúng ăn nằm với nhau, nhưng không tóm
được gã thanh niên, vì hắn khoẻ hơn chúng tôi, và đã mở cửa chạy mất. Còn mụ
này, chúng tôi bắt được và hỏi mụ ta xem gã thanh niên kia là ai. Nhưng mụ
không chịu nói cho chúng tôi. Chúng tôi xin làm chứng về những điều ấy.”
1.2/ Thiên Chúa bảo vệ
những ai biết kính sợ Người.
(1) Khác với hai vị thẩm
phán, Bà Suzanna là người biết kính sợ Thiên Chúa. Cha mẹ bà là người công
chính, đã dạy dỗ con gái theo Luật Moses. Khi bị cưỡng bức bởi hai vị thẩm
phán, Bà Suzanna biết họ có quyền phán xét luận tội mình, nên phân vân: “Tôi bị
khốn tứ bề! Quả thật, nếu làm thế, tôi sẽ phải chết; còn nếu không làm, tôi
cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà không làm gì cả mà sa vào tay các
ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa!” Vì thế, Bà Suzanna liền kêu lớn tiếng
và hai kỳ lão cũng la lên để hại bà. Khi bị kết án oan uổng, Bà vừa khóc vừa
ngước mắt lên trời, vì bà đầy lòng trông cậy vào Chúa. Bà Suzanna kêu lớn tiếng:
“Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Đấng am tường những điều bí ẩn và thấy hết mọi sự trước
khi chúng xảy ra, Ngài biết là họ đã làm chứng gian hại con. Này con phải chết,
tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã vu cho con.”
(2) Thiên Chúa gởi TT
Daniel đến để xét xử cho Bà: Trời có mắt, Thiên Chúa đã nghe tiếng bà kêu.
Trong lúc bà bị điệu đi hành hình, Thiên Chúa đã đánh động tâm trí thánh thiện
của một thiếu niên tên là Daniel. Thiếu niên đó kêu lớn tiếng rằng: “Tôi vô can
trong vụ đổ máu người phụ nữ này!” Toàn dân đều quay về phía cậu thiếu niên và
hỏi: “Lời cậu vừa nói có nghĩa gì?” Cậu đứng giữa họ và nói: “Các người ngu xuẩn
đến thế sao, hỡi con cái Israel? Các người đã lên án một người con gái Israel
mà không xét hỏi và cũng không biết rõ sự việc ra sao! Hãy trở lại nơi xét xử,
vì những người kia đã làm chứng gian để hại người phụ nữ này.”
Cách xét xử của
Daniel: Cậu ra lệnh: “Hãy tách riêng họ ra, rồi tôi sẽ xét hỏi.” Câu hỏi của
Daniel: Nếu đã thấy họ phạm tội, thì phạm tội dưới cây nào? Hai người làm chứng
khác nhau:
* Người thứ nhất: “Dưới
cây trắc.”
* Người thứ hai: “Dưới
cây dẻ.”
Bấy giờ toàn thể cộng
đồng lớn tiếng reo hò và chúc tụng Thiên Chúa, Đấng cứu những kẻ trông cậy vào
Người. Rồi người ta quay lại chống hai kỳ lão, vì Daniel đã dựa vào lời chính
miệng các ông nói mà thuyết phục họ là các ông đã làm chứng gian. Theo luật
Moses, người ta giáng cho các ông hình phạt mà các ông định bắt người khác phải
chịu, đó là giết các ông. Ngày ấy, máu người vô tội khỏi bị đổ oan.
2/ Phúc Âm: Không được kết án tha nhân vì không ai sạch tội.
2.1/ Bẫy giăng để hại
Chúa Giêsu: Trình thuật của Gioan nói rõ: “Họ
nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người.” Chúa Giêsu bị họ đặt vào
giữa hai thế lưỡng nan: hoặc trung thành với giáo huấn Ngài dạy là luật yêu
thương và không được kết án tha nhân, hoặc vi phạm Luật Moses dạy phải ném đá
chết người bị bắt quả tang phạm tội ngọai tình.
2.2/ Chúa Giêsu muốn mọi
người phải xét mình.
(1) Phải sạch tội trước
khi tố cáo người khác: Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai
trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Rồi Người lại cúi
xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những
người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa.
(2) Cách Chúa Giêsu đối
xử với người phụ nữ: Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai
lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giêsu nói:
“Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm
tội nữa!” Qua những lời đối thọai này, Chúa Giêsu muốn chị nhận ra những điều
sau:
1.
a) Chúa cho chị cơ hội
thứ hai để trở nên tốt đẹp hơn: Tôi biết chị đã phạm tội, nhưng cuộc đời chị vẫn
còn thời gian để sửa đổi. Tôi cho chị cơ hội thứ hai để chị làm lại cuộc đời.
2.
b) Chúa tha thứ lỗi
lầm của chị: Không giống như những người biệt-phái và kinh-sư chỉ lo tìm dịp để
luận tội và kết án chị, Chúa lợi dụng cơ hội để tha thứ và để chữa lành chị.
3.
c) Chúa khuyến khích
chị trở thành người tốt hơn: Tội lỗi hủy diệt con người. Chị hãy tránh xa tội lỗi
để cuộc đời chị tốt đẹp hơn.
4.
d) Chúa tin tưởng mọi
người đều có thể trở nên tốt nếu được cho cơ hội: Tôi tin chị sẽ trở nên tốt nếu
tôi cho chị cơ hội để sửa đổi.
5.
e) Chúa cũng cảnh
cáo chị hậu quả sẽ xấu hơn nếu chị không chịu thay đổi: Nếu chị không nắm lấy
cơ hội để sửa đổi, chị sẽ phải lãnh nhận hậu quả nghiêm trọng hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta không bao
giờ được làm chứng gian để hại người khác (điều răn thứ 9).
– Quyền xét đóan thuộc
về Thiên Chúa. Chúng ta không có quyền xét đóan tha nhân nếu chúng ta không có
bổn phận với họ.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
08/04/2019 – THỨ
HAI TUẦN 5 MC
Ga 8,12-20
LUỒNG SINH KHÍ MỚI
Đức Giê-su nói: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ
không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga
8,12-20)
Suy niệm: Vụ án xử người phụ nữ ngoại
tình là câu chuyện dẫn nhập để thánh Gio-an giúp chúng ta hiểu được lời Chúa
nói hôm nay. Cái nhìn của Chúa đem lại luồng sinh khí mới: Ngài là nguồn ánh
sáng đem lại sự sống. Những người tố cáo cũng được cái nhìn của Chúa soi sáng
và thấy được sự thật tâm hồn mình: một con người cũng mang đầy tội lỗi như ai.
Nhưng ánh sáng đó chưa kịp đem lại luồng sinh khí mới cho họ, thì họ đã vội rút
lui. Còn bị cáo, người phụ nữ ngoại tình, cũng được cái nhìn đầy ánh sáng của
Chúa chiếu rọi. Nhưng khác một điều, chị vẫn đứng đấy, một mình với Chúa, chấp
nhận để ánh sáng Chúa soi rọi vào mọi ngõ ngách tâm hồn. Thật kỳ diệu, ánh sáng
đó biến thành liều thuốc cải tử hoàn sinh. Chẳng những chị khỏi bị ném đá cho đến
chết, chị còn được biến đổi thành một con người mới, con người được tha thứ tội
lỗi: “Tôi cũng không kết án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Mời Bạn: Phải chăng biết bao lần bạn
đã tránh né cái nhìn của Chúa? Từ nay, bạn đừng trốn tránh nữa. Nhưng hãy đến với
Ngài trong bí tích Hoà giải để Ngài nhìn bạn và chuyển thông cho bạn sức sống mới.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày dành ít phút, đặt
mình trước cái nhìn của Chúa để kiểm điểm đời sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, thân
phận yếu đuối tội lỗi của người phụ nữ đáng thương cũng là thân phận của con.
Biết bao lần con đã phạm tội. Xin giúp con biết ăn năn trở về nhận lãnh ơn tha
tội và luôn nhắc nhở lòng mình: “Hãy sám hối và từ nay đừng phạm tội nữa”.
(5 Phút Lời Chúa)
“Tôi là ánh sáng thế gian” (8.4.2019
– Thứ hai, sau Chúa Nhật V Mùa Chay)
1. “Tôi là ánh sáng thế gian”
Khi nghe Đức Giê-su nói: “Tôi là ánh sáng thế gian”, những người
Pha-ri-sêu không tin là thật, vì không có ai làm chứng cho Người. Thật vậy, họ
nói: “Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của ông không thật!” Để trả lời,
Đức Giê-su không dựa vào lời chứng của bất cứ ai, nhưng chỉ dựa vào lời nói của
chính mình và lời của Chúa Cha:
Tôi có làm chứng cho chính mình đi nữa, thì lời chứng của tôi vẫn là chứng
thật, bởi vì tôi biết tôi từ đâu tới và đi đâu.
(c. 14)
Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng
cho tôi.
(c. 18)
Cũng như khi nói về căn tính « Người Con » của Ngài, về tương
quan duy nhất và đồng nhất của Ngài với Thiên Chúa (x. Ga 5, 17-30), Đức Giê-su
không dựa vào bất cứ văn bản Kinh Thánh nào hay lời chứng của bất cứ ai, kể cả
ngôn sứ Gioan Tẩy Giả (x. Ga 5, 31-47). Ngài chỉ khẳng định mình « cách
không không » như thế thôi. Tại sao vậy ? Đơn giản, vì đó là chân
lí liên quan đến ngôi vị không có bằng chứng nào khác ngoài chính mình. Muốn
nghiệm xem có là thật hay không, thì không có cách nào khác, là đến gặp gỡ, đón
nhận, là sống với và sống nhờ ; tương tự để biết trái soài thơm ngon hay
không, người ta chỉ có thưởng thức trực tiếp mà thôi !
Và bởi vì Người từ Thiên Chúa mà đến, nên Người chỉ có thể được làm chứng
bởi chính Thiên Chúa mà thôi, như Người đã nói : « Chúa Cha Đấng đã
sai tôi cũng đã làm chứng cho tôi » (Ga 5, 37). Điều này có nghĩa
là, Chỉ có Đấng hoàn hảo mới có thể làm chứng và mặc khải Đấng
hoàn hảo. Vì thế, chính khi chúng ta ước ao Thiên Chúa Thiên Chúa, chúng ta
sẽ được dẫn đến với Đức Kitô ; chính khi chúng ta say mê Tuyệt Đối và những
gì cao quí, hướng về Tuyệt Đối, chúng ta sẽ nhận ra sự Tuyệt Đối nơi Đức Ki-tô.
Đức Ki-tô dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa và Thiên Chúa dẫn chúng ta đến
với Đức Ki-tô ! Như có lần Đức Giê-su nói, chỉ có con cái sự khôn ngoan mới
nhận ra Đấng Khôn Ngoan mà thôi. Điều này, có vẻ « luẩn quẩn », nhưng
trong những gì liên quan đến Thiên Chúa, chúng ta không có cách nào khác. Như vị
hiền sĩ xác tín trong sách Huấn Ca :
Người đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng,
để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người.
để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người.
(Hc 17, 8)
2.
Lời chứng của
Chúa Cha
Sau khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giê-su tuyên bố điều tương tự:
“Tôi là bánh trường sinh” (Ga 6, 35). Và để đón nhận sự thật này, Đức Giê-su mời
gọi người nghe để cho mình được Chúa Cha lôi kéo: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu
Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (c. 44), “ai nghe và đón
nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi” (c. 45; 65).
Chúa Cha lôi kéo như thế nào, đó là “Công trình của Người”; chúng ta có
thể nhìn lại đời mình, từ lúc được hình thành trong bụng mẹ (x. Tv 139) cho đến
bây giờ, nhất là làm sao chúng ta có thể đến được với Đức Giêsu với tư cách là
tu sĩ, môn đệ của Đức Ki-tô, khi ấy chắc chắn chúng ta sẽ rất kinh ngạc. Công
trình Chúa Cha ở đâu thì giáo huấn của Người ở đó; vấn đề là chúng ta có nghe
ra và đón nhận hay không. Nhưng giáo huấn của Thiên Chúa được ban cho con người
ở đâu và như thế nào?
Trước hết, giáo huấn của Thiên Chúa nằm ngay trong bản tính của con người,
bởi vì con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa; và hình ảnh này được
biểu lộ ngang qua bản tính hướng về sự thiện, tình yêu không cùng và sự sống
viên mãn. Đó chính lòng ước ao Thiên Chúa, Nguồn Sự Thiện, Tình Yêu và Sự Sống,
dù con người ý thức hay không ý thức.
Giáo huấn của Chúa Cha, có thể nói, còn được “ghi âm” ở trong sáng tạo
(x. Tv 8; 19; 104; 139), được ghi âm trong ơn huệ sự sống và trong ơn huệ lương
thực (x. St 1, 29). Trong thư gởi giáo đoàn Roma, thánh Phao-lo đặc biệt nhấn mạnh
đến cách giáo huấn này của Chúa Cha, đến độ người ta không thể tự bào chữa được:
“Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền
năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ,
trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó,
họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay
cảm tạ Người cho phải đạo” (Rm 1, 20-21)
Ngoài ra, giáo huấn của Chúa Cha cũng được “ghi âm” trong lịch sử, bởi vì
lịch sử của Israel, lịch sử của nhân loại và lịch sử của từng người chúng ta đều
là lịch sử thánh. “Thánh” ở đây, không phải là không tì vết, nhưng ngược lại,
là đầy tì vết và những thăng trầm, nhưng vẫn được Thiên Chúa “bao bọc cả sau lẫn
trước” (Tv 139, 5) và dẫn dắt. Như ông Giuse nói với các anh: “Đừng sợ! Tôi đâu
có thay quyền Thiên Chúa! Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa
lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một
dân đông đảo” (St 50, 20).
3.
Đi theo Đức Ki-tô
Ánh Sáng
Vì thế, chúng ta đừng, như những người Pha-ri-sêu, đòi “biết” Người là
ánh sáng, bằng cách chờ đợi Người chứng minh hay người khác chứng minh cho
chúng ta, rồi mới đi theo, mới đón nhận Người vào trong cuộc đời của chúng ta.
Bởi vì, ngay sau khi nói “Tôi là ánh sáng thế gian”, Đức Giê-su nói về kinh
nghiệm đi theo Người:
Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng
đem lại sự sống.
(c. 12)
Chính khi đi theo Đức Ki-tô, chúng ta sẽ thấy mình ở trong ánh sáng mang
lại sự sống, bởi vì Người là hiện thân của ơn huệ, tha thứ, đón nhận, bao dung,
thương xót, của tình yêu nhưng không, tình yêu đến cùng. Không đi theo Người,
chúng ta sẽ tất yếu bị bóng tối xâm chiếm, như lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói,
trong bài giảng đầu tiên: “Khi anh em không tuyên xưng Đức Giêsu Kitô, anh em
tuyên xưng tính trần tục của ma quỷ, sự trần tục của ma quỷ”, đó là ham muốn,
nghi ngờ, ghen tị, gian dối, lên án, loại trừ, bạo lực…
Chính với kinh nghiệm đích thân đi theo Đức Ki-tô, chúng ta mới có thể
làm chứng rằng, Người là ánh sáng, nhưng không phải để buộc người khác phải chấp
nhận đó là sự thật, nhưng để mời gọi đi theo Đức Ki-tô và cảm nhận đích thân
Người là ánh sáng, đi theo Người sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng trong
ánh sáng mang lại sự sống.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG TƯ
Chia Sẻ Kinh Nghiệm
Riêng Của Mình Cho Người Khác
“Thiên Chúa đã nâng Đức
Giêsu dậy, và tất cả chúng tôi làm chứng về điều đó” (Cv 2,32).
Chứng từ của đức tin về
Chúa Phục Sinh là một mối dây gắn kết tất cả các thành viên của Dân Thiên Chúa
lại bằng một cách thế đặc biệt. Công Đồng đã đúc kết tiếng gọi này thành một lời
hiệu triệu rõ ràng cho tất cả mọi giáo dân. Công Đồng tuyên bố rằng sứ mạng này
đúng thực thuộc về mọi người giáo dân, do họ đã tháp nhập vào Đức Kitô qua Phép
Rửa: “Mỗi người giáo dân phải là một chứng nhân cho thế giới về sự sống lại và
về sự sống của Chúa Kitô” (GH 38).
Một cách thiết yếu,
làm chứng nghĩa là chứng thực về sự chắc chắn của một sự thật – và sự chắc chắn
này, một cách nào đó, là kết quả của kinh nghiệm bản thân. Một số phụ nữ đã là
những người chứng đầu tiên về cuộc Phục Sinh của Chúa (Mt 28,5-8). Khi họ đến cửa
mộ, họ không thấy Đức Giêsu, nhưng họ bắt đầu chắc chắn về sự Phục Sinh của Người
vì ngôi mộ trống rỗng và vì thiên thần nói với họ rằng Người đã sống lại. Đó là
cuộc hạnh ngộ nguyên sơ nhất của họ với mầu nhiệm Phục Sinh. Kinh nghiệm của họ
về Chúa càng đạt thêm giá trị khi Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ và các môn
đệ trên đường về Emmau.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 08/4
Đn 13,
1-9.15-17.19-30.33-62; Ga 8, 12-20.
LỜI SUY NIỆM: “Đức
Giêsu nói với người Do-thái: Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không đi
trong bóng tối, nhưng sẽ được ánh sáng đem lại sự sống.”
Chúa Giêsu đang cho chúng ta biết: Người chính là ánh sáng của Thiên Chúa đến với
loài người, Và Người cũng là ánh sáng mang lại sự sống cho loài người và Người
mời gọi tất cả hãy đi theo Người để được ánh sáng sọi rọi và nhận được sự sống.
“Mọi kẻ tin vào Người, thì không còn ở trong bóng tối.” Và Người cảnh báo: Nếu
những ai không đi theo Người, tin vào Người thì sẽ ở trong bóng tối và sự chết.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa là Ánh Sáng và là Sự Sống cho nhân loại. Xin cho chúng con
được bước đi trong ánh sáng và sự sống của Chúa. Nhờ đó giúp cho chúng con bước,
những bước đi trong an toàn ở đời này, và sẽ bước vào được cõi hiển vinh đời
sau.
Mạnh Phương
08 Tháng Tư
Cái Này Của Tôi
Hai hiền nhân đã
chung sống với nhau dưới một mái nhà trải qua nhiều năm tháng, nhưng không bao
giờ họ lớn tiếng cãi vã nhau. Một hôm kia, một người có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Ông
bảo bạn:
“Ít ra là một lần,
tôi muốn chúng ta phải cãi vã nhau, như chúng ta thấy thiên hạ thường làm”.
Ông kia không khỏi
ngạc nhiên về ý nghĩ kỳ lạ này, nhưng chiều bạn, ông ta hỡm hờ hỏi: “Cãi vã thế
nào được, ít ra chúng ta phải tìm ra một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ”.
Người có ý kiến phải cãi nhau đề nghị: “Này nhé, dễ lắm! Tôi để một viên đá ra
giữa sân và quả quyết viên đá này là của tôi. Ông phải phùng mang trợn mắt, đỏ
mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: làm gì có chuyện đó, viên gạch là của tôi. Rồi
sau đó chúng ta cãi nhau”.
Nói xong ông ta bèn
ra đường và tìm một viên đá to, khệ nệ khiêng ra đặt ở giữa sân. Ông bạn kia bắt
đầu ngay, ông ta lớn tiếng:
“Viên đá đó của tôi
mà mắc mớ gì ông lại mang ra giữa sân”. Ông kia cãi lại: “Viên đá này là của
tôi. Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?”. Nghe nói
thế, ông kia đáp:
“À phải rồi, viên
đá đó ông tìm được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần có đá để
làm gì”.
Nói xong, ông ta bỏ
đi làm việc khác. Thế là ý định cãi nhau của hai người không được thành tựu như
ý muốn.
Ngay từ thuở bập bẹ
nói được, con người đã học câu “Cái này là của tôi” để thể hiện quyền làm chủ của
mình. Quan sát các cuộc cãi nhau của trẻ con, chúng ta nghe thấy câu nói đó được
lặp đi lặp lại nhiều nhất.
Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hòa vẫn xoay xung quanh câu xác quyết “Cái này là của tôi”.
Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hòa vẫn xoay xung quanh câu xác quyết “Cái này là của tôi”.
Trẻ con tranh nhau hòn
bi, trái banh. Người lớn giành nhau địa vị, lợi lộc. Quốc gia tranh nhau đất đai,
hòn đảo, vùng ảnh hưởng, môi trường tiêu thụ.
Trẻ con dùng lời vã
cãi nhau, dùng thoi đánh đấm nhau. Người lớn dùng bạo lực, thủ đoạn thanh toán
nhau. Quốc gia dùng khí giới, bom đạn giết hại, tàn phá nhau.
Ngược lại bẩm tính
thích tranh nhau chiếm hữu này, sứ điệp của Giáo Hội luôn vang lên hai tiếng:
Chia sẻ.
Ở Hoa Kỳ, mỗi gia đình
công giáo được phân phát một hộp giấy, để trong suốt Mùa Chay, mỗi phần tử
trong gia đình bỏ vào đấy những đồng tiền tiết kiệm do bớt ăn, bớt uống, bớt
chi tiền vào những việc giải trí. Cuối Mùa Chay, những số tiền dành dụm đó được
đóng góp vào quỹ dành cho việc tài trợ những chương trình cứu tế xã hội trong
và ngoài nước.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Gioan 8:12-20
Thứ Hai 8 Tháng Tư,
2019
Thứ Hai Tuần V Mùa
Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa, bởi ân sủng
nhiệm màu của Chúa
Chúng con được giàu
thêm với mọi phúc lành,
Xin Chúa cho chúng con
có thể vượt khỏi những cách sống trước đây để đổi mới cuộc sống,
Để chúng con có thể sẵn
sàng cho vinh quang Nước Trời.
Chúng con cầu xin nhờ
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, Con của Chúa,
Đấng hằng sống hằng trị
cùng với Chúa và Chúa Thánh Thần, một Thiên Chúa,
đến muôn thuở muôn đời.
2. Phúc Âm
– Gioan 8:12-20
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với những người Biệt Phái rằng: “Ta là sự sáng thế gian. Ai
theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống”.
Những người Biệt Phái
nói: “Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực”.
Chúa Giêsu trả lời:
“Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ
Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới,
cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta
không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng
xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Đấng đã sai
Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì
xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Đấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm
chứng cho Ta nữa”.
Họ nói: “Cha của
ông đâu?”
Chúa Giêsu trả lời:
“Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì
cũng sẽ biết Cha Ta”. Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để kho tiền,
khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến
giờ Người.
3. Suy Niệm
Ai theo Ta sẽ không
đi trong tối tăm
Chúa Giêsu, sự hiện diện
vinh quang, phủ đầy đền thờ của Chúa, tại Giêrusalem, đang cho các khán giả
nghe thấy giáo huấn tuyệt vời và mầu nhiệm của Người về Con Đường phải đi theo,
con đường phải trải qua để đến ơn cứu rỗi. Chúng ta lưu ý rằng bài Tin Mừng
được bắt đầu bằng động từ “theo”, và toàn bộ Chương 8 được đánh dấu bởi động từ
“đi ra”, nói về Chúa Giêsu.
Như thế, chúng ta có
thể hiểu rằng Lời Chúa muốn mời gọi chúng ta lữ hành trên con đường cứu rỗi về
phía Ánh Sáng, đi theo bước chân của Chúa Giêsu, Đấng mà giống như Nơi Trú Ngụ
của Thiên Chúa, ra khỏi đền thờ (Ga 8:59 và E6dz 10:18), đi và sống trong lều
cùng với những người tị nạn của mọi thời đại, sống trong lòng của Chúa Cha.
Đây chính là lối của
con đường ánh sáng mà Chúa Giêsu mời gọi, đi cùng với Người, từ đền thờ đến
cùng Chúa Cha.
Chúng ta hãy nhìn xem,
những gì mà Lời của Tin Mừng chỉ cho chúng ta.
Ông tự làm chứng
cho mình…
Đây là lần đầu tiên
trong một chuỗi bảy lần xuất hiện của chữ “lời chứng” cùng với động từ tương ứng,
“làm chứng”: một chữ chính vững chắc và rất quan trọng mang đến một khía
cạnh quan trọng của luật Do Thái, đó là việc làm chứng là một hình ảnh quan trọng
và không thể thiếu trong lề luật của dân Do Thái. Còn có một điều nữa:
chữ người chứng trong ngôn ngữ Do Thái, ‘ed, được gạch dưới trong đoạn Kinh
Thánh đó, kết tạo nên lời tuyên xưng đức tin thiết yếu và quan trọng nhất như
chúng ta thấy trong lời kinh cầu hằng ngày trong sách Ngũ Thư, trong sách Đệ Nhị
Luật câu 6:4. Nó được gạch dưới bởi vì trong thánh kinh Do Thái câu này
được viết theo một cách riêng; nghĩa là âm tiết cuối cùng của chữ đầu tiên, động
từ shemah, lắng nghe, và âm tiết cuối cùng của chữ cuối cùng, tĩnh
từ echad, một, được viết bằng các chữ lớn hơn các chữ
khác. Hai chữ cuối cùng, ‘ayin và dalet, hợp
với nhau tạo thành chữ “lời chứng”, ‘ed.
Trong đoạn Tinh Mừng
này, chúng ta thấy mình đối mặt với một khởi điểm độc đáo và không thể nhầm lẫn:
cuộc hành trình của chúng ta hướng về Chúa Cha, cùng với Đức Giêsu, chỉ có thể
bắt đầu từ lời chúng của chúng ta, từ lòng tin tưởng yêu thương và vững chắc của
chúng ta vào Thiên Chúa, một Thiên Chúa và là Thiên Chúa duy nhất. Đây là
lời chứng của Chúa Giêsu. Đây là tiếng kêu của Chúa Giêsu, ngay tại đền
thờ Giêrusalem, tiếng kêu sẽ xé tan màn đêm của chúng ta, xé tan sự cứng lòng
tin của chúng ta.
Ta biết rõ Ta từ
đâu tới và đi về đâu…
Chúa Giêsu biết rõ điểm
khởi hành và điểm đến của cuộc hành trình này của chúng ta, xuyên qua màn đêm
hướng về ánh sáng. Trên thực tế, hai điểm trùng khớp, bởi vì cả hai
đều ở trong Chúa Cha, nhưng đối với chúng ta, chúng ta phải tìm kiếm chúng, xác
định chúng, và biến chúng thành của chúng ta.
Nhiều lần trong sách
Tin Mừng Gioan, chúng ta nghe Chúa Giêsu tuyên bố rằng Chúa Cha đã sai Người
(Ga 5:37; 6:44; 7:28; 12:49, cũng như những gì chúng ta tìm thấy trong
Chương 8 này). Chúa Cha là điểm khởi đầu của Ngài, là nơi bí mật của sự
tiến triển hướng về thế gian.
Vấn đề liên quan đến
nguồn gốc của Chúa Kitô rất nổi bật này luôn hiện hữu, luôn gây tranh luận, và
dường như không có câu trả lời: Ông từ đâu mà đến? (Ga 19:9), khi chúng
ta nghe thấy từ môi miệng của tổng trấn Philatô.
Chúa Giêsu mặc khải
cho chúng ta nơi Người đến từ nơi nào, nhưng lòng chúng ta vẫn kiếm tục tìm kiếm,
muốn đi tìm lại sự khởi đầu này, nơi mà chúng ta cũng có thể thực sự được tái
sinh, có sự khởi đầu của riêng chúng ta.
Theo cách tương tự,
Chúa Giêsu mặc khải mầu nhiệm cuộc xuất hành của chính Người. Người nói với
chúng ta về điểm đến của cuộc hành trình của Người trong thế gian này.
Người nói rằng: “Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 16:10).
Do đó, chúng ta có tất
cả các tọa độ cần thiết cho cuộc hành trình của mình: từ Chúa Cha đến
Chúa Cha, trong cùng một cách mà nó đã dành cho Chúa Giêsu.
Cha của ông đâu?
Lời cầu nguyện này, việc
tìm kiếm của tâm can này, vẫn còn hiện hữu trong chúng ta: nó không bao
giờ dập tắt và không bao giờ muốn bị dập tắt. Đây là lòng khát khao phải
hướng dẫn chúng ta, thúc đẩy chúng ta trên cuộc hành trình, làm cho trái tim của
chúng ta bừng cháy, trong sự hiệp thông với Chúa Giêsu. Người là khuôn mặt
sống động của Chúa Cha.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Tôi có ước ao đi theo Chúa Giêsu không?
Và tôi có muốn bắt đầu ngay lúc này không?
– Tôi có đã sẵn sàng từ bỏ chính mình để làm chứng
như Chúa Giêsu không?
5. Lời nguyện
kết
Như nai rừng mong mỏi
tìm về suối nước trong,
Hồn chon cũng trông
mong được gần Ngài, lạy Chúa.
Linh hồn con khao khát
Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến
vào bệ kiến Tôn Nhan?
Châu lệ là cơm bánh
đêm ngày,
Khi thiên hạ thường
ngày cứ hỏi:
“Này Thiên Chúa ngươi
đâu?”
Tôi thả hồn miên man
tưởng nhớ
Thuở tiến về lều thánh
cao sang đến tận nhà Thiên Chúa,
Cùng muôn tiếng reo mừng
tán tạ,
Giữa sóng người trẩy hội
tưng bừng.
(Tv 41)



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét