10/04/2019
Thứ tư tuần 5 Mùa Chay
BÀI ĐỌC I: Đn 3, 14-20.
91-92. 95
“Người đã sai thiên thần của
Người đến giải thoát các tôi tớ Người”.
Trích sách Tiên tri
Đaniel.
Trong những ngày ấy,
vua Nabucôđônôsor nói rằng: “Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi
không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không? Vậy nếu các
ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển
sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu
các ngươi không chịu sấp mình thờ lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa
cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ cứu thoát các ngươi khỏi tay ta”. Sidrach, Misach
và Abđênagô trả lời với vua Nabucôđônôsor rằng: “Tâu lạy vua, chúng tôi không cần
trả lời cùng vua về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát
chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa
chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ
các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên”.
Bấy giờ vua
Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach, Misach và
Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và truyền lệnh các
tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và Abđênagô, và ném vào lò lửa
cháy bừng.
Bâý giờ vua
Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: “Chớ thì
ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?” Các ông trả lời với vua rằng:
“Tâu lạy vua, thật có”. Vua nói: “Đây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại
giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên
Chúa”. Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: “Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và
Abđênagô, Đấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy
Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ
không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Đn 3, 52. 53.
54. 55. 56
Đáp: Chúa đáng ca
ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng:
1) Lạy Chúa là Thiên
Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng
muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng
muôn đời. – Đáp.
2) Chúa đáng chúc tụng
trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự
lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.
4) Chúc tụng Chúa, Đấng
nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn
đời. – Đáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự
trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: “Ta là sự
sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời”.
PHÚC ÂM: Ga 8, 31-42
“Nếu Chúa Con giải thoát các
ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta,
các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải
thoát các ngươi”. Họ thưa lại Người: “Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa
bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các ngươi sẽ được tự do’?”. Chúa
Giêsu trả lời rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì
làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn
trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do
thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết
Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy
nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các
ngươi”. Họ đáp lại: “Cha chúng tôi chính là Abraham!” Chúa Giêsu nói: “Nếu thực
các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng
các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta
nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của
cha các ngươi!” Họ lại nói: “Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng
tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu nói: “Nếu Thiên Chúa là Cha các
ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự
mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”. Đó là lời Chúa
SUY NIỆM : Ðức Tin Chân
Chính
Trong bài Tin Mừng vừa
đọc lại trên đây, số thính giả nghe Chúa Giêsu nói được thu gọn lại trong vòng
những kẻ đã tin Người, và Chúa Giêsu đã khởi đi từ lòng tin này để mời gọi họ
tiến xa hơn nữa bằng cách ở lại trong Lời của Người, nghĩa là bằng cách sống những
gì Người truyền dạy để trở thành môn đệ của Người, và một khi trở thành môn đệ
của Người, họ sẽ bước đi trong sự thật và được sự thật giải phóng khỏi vòng mê
muội của tội lỗi. Tuy đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng những thính giả này vẫn chưa
thay đổi được lối suy nghĩ chỉ dựa trên đời sống trần tục của họ. Khi nghe Chúa
Giêsu nói đến việc giải phóng, họ nghĩ ngay tới tình trạng của những người nô lệ
phải làm tôi mọi cho chủ, mà họ thì đang làm chủ chính mình, họ có làm tôi mọi
cho ai đâu mà cần được giải phóng. Xét về mặt trần thế thì họ suy nghĩ rất
đúng, nhưng Chúa Giêsu đâu muốn đề cập đến tình trạng nô lệ hay tự do về mặt xã
hội. Người muốn nói với họ về sự tự do đích thực của những người thoát khỏi
vòng kiềm tỏa của tội lỗi.
Sứ mạng Chúa Cha trao
phó cho Người là xóa bỏ quyền thống trị của sự dữ trên mặt đất này và mang lại
cho loài người cuộc sống tự do, xứng với danh hiệu con cái Thiên Chúa. Họ xưng
mình là con cái ông Abraham, là dòng dõi của một dân tộc được giải phóng khỏi
ách nô lệ ngoại bang. Thế nhưng, cuộc sống của họ đang bị ràng buộc bởi vô số
xiềng xích của ma quỉ, họ tự do bên ngoài, còn bên trong thì vẫn nô lệ cho sự dữ,
cho tội lỗi. Sự thừa kế dòng dõi ông Abraham không đương nhiên biến họ thành những
con người lương thiện công chính. Muốn trở nên công chính, họ cần phải làm một
cuộc đổi đời, phải tẩy trừ cái ác ra khỏi lòng mình và cương quyết tiến lên
trên đường trọn lành, có như thế, họ mới thực sự trở nên con cái ông Abraham và
là những con người tự do đích thực.
Phần chúng ta đây, chúng
ta là những người mang danh hiệu Kitô, là những người tự nhận mình là con cái
Thiên Chúa. Tuy nhiên, danh xưng không làm nên thực chất, cái áo không làm nên
thầy tu, chỉ có danh nghĩa bên ngoài và thậm chí ngay cả những việc đạo đức bên
ngoài mà thôi, thì vẫn chưa làm nên một đời sống đức tin đích thực. Ðức tin
chân chính được thể hiện qua những việc làm công chính. Người ta thường nói
"xem quả biết cây", chúng ta đã suy nghĩ, nói năng, hành động như thế
nào trong cuộc sống hàng ngày.
Lạy Chúa, nhiều lúc
con cảm thấy yên tâm vì mình là người có đạo. Con có đạo như có một cuốn sách
hay có một cái máy truyền hình, khi nào con cần hoặc khi nào con thích thì con
mở ra xem, khi nào không cần thì con để yên ở đó, nhưng Chúa đâu muốn những người
chỉ có đạo mà không sống đạo.
Lạy Chúa, xin giúp con
can đảm lựa chọn đứng vào hàng ngũ con cái Thiên Chúa, một sự lựa chọn dứt
khoát dẫn tới việc dấn thân quyết liệt cho điều mình lựa chọn. Xin cho con đừng
chỉ hài lòng với danh xưng là người có đạo mà thôi, nhưng phải là một người sống
đạo thực sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần V MC
Bài đọc: Dan
3:14-20, 91-92, 95; Jn 8:31-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật giải
phóng con người.
Con người thường không
muốn người khác vạch ra những điều sai trái của mình, nhất là đối với những người
có quyền thế. Nhưng dù sự thật mất lòng nhưng có sức mạnh giải phóng con người.
Nhiều người tưởng mình đang sở hữu sự thật, nhưng thực ra họ đang làm nô lệ cho
sự giả trá. Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm vào việc con người phải tìm ra sự
thật, vì sự thật sẽ giải phóng con người.
Trong Bài Đọc I, Vua
Nebuchadnezzar nghĩ các thần do tay mình dựng nên là thần thật nên bắt ba trẻ
Do-thái phải sụp lạy chúng khi nhạc khí xướng lên; nếu không sẽ quăng chúng vào
lò lửa đang cháy. Ba trẻ Do-thái từ chối vì họ nhất quyết chỉ thờ lạy một mình
Thiên Chúa mà thôi. Khi chính mắt nhìn thấy uy quyền của Thiên Chúa từ lò lửa,
chính vua Nebuchadnezzar đã khiêm nhường thú nhận: chỉ có Thiên Chúa của ba trẻ
Do-thái thờ là Thiên Chúa thật. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn chỉ cho người
Do-thái thấy họ thực sự không phải là con cái của Abraham, vì họ không làm những
gì tổ-phụ Abraham đã làm: tin Thiên Chúa và đón tiếp các ngôn sứ Ngài gởi tới.
Họ không tin những gì Ngài nói và đang tìm cách giết Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ba trẻ Do-thái làm chứng cho sự thật.
1.1/ Ba trẻ Do-thái từ chối
không thờ thần nào khác ngòai Thiên Chúa:
Vua Nebuchadnezzar đe dọa ba trẻ: Này Shadrach, Meshach, và Abednego, nếu các
ngươi không phụng sự các thần của ta và không chịu thờ lạy pho tượng vàng ta đã
dựng nên, tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, để xem
có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?”
Ba trẻ Do-thái can đảm
nói với Vua: “Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này. Nếu Thiên Chúa
chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi
lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. Còn nếu Người không cứu, thì xin
đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng
không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!” Vua tức giận, lên tiếng truyền
đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy lần. Rồi vua ra lệnh cho những người lực lưỡng
nhất trong quân đội của vua trói ba trẻ và quăng họ vào lò lửa đang cháy phừng
phực.
1.2/ Vua Nebuchadnezzar
nhận ra Thiên Chúa của Shadrach, Meshach, và Abednego.
(1) Vua nhận thấy sự
khác lạ xảy ra trong lò lửa: Vua Nebuchadnezzar ngạc nhiên đứng bật dậy và cất
tiếng nói với các quan cố vấn: “Chẳng phải chúng ta đã quăng ba người bị trói
vào lửa sao?” Họ đáp rằng: “Tâu đức vua, đúng thế!” Vua nói: “Nhưng ta thấy có
bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, và dáng vẻ người
thứ tư giống như con của thần minh.”
(2) Vua tin vào Thiên
Chúa của ba trẻ: Khi nhận ra Thiên Chúa đã gởi thiên thần đến cởi trói cho ba
trẻ để họ đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, Vua Nebuchadnezzar cất tiếng
nói: “Chúc tụng Thiên Chúa của Shadrach, Meshach, và Abednego, Người đã sai
thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng vào Người.
Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy một thần
nào khác ngoài Thiên Chúa của họ.”
2/ Phúc Âm: Sự thật sẽ giải phóng các ông.
2.1/ Chúa Giêsu là sự thật
của Thiên Chúa.
(1) Sự thật giải
phóng: Đức Giêsu nói với những người Do-thái đã tin Người: “Nếu các ông ở lại
trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và
sự thật sẽ giải phóng các ông.” Để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, họ phải tin
những lời Ngài nói là sự thật; và những lời này sẽ giải phóng họ khỏi những gì
sai trái. Lúc đó họ sẽ có tự do đích thực, vì họ đã biết sự thật. Vì thế, có một
sự liên hệ chặt chẽ giữa: ở lại trong lời Chúa Giêsu, trở thành môn đệ, sự thật,
và tự do đích thực.
Những người Do-thái
không hiểu lời Chúa Giêsu nói, nhưng tự ái vì Ngài ám chỉ họ làm nô lệ. Họ đáp:
“Chúng tôi là giòng dõi ông Abraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ.
Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?” Thực sự, người Do-thái đã từng làm
nô lệ cho Ai-cập, Assyria, Babylon, và Rome; nhưng ý họ muốn nói: họ thuộc
giòng dõi Abraham, dân của Thiên Chúa.
(2) Chúa Giêsu giải
phóng con người khỏi tội: Điều Chúa Giêsu muốn nói là họ đang làm nô lệ cho tội:
hễ ai phạm tội là làm nô lệ cho tội. Có một sự khác biệt giữa con cái và nô lệ:
con cái được ở trong nhà luôn mãi, nô lệ không được như vậy vì có thể bị bán và
tống cổ bất cứ lúc nào. Chúa Giêsu muốn cảnh cáo người Do-thái: các ông phải
coi chừng, các ông hãnh diện mình là con cái của Abraham; nhưng nếu các ông phạm
tội, các ông trở thành nô lệ, và có thể bị tống cổ ra ngòai.
Nếu họ tin vào Chúa Giêsu,
họ sẽ được giải phóng khỏi tội, và họ mới thực sự được tự do; nhưng người
Do-thái chẳng những không tin vào lời Chúa Giêsu, lại còn tìm cách giết Ngài.
Chúa Giêsu phân biệt Cha của Ngài và cha của người Do-thái. Họ hãnh diện tuyên
xưng: Cha chúng tôi là Abraham.
2.2/ Tổ-phụ Abraham tin
vào Thiên Chúa: Chúa Giêsu không tin lời họ
nói; vì nếu họ là con cháu Abraham, họ có cùng Cha với Ngài vì Abraham tin vào
Thiên Chúa. Ngài muốn nói với họ, đức tin không phải chỉ tuyên xưng ngòai miệng,
nhưng phải chứng tỏ bằng việc làm: “Giả như các ông là con cái ông Abraham, hẳn
các ông phải làm những việc ông Abraham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm
giết tôi, người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa.
Điều đó, ông Abraham đã không làm. Còn các ông, các ông làm những việc cha các
ông làm.”
Abraham đón tiếp các sứ
giả của Thiên Chúa (Gen 18:1-8), chứ không tìm cách giết họ như người Do-thái
đang tìm cách giết Chúa Giêsu. Nếu các ông tìm cách giết người được Thiên Chúa
sai đến, các ông không phải là con cái Thiên Chúa, cũng chẳng phải là con cái của
tổ-phụ Abraham.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải học
cho biết sự thật bằng bất cứ cách nào, vì chỉ có sự thật mới giải phóng và cho
chúng ta sự tự do đích thực.
– Bao lâu chúng ta còn
phạm tội là làm nô lệ cho tội. Chỉ có Đức Kitô mới có thể giải phóng chúng ta
khỏi làm nô lệ cho tội. Chúng ta phải tin và làm những gì Ngài dạy.
– Đức tin không chỉ là
những gì chúng ta hãnh diện tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải biểu tỏ bằng việc
làm. Chúng ta không được cứu bằng chỉ tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải thực
hành những gì Chúa dạy và phải can đảm làm chứng cho Ngài bằng hành động.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
10/04/2019 – THỨ TƯ TUẦN 5 MC
Ga 8,31-42
SỰ THẬT SẼ GIẢI THOÁT ANH EM
Đức Giê-su nói: “Nếu các ở lại trong lời của tôi, thì các ông
thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.”
(Ga 8,31-32)
Suy niệm: Một phóng viên có lần hỏi
thánh giáo hoàng Gio-an Phao-lô II ngài thích câu nào nhất trong sách Tin Mừng.
Người ta cứ ngỡ ngài sẽ trả lời: Anh em hãy yêu thương nhau, hay một câu tương
tự. Thế nhưng, Đức Thánh Cha đã trả lời: Sự thật sẽ giải thoát anh em. Vậy thì
sự thật nào sẽ giải thoát chúng ta? Thưa, đó là sự thật về Thiên Chúa và sự thật
về con người. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu, Đấng yêu thương nhân loại đến nỗi
ban Con Một cho thế gian; còn người Con Một, Đức Giê-su Ki-tô, đã loan báo Tin
Mừng về Thiên Chúa, hiến thân chết cho nhân loại, sống lại để đưa nhân loại đến
hạnh phúc muôn đời, và cử Thánh Thần đến hướng dẫn nhân loại đêm ngày.
Mời Bạn: Sự thật về con người có
liên hệ mật thiết với sự thật về Chúa: chúng ta được Chúa yêu thương hơn chúng
ta tưởng nghĩ nhiều. Nhận diện đúng sự thật về mình: được Chúa yêu thương như vậy,
bạn đã đáp trả thế nào? Hiện nay bạn đang sống trong tình trạng nào trong tương
quan với Chúa và anh em?
Chia sẻ: Tôi có bao giờ nhận diện sự thật về mình chưa? Nhận diện
rồi, tôi sẽ làm gì để đổi mới?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tôi sẽ dành vài
phút để lượng giá lại những việc tốt, xấu mình làm trong ngày, để ngày mai sống
đẹp lòng Chúa hơn nữa.
Cầu nguyện: Như người mù ngồi
bên vệ đường, xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Xin cho con thấy bản
thân với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy. Xin cho con
thật sự muốn để ánh sáng Chúa chiếu dãi vào bóng tối của con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Sự thật sẽ giải phóng các ông (10.4.2019
– Thứ Tư Tuần 5 Mùa Chay)
Suy Niệm
Những dân tộc bị đô hộ nhiều năm mới hiểu được giá trị của giải phóng.
Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị của tự do.
Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu chè,
mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ của chúng.
Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều dạng nô lệ mới.
Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh tế của mình,
và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích kỷ.
Tự do mãi mãi là khát vọng của con người.
Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được thật sự tự do.
Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị của tự do.
Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu chè,
mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ của chúng.
Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều dạng nô lệ mới.
Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh tế của mình,
và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích kỷ.
Tự do mãi mãi là khát vọng của con người.
Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được thật sự tự do.
Những người Do-thái đang tranh luận gay gắt với Đức Giêsu.
Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham,
nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai bao giờ (c. 33).
Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác.
Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có tự do (c. 34).
Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông Abraham.
Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu.
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi…các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32).
Tự do đến từ chính con người của Ngài :
“Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực sự tự do” (c.36).
Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham,
nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai bao giờ (c. 33).
Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác.
Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có tự do (c. 34).
Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông Abraham.
Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu.
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi…các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32).
Tự do đến từ chính con người của Ngài :
“Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực sự tự do” (c.36).
Những người Do-thái cố chấp, chỉ tìm cách giết Đức Giêsu (cc. 37, 40).
Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ Thiên Chúa (c. 40).
Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối trá và sát nhân.
Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được tự do thực sự.
Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những tính toán ích kỷ hẹp hòi
mà tự sức mình không sao thoát ra được.
Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình được thanh thoát như Ngài.
Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ Thiên Chúa (c. 40).
Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối trá và sát nhân.
Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được tự do thực sự.
Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những tính toán ích kỷ hẹp hòi
mà tự sức mình không sao thoát ra được.
Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình được thanh thoát như Ngài.
“Giả như các ông là con cái ông Abraham,
hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39).
Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42).
Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu
thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham hay con cái Thiên Chúa.
Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại trừ Đức Giêsu.
hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39).
Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42).
Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu
thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham hay con cái Thiên Chúa.
Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại trừ Đức Giêsu.
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng đã tuyên xưng
từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa,
từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã tuyên xưng,
để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận.
từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa,
từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã tuyên xưng,
để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.
Là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
Và không cho chúng con tự do ngước lên cao
Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.
Là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
Và không cho chúng con tự do ngước lên cao
Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
Nhờ cảm nghiệm được phần nào
Sự phong phú của kho tàng trên trời.
Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
Nhờ cảm nghiệm được phần nào
Sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
Bán tất cả những gì chúng con có,
Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.
Bán tất cả những gì chúng con có,
Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
Trước những lời mời gọi của Chúa,
Không bao giờ ngoảnh mặt
Để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen
Trước những lời mời gọi của Chúa,
Không bao giờ ngoảnh mặt
Để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG TƯ
Được Thánh Thần Làm
Cho Can Đảm
Khi các Tông Đồ và các
môn đệ của Chúa nhận lãnh Thánh Thần, họ bắt đầu lên tiếng nói công khai về Đức
Kitô. Họ loan báo Tin Mừng cho người ta, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem. Trong lời
loan báo của họ, họ qui chiếu đến một bố cục các dữ kiện mà ai cũng biết – đó
chính là Kerygma, hay sứ điệp Tin Mừng căn bản.
“Anh em đã nộp Người
và đã chối bỏ Người trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh
em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát
nhân” (Cv 3,13-14). Đó là những lời của Phê-rô nói với cư dân Giê-ru-sa-lem.
Sau khi đề cập đến cuộc
thương khó của Đức Kitô, Phê-rô bắt đầu mô tả cuộc Phục Sinh: “Anh em đã giết Đấng
khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết – về
điều này, chúng tôi xin làm chứng” (c.15).
Phê-rô là người duy nhất
lên tiếng nói. Nhưng ông nói không chỉ nhân danh chính mình mà là nhân danh
toàn thể nhóm Tông Đồ. Ông nói với đám đông: “Chúng tôi là những chứng nhân”.
Và ông thêm: “Giờ đây, thưa anh em, tôi biết rằng anh em đã hành động vì không
hiểu biết – và những người lãnh đạo của anh em cũng vậy” (Cv 3,17).
Sau khi mô tả các biến
cố và đưa lời chứng về cuộc Phục Sinh, Phê-rô bắt đầu giải thích một số điều
trong Cựu Ước. Ông giải thích Đức Kitô trong tư cách là Đấng Mê-si-a đã hoàn
thành những điều nói trong các Sách Luật và các Sách Ngôn Sứ như thế nào. Chính
Đức Kitô đã chuẩn bị cho các môn đệ của Người đưa ra một sự giải thích như thế
về cái chết và cuộc Phục Sinh của Người. Chúng ta có chứng cứ về điều này trong
Tin Mừng Luca. Chúa Phục Sinh đã nói với các môn đệ: “Thầy đã nói những lời này
với các anh em khi hầy còn ở với anh em: mọi sự đã được viết về Thầy trong luật
Mô-sê, trong các ngôn sứ, và trong thánh vịnh đều phải được ứng nghiệm” (Lc
24,44).
“Có lời Kinh Thánh
chép rằng Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại,
và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem,
kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều
này” (Lc 24,46-48).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 10/4
Đn 3, 14-20.91-92.
95; Ga 8, 31-42.
LỜI SUY NIỆM: “Đức
Giêsu nói với những người Do-thái đã tin vào Người: Nếu các ông ở lại trong lời
của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ
giải phóng các ông.”
Điều này trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh cho chúng ta biết thêm: “Chân lý của
Thiên Chúa được tỏ hiện cách trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô. Chính Người, Đấng
tràn đầy ân sủng và chân lý… Mọi kẻ tin vào Người, thì không còn ở trong bóng tối.
Môn đệ của Chúa Giêsu ở trong lời Người, để nhận biết chân lý và có sức giải
thoát và thánh hóa. Bước theo Chua Giêsu là sống bởi Thánh Thần chân lý. Đấng
Chúa Cha sai đến nhân danh Người, và là Đấng sẽ dẫn đưa đến “sự thật toàn vẹn…””
(GL 2466)
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa ban cho chúng con ân sủng của Chúa để trong cuộc sống
chúng con luôn thành thật trong các hành vi và lời nói của mình, tránh xa lối sống
hai mặt, dối trá và đạo đức giả. Để được đẹp lòng Chúa và đẹp lòng người .
Mạnh Phương
10 Tháng Tư
Tấm Gương
Tại một ngôi làng
nhỏ ở ven biển Ái Nhĩ Lan, có một cặp vợ chồng ngư phủ nghèo, nghèo đến độ
trong nhà không có được một cái gương soi mặt.
Trong làng chỉ vỏn
vẹn có một cái quán nhỏ cung cấp lương thức và những gì cần thiết cho việc đánh
cá. Một ngày nọ, người chủquán ngạc nhiên vô cùng khi bắt gặp người ngư phủ già
cầm lấy một vật gì đó trong tay, vừa xoay xung quanh, vừa thổn thức. Rồi từ đó,
người chủ quán nhận thấy người đánh cá trở lại quán của mình thường xuyên hơn
và cũng lập lại ngần ấy động tác. Ráng theo rình rập để lắng nghe những gì người
ngư phủ già than thở, người chủ quán mới thấy ông già đưa cái gương soi mặt và
thều thào: “Ba ơi, ba ơi”.
Thì ra, cả đời người
ngư phủ già chưa bao giờ nhìn thấy mặt mình trong gương. nhìn thấy mặt mình
trong gương lần đầu tiên, ông ta tưởng đó là cha của mình.
Người chủ quán quá
cảm động, đã tặng cho ông già tấm gương. lão hăm hở mang đi, và từ đó, cứ mỗi lần
rảnh rỗi, lão đưa tấm gương ra, nhìn vào và nói chuyện với cha mình.
Tất cả chúng ta đều sống
cho một gương mặt. Và gương mặt duy nhất mà chúng ta không bao giờ thấy đó là
gương mặt của chính chúng ta. Chúng ta có thể hiểu biết tất cả, nhìn thấy tất cả
trừ gương mặt của chúng ta. Và ngay cả trong một tấm gương, chúng ta chỉ nhìn
thấy mình theo một hình ảnh đảo lộn. Chúng ta chỉ có thể biết mình, chúng ta chỉ
có thể khám phá được chính mình nhờ những người khác vànhờ chính hình ảnh mà họ
có thể cho chúng ta thấy.
Vậy đâu là tấm gương
đích thực để chúng ta có thể biết mình hoặc biết mình phải như thế nào?
Chúng ta đừng vội vã
cười hai vợ chồng ngư phủ trong câu chuyện trên đây… Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể
làm người, có lẽ họ là người có lý, bởi vì họ biết nhìn thấy trong gương một
cái gì khác hơn chính mình. Nói như Thánh Phaolô: “Phần chúng ta, chúng ta không
che mặt, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa, như một tấm gương, vì chúng
ta được thấy mình biến đổi nên giống hình ảnh ấy, mỗi lúc một rực rỡ hơn, bởi
vì quyền phép Thánh Linh của Chúa”.
Mỗi người Kitô phải là
tấm gương phản chiếu chính hình ảnh của Ðức Kitô. Cuộc sống của họ phải là một
phản ảnh của cuộc sống Ðức Kitô.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Gioan 8:31-42
Thứ Tư 10 Tháng Tư,
2019
Thứ Tư Tuần V Mùa
Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa, là Thiên
Chúa chúng con,
Chúa gọi chúng con để
trở thành người tự do.
Xin hãy giúp chúng con
luôn luôn thưa với Chúa
Một lời đáp trả của tự
do.
Được tự do bởi lời giải
thoát và cái chết của Đức Kitô,
Nguyện xin cho chúng
con không bao giờ
Tự trói buộc mình vào
những sợi dây xích của chính mình nữa,
Dây trói của tội ích kỷ
và những quyến luyến sai lạc.
Chúng con cầu xin nhờ
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm –
Gioan 8:31-42
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với những người Do Thái đã tin nơi Ngài rằng: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời
Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải
thoát các ngươi”. Họ thưa lại Người: “Chúng tôi là con cháu
Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các ngươi
sẽ được tự do’?”
Chúa Giêsu trả lời rằng:
“Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho
tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong
nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do
thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm
giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những
điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi
đã thấy nơi cha các ngươi”. Họ đáp lại: “Cha chúng tôi chính là
Abraham!”
Chúa Giêsu nói:
“Nếu thực sự các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của
Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi
biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không
làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!” Họ lại nói:
“Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là
Thiên Chúa!”
Chúa Giêsu nói:
“Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa
mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”.
3. Suy Niệm
– Bài suy niệm về chương 8 của Tin Mừng Gioan tiếp tục
ngày hôm nay. Trong hình thức của các vòng tròn đồng tâm, thánh sử Gioan
đào sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa bao quanh con người của Chúa Giêsu. Nó
có vẻ giống như là một lời lặp đi lặp lại, bởi vì ông luôn nói về cùng một điểm.
Thực ra, nó là một điểm, nhưng mỗi lần ở một mức độ sâu sắc hơn. Bài Tin
Mừng hôm nay nói về chủ đề mối quan hệ của Chúa Giêsu với Abraham, Tổ Phụ của
Dân Thiên Chúa. Gioan cố gắng giúp các cộng đoàn hiểu được cách Chúa
Giêsu đặt mình trong toàn bộ lịch sử Dân Thiên Chúa. Ông giúp cho họ cảm
nhận được sự khác biệt hiện diện giữa Chúa Giêsu và người Do Thái, và cũng như
sự khác biệt giữa người Do Thái và những người khác, tất cả chúng ta đều là con
cái của Abraham.
– Ga 8:31-32: Sự tự do phát xuất từ lòng trung
thành với lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu khẳng định với người Do
Thái: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của
Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. Để trở
thành môn đệ của Chúa Giêsu thì cũng giống như mở lòng mình ra với Thiên
Chúa. Lời Chúa Giêsu chính là lời của Thiên Chúa. Chúng thông tri sự
thật, bởi vì chúng làm cho mọi việc được biết như chúng đang ở dưới mắt của Thiên
Chúa và không phải như dưới mắt của người Biệt Phái. Sau đó, trong Bữa Tiệc
Ly, Chúa Giêsu sẽ dạy điều tương tự cho các môn đệ.
– Ga 8:33-38: Là con cái của Abraham thì có
nghĩa gì. Người Do Thái phản ứng ngay lập tức: “Chúng tôi là con
cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các
ngươi sẽ được tự do’?” Chúa Giêsu lặp lại và xác nhận sự khác biệt giữa
người con và người nô lệ mà nói rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các
ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở
mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải
thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự.” Chúa Giêsu là người
con và ở mãi trong nhà Chúa Cha. Kẻ nô lệ thì không ở trong nhà Chúa Cha.
Sống ở ngoài nhà, ngoài nhà của Thiên Chúa có nghĩa là sống trong tội lỗi.
Nếu họ chấp nhận lời của Chúa Giêsu thì họ có thể trở thành con cái và được tự
do thực sự. Họ sẽ không còn là nô lệ nữa. Và Chúa Giêsu nói tiếp:
“Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta:
vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi.” Sự khác biệt thì rất rõ
ràng ngay tức thì: “Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn
các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi”. Chúa
Giêsu không cho họ quyền nói rằng họ là con cái của Abraham, bởi vì các hành động
của họ khẳng định điều trái ngược.
– Ga 8:39-41a: Con cái Abraham thì
làm công việc của Abraham. Họ quả quyết xác định rằng: “Cha chúng
tôi chính là Abraham!” như thể họ muốn trưng ra cho Chúa Giêsu thấy một tài liệu
về căn tính của họ. Chúa Giêsu lặp lại: “Nếu thực sự các ngươi là
con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các
ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự
Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của
cha các ngươi!” Giữa những lời này, Người ngụ ý rằng họ là con cái của
Satan (Ga 8:44). Người hàm ý rằng họ là những đứa con hoang.
– Ga 8:41b-42: “Nếu Thiên Chúa là
Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta
không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”. Chúa Giêsu lặp đi
lặp lại cùng một sự thật nhưng dùng nhiều chữ khác nhau: “Bất cứ ai đến từ
Thiên Chúa thì lắng nghe lời của Thiên Chúa”. Nguồn gốc của lời khẳng định
này là từ tiên tri Giêrêmia, người đã nói rằng: “Ở trong chúng, Ta sẽ ghi
vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là
Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải
dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA’, vì hết
thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – Ta
sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr
31:33-34). Nhưng họ sẽ không mở lòng mình ra để trải qua kinh nghiệm mới
này về Thiên Chúa, và bởi vì điều này, họ sẽ không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng
đã được Chúa Cha sai đến.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Sự tự do là việc quy phục hoàn toàn trước Chúa Cha.
Loại tự do này có hiện hữu trong bạn không? Bạn có biết ai như thế không?
– Kinh nghiệm sâu sắc nào trong tôi đã hướng dẫn tôi
nhận ra Đức Giêsu là Đấng đã được Thiên Chúa sai đến?
5. Lời nguyện
kết
Lạy CHÚA, chúc tụng
Ngài là Thiên Chúa tổ tiên chúng con,
xin dâng lời ca tụng
tôn vinh muôn đời.
Chúc tụng danh thánh
Ngài vinh hiển, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
Chúc tụng Chúa trong
thánh điện vinh quang, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
Chúa tụng Chúa trên
ngôi báu cửu trùng, xin dâng lời ca tung suy tôn muôn đời.
(Đn 3:52-54)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét