11/04/2019
Thứ năm tuần 5 Mùa Chay
BÀI ĐỌC I: St 17, 3-9
“Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân
tộc”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong ngày ấy, Abram sấp
mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng: “Này Ta đây, Ta giao ước với
ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là
Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc.
Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc,
và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa
Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên
Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi
ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan
và Ta sẽ là Chúa của chúng”.
Chúa lại phán cùng
Abraham rằng: “Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời
giao ước của Ta”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 104, 4-5.
6-7. 8-9
Đáp: Tới muôn đời
Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Xướng:
1) Hãy coi trọng Chúa
và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những
điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. – Đáp.
2)Hỡi miêu duệ Abraham
là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính
Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. –
Đáp.
3)Tới muôn đời Ngài vẫn
nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài
đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. – Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: Am 5, 14
Các ngươi hãy tìm
điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và Chúa sẽ ở cùng các
ngươi.
PHÚC ÂM: Ga 8, 51-59
“Cha các ngươi là Abraham đã
hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với người Do-thái rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời
Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết”. Người Do-thái lại nói: “Bây giờ thì chúng
tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông
lại nói: ‘Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết’. Chẳng lẽ ông lại lớn hơn
cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho
mình là ai?”
Chúa Giêsu trả lời: “Nếu
Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha
Ta tôn vinh Ta. Người là chính Đấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi.
Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không
biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời
Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta.
Ông đã thấy và đã vui mừng”.
Người Do-thái liền
nói: “Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?” Chúa Giêsu
trả lời: “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra,
thì Ta đã có rồi”.
Bấy giờ họ lượm đá ném
Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
SUY NIỆM : Niềm tin và
lý trí
Trong cuốn tiểu
thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chàng Hải Âu Kỳ Diệu, tác giả kể về
một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được ước mơ lướt cánh tung trời. Chàng
bay tới những vùng mà các con chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới. Sau
chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trở lại với bầy, chàng kể cho bầy
chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều
chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản
lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe chàng nói, lòng
chợt dậy lên khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện ước
mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.
Khi Chúa Giêsu nói với
người Do Thái về thế giới của Thiên Chúa, họ đã chế nhạo Người, cho rằng Người
bị quỉ ám nên mới ăn nói lung tung như thế. Chúa Giêsu vẫn không nản lòng, và vẫn
tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của mình, một lần nữa. Người dùng danh xưng
Hằng Hữu để khẳng định rằng mình từ Thiên Chúa mà đến. Câu nói ấy đã khiến người
Do Thái phẫn nộ và định ném đá Người.
Ðược sống mãi không phải
chết là ước mơ muôn thuở của con người, thế nhưng khi Chúa Giêsu nói với người
Do Thái rằng nếu họ tuân giữ Lời Người dạy bảo thì họ sẽ khỏi phải chết, họ lại
chế nhạo Người là bị quỉ ám. Nếu xét thêm mặt ngoài của sự kiện thì quả thật họ
là người có lý. Họ lý luận như sau: "Bây giờ chúng tôi biết chắc là ông bị
quỉ ám. Ông Abraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy. Thế mà ông lại nói: ai tuân
giữ lời tôi thì sẽ không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha
chúng tôi là ông Abraham hay sao?" Họ lý luận rất chặt chẽ, nhưng chính
cái chặt chẽ ấy lại là một sợi xích cột chặt họ lại khiến họ không thể cất cánh
bay cao. Họ có lý nhưng tổ phụ Abraham ngày xưa đã chẳng lý luận gì khi nghe
theo lời Giavê Thiên Chúa kêu gọi mà từ bỏ quê cha đất tổ để ra đi. Những người
Do Thái có lý nhưng theo lối lý luận của con người. Thiên Chúa thì không dựa
theo lý lẽ của con người để thực hiện công việc của mình, Thiên Chúa làm theo
cách của Ngài. Những ai muốn nhận ra chương trình của Thiên Chúa thì cũng phải
tập nhìn mọi sự theo cách nhìn của Ngài. Những người Do Thái không muốn nhìn
như thế, họ nhìn vào Chúa Giêsu và họ chỉ thấy đó là một con người tuổi chưa đầy
năm mươi mà dám khoác lác nói rằng mình đã thấy tổ phụ Abraham, lại còn dám
xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa nữa. Họ không thể chấp nhận thái độ cao ngạo
và phạm thượng ấy. Họ phải ném đá kẻ ngông cuồng này. Quả đúng như lời mở đầu
Tin Mừng theo thánh Gioan: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế
gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà
có nhưng lại không nhận biết Người. Người đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu
đón nhận" (Ga 1, 9-11).
Cũng như tình yêu, đức
tin không dựa trên lý lẽ. Lý trí có thể đưa chúng ta đến bên bờ của đức tin, rồi
để mặc chúng ta ở đấy. Không phải lý trí bỏ rơi chúng ta nhưng lý trí không thể
giúp chúng ta vượt qua được mép bờ huyền nhiệm của đức tin. Ðứng trên mép bờ
huyền nhiệm ấy, tác động thích hợp duy nhất là yêu mến và phó thác. Tổ phụ
Abraham đã yêu mến Thiên Chúa và đã phó thác mọi sự cho Ngài và đã được toại
nguyện. Ðức Maria cũng đã khẳng định tương tự. Các thánh cũng hành động như thế;
còn chúng ta, chúng ta hành động ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã nói: "Ai tuân giữ Lời Ta thì sẽ không bao giờ phải chết". Con
không thể hiểu được lời này bằng lý luận mà chỉ có thể và sống lời ấy với tâm
tình yêu mến và hoàn toàn phó thác vào Chúa mà thôi.
Lạy Chúa, xin hãy gia
tăng đức tin cho con. Con tin nhưng xin Chúa thương trợ giúp cho sự cứng lòng
kém tin của con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần V MC
Bài đọc: Gen
17:3-9; Jn 8:51-59.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời Thiên
Chúa hứa với Abraham được thực hiện nơi Đức Kitô.
Hơn một nửa dân số
trên địa cầu hiện nay tuyên bố tổ-phụ Abraham là cha của họ: Do-thái giáo, Hồi-giáo,
Kitô giáo (bao gồm tất cả những ai tin vào Đức Kitô); nhưng lại không nhận nhau
là anh, chị, em! Người Do-thái cho rằng chị có họ là giòng dõi Abraham theo máu
mủ của Isaac. Người Hồi-giáo cho họ cũng là giòng dõi của Abraham vì Ismael
cũng là con của Abraham. Người Kitô giáo dựa vào giao ước Thiên Chúa đã ký kết
với tổ-phụ. Một sự đọc lại bản giao ước này cần thiết để xóa tan mọi ngộ nhận
và giúp mọi người sống thân mật với nhau.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong giao ước Thiên Chúa ký kết với tổ-phụ Abraham. Trong Bài Đọc I, tác
giả Sách Thế Ký tường thuật bản giao ước Thiên Chúa ký kết với tổ-phụ Abraham.
Thiên Chúa sẽ làm cho ông thành “cha nhiều dân tộc,” chứ không phải chỉ dân tộc
Israel mà thôi. Phần Abraham và giòng dõi ông, họ phải tin và tuân giữ những gì
Thiên Chúa dạy. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Abraham đã vui mừng khi
nhìn thấy ngày của Ngài; vì nhờ Ngài, lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ sẽ trở
thành “cha nhiều dân tộc,” được thực hiện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu với tổ-phụ Abraham.
1.1/ Phía của Thiên Chúa:
(1) Ngài hứa ban vô số
dân tộc: Đây là một lời hứa rất quan trọng. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết của
lời hứa này:
– Tên Abram có nghĩa
“Cha được vinh quang.” Chúa đổi tên cho ông thành Abraham có nghĩa “Cha của một
đám đông, ab hamôn.” Tên này ám chỉ lời Thiên Chúa hứa với ông: “Ta
đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc.”
– Điều quan trọng của
lời hứa là giòng dõi của ông sẽ không còn giới hạn trong vòng Israel, nhưng lan
rộng ra đến các dân tộc. Nếu chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Israel, Abraham
không thể có con cháu nhiều như sao trên trời và như cát ngòai bãi biển được.
– Làm sao để lời hứa
này hiện thực? Thánh Phaolô giúp chúng ta trả lời, bằng niềm tin của con người
vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để
thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay
Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một
trong Đức Kitô. Mà nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi ông
Abraham, những người thừa kế theo lời hứa” (Gal 3:27-29).
– Vua chúa sẽ phát xuất
từ ngươi: Hai nhân vật quan trọng của giòng dõi Abraham là Vua David và Chúa
Giêsu Kitô.
– Giao ước này là giao
ước vĩnh cửu: không lệ thuộc vào thời gian và không gian, được trải dài đến
muôn vàn thế hệ.
(2) Ngài hứa ban Đất Hứa:
“Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức
là tất cả đất Canaan, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.”
Đất Hứa là đất Canaan mà Joshua và con cái Israel sẽ chiếm đóng khi từ Ai-cập
trở về.
1.2/ Phần của Abraham: Bổn phận chính yếu của Abraham và tất cả giòng dõi của
ông là phải luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa và làm những gì Ngài dạy.
2/ Phúc Âm: Sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và tổ-phụ Abraham
2.1/ Ai tuân giữ lời tôi,
thì sẽ không bao giờ phải chết: Chúa Giêsu
cũng tuyên bố một câu tương tự với Martha khi cô cầu xin với Ngài cho em là
Lazarus được sống lại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy,
thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải
chết” (Jn 11:25-26). Ở đây, Chúa Giêsu không có ý nói về cuộc sống thể lý;
nhưng cuộc sống về đàng thiêng liêng. Những ai đã tin và giữ lời Chúa dạy, họ
luôn sống; tuy họ sẽ phải chết về phần xác, nhưng đó chỉ là cách để đưa họ tới
cuộc sống muôn đời với Thiên Chúa. Cuộc sống muôn đời trong tương lai đã bắt đầu
ngay từ ở đời này.
Nhưng người Do-thái
không hiểu ý Chúa Giêsu, nên họ nói: “Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ
ám. Ông Abraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: “Ai tuân giữ
lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha
chúng tôi là ông Abraham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự
xưng mình là ai?”
2.2/ Lời hứa của Thiên
Chúa với Abraham được thực hiện nơi Đức Kitô.
(1) Chúa Giêsu biết
Thiên Chúa và vâng lời Ngài: Chúa Giêsu tuyên bố: “Các ông không biết Người;
còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người, thì tôi cũng là kẻ
nói dối như các ông.” Con người có cố gắng lắm cũng chỉ biết phần nào của Thiên
Chúa, Chúa Giêsu biết Thiên Chúa như Thiên Chúa là, vì Ngài là chính sự khôn
ngoan của Thiên Chúa. Nếu con người muốn biết Thiên Chúa, họ phải tin vào những
mặc khải của Chúa Giêsu. Hơn nữa, Chúa Giêsu luôn vâng lời Thiên Chúa trong mọi
sự. Nếu con người muốn biết thế nào là tuân theo ý định của Thiên Chúa, họ cũng
phải học nơi Chúa Giêsu. Ngài hòan tòan làm theo ý định của Cha Ngài. Người
Do-thái tuyên bố họ biết Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ đã không biết và
không vâng lời Ngài.
(2) Tổ-phụ Abraham và
Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đã chứng minh cho người Do-thái trong trình thuật hôm
qua: họ không phải là con cháu Abraham, vì họ không làm những gì ông làm. Trong
trình thuật hôm nay, Ngài lại chứng minh cho họ một lần nữa: họ không phải là
con cháu Abraham, vì họ không vui mừng đón tiếp Ngài như Abraham: “Ông Abraham
là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy
và đã mừng rỡ.” Làm sao để hiểu lời tuyên bố này? Cách cắt nghĩa dễ nhất là
dùng trình thuật của Lucas về dụ ngôn người phú hộ và Lazarus (Lk 16:22-31).
Abraham đang ở trên trời nhìn xuống và thấy hết mọi sự. Nhưng đây chỉ là dụ
ngôn Chúa dùng. Thực ra, truyền thống Do-thái tin Abraham đã được Thiên Chúa
cho nhìn thấy ngày Đấng Thiên Sai ra đời và ông đã mừng rỡ. Truyền thống Giáo Hội
tin Abraham và những người lành đã chết chỉ sống lại, khi Đức Kitô xuống Ngục Tổ
Tông đưa các ngài lên trong đêm vọng Phục Sinh.
Người Do-thái phản đối:
“Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Abraham!” Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi
bảo thật các ông: trước khi có ông Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!” Chúa Giêsu
không lệ thuộc thời gian, Ngài không nói: trước khi Abraham có, Tôi đã có;
nhưng nói Tôi Hằng Hữu. Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giêsu lánh đi
và ra khỏi Đền Thờ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Đọc lại giao ước vĩnh
cửu Thiên Chúa đã ký kết với tổ-phụ Abraham cho chúng ta thấy những điều quan
trọng sau đây:
(1) Giòng dõi của tổ-phụ
Abraham được mở rộng đến các dân tộc, chứ không chỉ giới hạn trong dân tộc
Israel.
(2) Mọi người đều có
thể trở thành con cháu tổ-phụ Abraham bằng niềm tin vào Đức Kitô và làm những
gì Ngài dạy.
(3) Nếu một người thuộc
dân tộc Israel mà không tin và làm những gì Đức Kitô dạy, họ cũng không phải là
con cháu của tổ-phụ Abraham; vì đã không tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
11/04/2019 – THỨ NĂM TUẦN 5 MC
Th. Ta-nít-lao, giám mục, tử đạo
Ga 8,51-59
QUYẾT TÂM TUÂN GIỮ LỜI CHÚA
Chúa Giê-su nói: “Tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi,
thì sẽ không bao giờ phải chết.” Người Do Thái liền nói: “Bây giờ chúng tôi biết
chắc là ông bị quỷ ám.” (Ga 8,51-52)
Suy niệm: Chỉ hiểu cái chết về
phương diện thể lý, những người Do Thái đã kết luận Chúa Giê-su bị quỷ ám, vì
Ngài nói ai tuân giữ lời Ngài sẽ không phải chết. Nhưng Chúa Giê-su không đối
đáp với họ về nhận định sai lầm của họ, Ngài càng quả quyết chân lý nghe lời
Ngài thì được sống trong Thiên Chúa. Chúa Giê-su còn khẳng định Chúa Cha làm chứng
lời Ngài nói. Một điều khó hiểu nhưng lại xảy ra là, những người các dân tộc
lân bang Do Thái khó đón nhận Lời Chúa đã đành, đằng này dân Chúa lại cho rằng
chói tai khi nghe Lời Chúa, cho rằng Đấng đang nói Lời Chúa là kẻ bị quỷ ám và
họ tìm mọi cách giết Chúa Giê-su để khỏi phải nghe lời Ngài. Thực trạng đau đớn
đó đâu chỉ xảy ra thời Chúa Giê-su, mà còn xảy ra nơi nhiều gia đình Ki-tô hữu
hôm nay nữa.
Mời Bạn: Đã gần hết mùa Chay thánh,
những Lời Chúa kêu mời bạn sám hối và tin vào Phúc Âm có tác động gì đến tâm hồn
của bạn và có biến đổi gia đình bạn từ một gia đình xa lạ với lời Chúa nay
thành gia đình chuyên chăm đọc và chia sẻ Phúc Âm của Chúa không? Thay vì tránh
né đọc Phúc Âm, từ nay bạn làm cách nào để quyết tâm cho gia đình bạn được nghe
và sống lời Chúa?
Sống Lời Chúa: Trang hoàng bàn thờ, đặt
sách Phúc Âm vào vị trí xứng đáng và qui định giờ đọc kinh và đọc và suy niệm Lời
Chúa trong gia đình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa
có lời ban sự sống đời đời. Xin cho gia đình con biết khát khao nghe Lời Chúa
và được Lời Chúa thấm nhuần trong ý nghĩ, lời nói và cử chỉ của chúng con.
(5 Phút Lời Chúa)
Tôi hằng hữu (11.4.2019 – Thứ
năm Tuần 5 Mùa Chay)
Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng việc Đức Giêsu bị ném đá.
Nhưng Ngài đã ẩn mình đi và ra khỏi Đền thờ (c. 59).
Ném đá là hình phạt của người Do-thái chủ yếu dành cho kẻ phạm thượng.
Nhưng Ngài đã ẩn mình đi và ra khỏi Đền thờ (c. 59).
Ném đá là hình phạt của người Do-thái chủ yếu dành cho kẻ phạm thượng.
Đức Giêsu đã làm gì để bị coi là mắc tội phạm thượng,
nghĩa là tội coi thường quyền tối thượng của Thiên Chúa ?
Trước hết Đức Giêsu đặt mình lên trên tổ phụ đáng kính Abraham.
Ngài biết ông Abraham vui sướng mừng rỡ
vì hy vọng được thấy ngày của Ngài, thấy những việc Ngài làm đây (c. 56).
Abraham mừng vì chính Đức Giêsu, chứ không phải cá nhân mình,
mới là Đấng đem phúc lành cho mọi dân tộc trên thế giới.
Dù chưa tới năm mươi tuổi, Đức Giêsu dám coi mình là có trước ông Abraham.
“Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (c. 58).
nghĩa là tội coi thường quyền tối thượng của Thiên Chúa ?
Trước hết Đức Giêsu đặt mình lên trên tổ phụ đáng kính Abraham.
Ngài biết ông Abraham vui sướng mừng rỡ
vì hy vọng được thấy ngày của Ngài, thấy những việc Ngài làm đây (c. 56).
Abraham mừng vì chính Đức Giêsu, chứ không phải cá nhân mình,
mới là Đấng đem phúc lành cho mọi dân tộc trên thế giới.
Dù chưa tới năm mươi tuổi, Đức Giêsu dám coi mình là có trước ông Abraham.
“Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (c. 58).
Ta là Đấng Hằng Hữu là câu trả lời của Thiên Chúa cho ông Môsê
khi ông hỏi tên của Ngài bên bụi cây bốc cháy (Xh 3, 14).
Đức Giêsu cũng muốn trả lời câu hỏi về mình (c. 53) bằng lối nói đó.
Vì trước khi được sinh ra ở đời làm người, thì Ngài đã hiện hữu rồi.
Ngài là một với Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga 1, 14-18),
bởi đó Ngài có trước Abraham, người đã sống trước Ngài gần hai ngàn năm.
Chính khẳng định bị coi là phạm thượng này đã khiến Ngài bị ném đá.
khi ông hỏi tên của Ngài bên bụi cây bốc cháy (Xh 3, 14).
Đức Giêsu cũng muốn trả lời câu hỏi về mình (c. 53) bằng lối nói đó.
Vì trước khi được sinh ra ở đời làm người, thì Ngài đã hiện hữu rồi.
Ngài là một với Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga 1, 14-18),
bởi đó Ngài có trước Abraham, người đã sống trước Ngài gần hai ngàn năm.
Chính khẳng định bị coi là phạm thượng này đã khiến Ngài bị ném đá.
Đức Giêsu thường bị coi là ngạo mạn, tự tôn vì những lời như vậy.
Thật ra Ngài chẳng tự tôn vinh mình.
Chúa Cha mới là Đấng tôn vinh Ngài qua cái chết tủi nhục (c. 54).
Đức Giêsu cũng chẳng coi thường Thiên Chúa bao giờ.
Ngài gọi Thiên Chúa là Cha một cách thân thương,
và nhìn nhận: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14, 28).
Thật ra Ngài chẳng tự tôn vinh mình.
Chúa Cha mới là Đấng tôn vinh Ngài qua cái chết tủi nhục (c. 54).
Đức Giêsu cũng chẳng coi thường Thiên Chúa bao giờ.
Ngài gọi Thiên Chúa là Cha một cách thân thương,
và nhìn nhận: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14, 28).
Có một sự phân biệt rất rõ giữa Chúa Cha và Đức Giêsu :
Chúa Cha là người sai đi; Đức Giêsu là Con, là người được sai đi.
Đức Giêsu chỉ làm điều Ngài thấy Cha làm (Ga 5, 19-20; 8, 28-29),
và nói điều Ngài nghe Cha nói (Ga 8, 26. 40; 12, 49-50).
Triệt để vâng phục và tùy thuộc là nét đặc trưng của Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng Gioan, bao lần ta gặp cụm từ không tự mình.
Đức Giêsu không tự mình nói, cũng chẳng tự mình làm.
Ngài đòi chúng ta tuân giữ lời Ngài (c. 51)
chỉ vì chính Ngài cũng đã tuân giữ lời của Thiên Chúa (c. 55).
Chúa Cha là người sai đi; Đức Giêsu là Con, là người được sai đi.
Đức Giêsu chỉ làm điều Ngài thấy Cha làm (Ga 5, 19-20; 8, 28-29),
và nói điều Ngài nghe Cha nói (Ga 8, 26. 40; 12, 49-50).
Triệt để vâng phục và tùy thuộc là nét đặc trưng của Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng Gioan, bao lần ta gặp cụm từ không tự mình.
Đức Giêsu không tự mình nói, cũng chẳng tự mình làm.
Ngài đòi chúng ta tuân giữ lời Ngài (c. 51)
chỉ vì chính Ngài cũng đã tuân giữ lời của Thiên Chúa (c. 55).
Trong tuần lễ này, tại nhà thờ các ảnh tượng có thể được che lại.
Khi bị ném đá, Đức Giêsu đã tránh đi vì giờ của Ngài chưa đến.
Đức Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm điều phải làm.
Chúng ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho Chúa.
Khi bị ném đá, Đức Giêsu đã tránh đi vì giờ của Ngài chưa đến.
Đức Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm điều phải làm.
Chúng ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho Chúa.
Lời nguyện
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu,S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG TƯ
Đức Tin Của Chúng
Ta Bật Ra Từ Chứng Từ Của Các Thị Chứng Nhân
Luca, tác giả Sách Tin
Mừng, kể tiếp: “Rồi Người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45). Từ bài diễn
từ của Phê-rô trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận ra việc Đức Kitô mở trí
cho các Tông Đồ nắm hiểu sự thật về Tin Mừng đã có hiệu quả như thế nào.
Thật vậy, sau khi
trình bày những biến cố nối kết với cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô,
Phê-rô tuyên bố với cư dân Giê-ru-sa-lem: “Như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện
những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của
Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để
Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,18-20).
Trong những lời ấy của
vị Tông Đồ, chúng ta nhận ra một âm vọng rõ ràng những lời của chính Đức Kitô.
Chúng ta nhận ra Chúa Phục Sinh đã biến đổi tâm trí và cuộc sống của các Tông Đồ
như thế nào qua việc truyền đạt sự thật của Người.
Đây là câu chuyện của
đức tin chúng ta. Chúng ta nhận ra cách mà thế hệ chứng nhân đầu tiên của Đức
Kitô – tức các Tông Đồ và các môn đệ – truyền đạt sứ điệp Tin Mừng căn bản. Nó
bật ra trực tiếp từ chứng từ của những chứng nhân mắt thấy tai nghe cái chết và
sự sống lại của Đức Kitô.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 11/4
Thánh Tanislaoo,
giám mục tử đạo
St 17, 3-9; Ga 8,
51-59.
LỜI SUY NIỆM: “Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi
không biết Người thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng tôi biết Người
và giữ lời Người.”
Đối với người Do-thái, Chúa Giêsu xem ra hành động nghịch với những định chế
căn bản của dân Chúa chọn. Nên khi nghe Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo thật các ông,
ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ chết” Điều này khiến người Do-thái sửng
sốt hơn. Và Chúa còn nhấn mạnh thêm: “Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết
Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người thì tôi cũng là kẻ nói dối như các
ông. Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người.” Đây chính là nền tảng sống của
Chúa Giêsu: Biết Chúa Cha và giữ lời Người.
Lạy Chúa Giêsu. Với trí tuệ loài người, con người chỉ biết được một số điều rời
rạc về Thiên Chúa. Chỉ có Chúa mới thấy chân lý trọn vẹn. Và đã mạc khải cho
chúng con. Chỉ trong Chúa chúng con mới thấy mình phải trở nên như thế nào.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-04
Thánh STANISLAÔ
Giám Mục Tử Đạo (1030 – 1079)
Giám Mục Tử Đạo (1030 – 1079)
Thánh Stanislaô được
kính nhớ như vị Thánh bảo trợ thành Krakow ở Balan, nơi Ngài làm giám mục và
hài cốt Ngài được lưu giữ ở nhà thờ chính tòa. Không có tường thuật đương thời
nào về Ngài được coi là đầy đủ và các chi tiết về đời Ngài cũng không rõ rệt lắm.
Người ta kể rằng: cha mẹ Ngài thuộc dòng dõi quí phái, nhưng lại hiếm muộn về
đàng con cái. Sau nhiều lời cầu nguyện khẩn thiết, ngày 26 tháng 07 năm 1030, họ
sinh được một người con trai và đặt tên là Stanislaô. Họ chú tâm đào luyện con
mình theo những tập quán đạo hạnh khiến Stanislaô, từ nhỏ đã tỏ ra có tinh thần
bác ái và nhiệt hành phụng sự Chúa.
Trong bầu khí đạo đức ấy,
từ thuở nhỏ Stanislaô đã nghe rõ tiếng Chúa kêu gọi đi làm tông đồ Chúa. Trước
hết Ngài đã theo học đại học tại triết học tại Đại học Gniezno. Sau đó Ngài
sang Paris theo học Luật và thần học ở tu viện Lorranin trong bảy năm trời. Khi
cha mẹ qua đời, Ngài phải trở về Balan.
Được thừa hưởng gia
tài lớn cha mẹ để lại, nhưng thánh nhân đã quyết chí hiến thân phụng sự Chúa vì
vậy Ngài đã đem của cải phân phát cho người nghèo khó rồi tiếp tục theo đưổi lý
tưởng tu trì. Đức Giám mục Lampert đã phong chức Linh mục cho Stanislaô, năm 1062
và đặt làm Kinh sĩ tại nhà thờ chánh tòa địa phận.
Giữ chức vụ kinh sĩ,
Stanislaô đã trở nên lừng danh về tài thuyết giảng và về chính đời sống gương mẫu
thánh thiện của Ngài. Đức cha Lambert, toàn thể giáo sĩ và giáo dân đã bầu
Stanislaô lên kế vị. Vì khiêm tốn, thánh nhân quyết không chịu nhận. Nhưng năm
1072, vâng lời đức thánh cha Alexandre II, Stanislaô đã nhận làm giám mục
Krakow.
Đức cha Stanislaô là một
giám mục thánh thiện và nhân hậu nhất là đối với những ai đau khổ và nghèo đói.
Tuy nhiên, Ngài cũng tỏ ra là người can đảm đặc biệt. Vua Balan lúc ấy là
Bôleslas II. Ong ta đã dùng sức mạnh khí giới để đạt tới vinh quang nhưng lại
chịu bị khuất phục trước những tật xấu khủng khiếp. Hành vi độc ác của ông đã
khiến cho người ta gọi ông là “kẻ độc ác”. Cả nước đều phải run sợ nhưng không
ai dám mở lời can ngăn. Chỉ có một người, một vị thánh là Stanislaô đã dám
đương đâu với sự giận dữ của nhà vua.
Sau khi cầu nguyện với
tất cả tâm hồn, thánh nhân đến gặp nhà vua. Khiêm tốn nhưng đầy cương quyết,
thánh nhân quyết định nói với ông ta tất cả những gì phải nói, Ngài trình bày
cho nhà vua thấy trước những tội ác tày trời, gương mù trong vương quốc mà nhà
vua gây nên, Ngài cũng nói cho nhà vua rõ những phán xét Thiên Chúa đang chờ
đón. Vừa nghe, Bôleslas đã tỏ ra hối hận. Nhưng thật đang tiếc vì đây chỉ là một
tình cảm chóng qua, Bôleslas lại trở nên man rợ như trước và còn thêm một tội
ghen ghét vào những ác độc của ông.
Sau này, vua đã cướp vợ
của một nhà quí phái để nhốt trong hoàng cung. Cơn giận lan ra khắp tỉnh nhưng
dân chúng run sợ không ai dám mở miệng, thánh Stanislaô một lần nữa can đảm đến
gặp Boleslas, cố gắng đưa ông trở về với những tình cảm chân chính. Ngài đe dọa,
nếu còn cố chấp, nhà vua sẽ bị tuyệt thông. Run lên vì tức giận, nhà vua tìm kế
sát hại thánh nhân.
Bôleslas biết Đức cha
có mua một thuở đất để xây cất nhà thờ mà chỉ trao tiền trứơc mặt nhiều chứng
nhân mà không làm chứng từ. Khi chủ nhân cũ qua đời, ông đe dọa các chứng nhân
để họ phản chứng rồi tố giác Đức giám mục ra tòa. Mưu độc của ông bị thất bại.
Vì sau ba ngày cầu nguyện thánh Stanislaô đã truyền đào mồ người chết và kêu
ông dậy làm chứng sự thật.
Dầu vậy, Bôleslas vẫn
không thay lòng đổi dạ đối với vị giám mục gan dạ Stanislaô. Ngày 08 tháng 5
năm 1079, khi thánh Stanislaô đang dâng thánh lễ tại thánh đường thánh Micae.
Ông sai người đến sát hại thánh nhân. Cả ba nhóm binh sĩ lần lượt đến mà không
hoàn thành được lệnh truyền, khiến chính nhà vua phải ra tay. Ông xông vào nhà
thờ chém giết vị giám mục tại bàn thờ. Chưa đã thoả lòng giận dữ , ông còn chặt
xác Ngài thánh ra làm nhiều khúc rồi vứt ra ngoài đồng cho chim trời rúc rỉa.
Nhưng bốn ngày sau, trên trời chỉ có bốn cánh phương hoàng bay lượn ngăn cản tất
cả không cho bất cứ con vật nào xâm phạm tới xác thánh.
Bấy giờ Boleslas mới tỉnh
ngộ và hối lỗi. Ông cho tổ chức lễ an táng thánh Stanislaô rất trọng thể. Xác
thánh liền lại như mới qua đời vì bệnh tật và được chôn cát tại nhà thờ chánh
tòa Krakow.
(daminhvn.net)
11 Tháng Tư
Ðám Cưới Vĩ Ðại Nhất
Một trong những đám
cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của
Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công
nguyên.
Khi quyết định một
người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc
hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh
phục từ Ðông sang Tây. Ông cũng hy vọng có một người con nối dõi với hai dòng
máu Ðông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Ðám cưới được cử
hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần
long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: thế vận hội
đã được khai sinh từ đó. Chính Ðại đế là người đích thân trao giải thưởng cho
những người thắng cuộc. Thông thường hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng
vàng. Nhưng, người được coi là đoạt được nhiều giải thưởng nhất trong cuộc thi
thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá. Alexandre Ðại đế giải
thích như sau: chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.
Có một hôn lễ còn vĩ đại
gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane: đó là hôn lễ của
Trời với Ðất, của Thiên Chúa với Nhân Loại. Ðây là cuộc hôn lễ mà loài người đã
chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy diễn ra qua việc Con Thiên Chúa
xuống thế mặc lấy xác phàm. Ngài đến không kèn không trống, không quân đội,
không thế vận hội. Ngài không mang lại các cúp vàng, Ngài không chỉ trao cành
lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể chiến
thắng cho cuộc sống của mình và ai cũng có thể nhận lãnh cành lá vinh hiển ấy.
Ai trong chúng ta cũng
có một phần thưởng vô giá, ai trong chúng ta cũng là người đoạt giải nhất và ai
trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sống đời đời.
Với Chúa Giêsu là Ðấng
đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng ta, chúng ta tin chắc
rằng chúng ta cũng sẽ chiến thắng.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Gioan 8:51-59
Thứ Năm 11 Tháng Tư,
2019
Thứ Năm Tuần V Mùa
Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa
Trong Con Một của Ngài
là Đức Giêsu Kitô
Chúa đã ban cho chúng con
một tên gọi mới,
Tên của chính Con Một
Chúa.
Nguyện xin cho chúng
con có thể sống xứng đáng với thân phận mới của chúng con,
Là những kẻ sống vì
người khác
Để phục vụ và dấn thân
Cùng với Đức Giêsu
Con Chúa và là Chúa
chúng con đến muôn đời.
2. Phúc Âm
– Gioan 8:51-59
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với người Do Thái rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu
ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết”.
Người Do Thái lại
nói: “Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết
và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: ‘Ai giữ lời Ta, thì không
bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham
sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?”
Chúa Giêsu trả lời:
“Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị
gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Đấng các ngươi xưng là
Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn
Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối
như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các
ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy Ngày của Ta. Ông đã thấy
và đã vui mừng”.
Người Do Thái liền
nói: “Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?”
Chúa Giêsu trả lời:
“Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì
Ta đã có rồi”.
Bấy giờ họ lượm đá ném
Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi Đền Thờ.
3. Suy Niệm
– Chương 8 dường như là một cuộc triển lãm các tác
phẩm nghệ thuật, nơi mà người ta có thể chiêm ngưỡng và lặng ngắm những bức
tranh nổi tiếng, đặt bên cạnh nhau. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho
chúng ta một bức tranh, và cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do
Thái. Không mấy có sự liên kết từ bức tranh này sang bức tranh kia.
Chính người thưởng lãm, nhờ vào sự quan sát tường tận và cầu nguyện của mình, mới
có thể thành công khám phá chủ đề vô hình gắn kết các bức họa, các cuộc đối thoại
giữa các bức tranh. Vì vậy, chúng ta đi sâu vào trong mầu nhiệm Thiên
Chúa đang bao trùm con người của Chúa Giêsu.
– Ga 8:51: Bất cứ ai tuân giữ lời của
Chúa Giêsu thì muôn đời sẽ không phải chết. Chúa Giêsu đưa ra một lời
xác tín long trọng; các tiên tri đã nói: Sấm ngôn của Thiên Chúa!
Chúa Giêsu nói: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi!”
Và lời khẳng định long trọng như sau: “Ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ
không phải chết!” Cùng một chủ đề này xuất hiện và tái xuất hiện nhiều
lần trong sách Tin Mừng Gioan. Đây là những lời rất sâu sắc.
– Ga 8:52-53: Abraham và các tiên tri
đã chết. Phản ứng của người Do Thái thì ngay tức thì: “Bây giờ
thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng
vậy, thế mà ông lại nói: ‘Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết.’
Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các
tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?” Họ đã không hiểu được tầm
quan trọng và ý nghĩa của lời khẳng định của Chúa Giêsu. Đó là cuộc đối
thoại với kẻ điếc.
– Ga 8:54-56: Chính Cha Ta tôn vinh Ta.
Một lần nữa và như thường lệ, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến cùng một điểm: Người
hiệp nhất với Chúa Cha đến nỗi mà mọi việc Người nói hay làm không là của Người.
Mọi việc thuộc về Chúa Cha. Và Chúa Giêsu nói rằng: “Người là
chính Đấng các ngươi xưng là ‘Thiên Chúa của các ngươi’. Vậy mà các
ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói ‘Ta
không biết Người’, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người,
và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được
thấy Ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng”. Những lời
này của Chúa Giêsu phải được xem như là một nhát cuốc làm tổn thương lòng tự trọng
của người Do Thái. Nói với những người lãnh đạo tôn giáo rằng: “Các
ngươi không biết Thiên Chúa, Đấng mà các ngươi nói các ngươi biết. Ta biết
Người và các ngươi không biết Người!” Giống như thể đó là lời tố cáo sự
hoàn toàn kém hiểu biết chính xác của họ về chủ đề mà họ nghĩ rằng mình là những
nhà thông bác uyên thâm. Và câu cuối cùng làm tăng thêm mức đo lường: “Cha
các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy Ngày của Ta.
Ông đã thấy và đã vui mừng”.
– Ga 8:57-59: “Ông chưa được năm mươi tuổi mà
đã trông thấy Abraham rồi sao?” Họ đã hiểu mọi chuyện theo nghĩa
đen; vì thế cho thấy rằng họ đã không hiểu bất cứ điều gì về những lời Chúa
Giêsu đang nói. Và Chúa Giêsu lại dõng dạc nói một lời xác tín long trọng
khác: “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa
sinh ra, thì Ta đã có rồi”
Đối với những ai tin
vào Chúa Giêsu, tại đây chúng ta tiến tới trọng tâm của mầu nhiệm câu chuyện.
Một lần nữa, họ lượm đá để định giết Chúa Giêsu. Nhưng lần này họ chưa
thành công bởi vì giờ của Chúa chưa đến. Người xác định giờ khắc đó chính
là Chúa Giêsu.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Cuộc đối thoại giữa Chúa và người Do Thái là cuộc
đối thoại với kẻ điếc. Thỉnh thoảng bạn đã có kinh nghiệm nói chuyện với
một người suy nghĩ hoàn toàn trái ngươc lại với những gì bạn nghĩ và kẻ ấy lại
không nhận biết được điều đó chưa?
– Chúng ta có thể hiểu câu nói này như thế
nào: “Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy Ngày
của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng”?
5. Lời nguyện
kết
Hãy tìm CHÚA và sức mạnh
của Người,
Chẳng khi ngừng tìm kiếm
Thánh Nhan.
Hãy nhớ lại những kỳ
công Người thực hiện,
Những dấu lạ và những
quyết định Người phán ra.
(Tv 105:4-5)








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét