27/06/2019
Thứ Năm tuần 12 thường niên.
BÀI ĐỌC I: St 16, 1-12.
15-16
“Agar đã sinh cho Abraham một
con trai và ông gọi nó là Ismael”.
Trích sách Sáng Thế.
Bà Sarai vợ ông Abram
không sinh con, nhưng bà có một nữ tỳ người Ai-cập, tên là Agar, bà đã nói cùng
ông rằng: “Này, Chúa không cho tôi sinh con, ông hãy ăn ở với nữ tỳ của tôi,
may ra nhờ nó, tôi có con cháu”. Và Abram nghe theo lời bà Sarai. Đã mười năm
trời, từ ngày ông bà đến ở đất Canaan, bà Sarai chọn Agar, người Ai-cập làm nữ
tỳ, rồi trao cho chồng làm nàng hầu: ông đã ăn ở với nàng. Nhưng khi nàng thấy
mình thụ thai thì khinh dể bà chủ. Sarai nói cùng Abram rằng: “Ông đối xử bất
công với tôi. Tôi đã trao đứa nữ tỳ tôi vào tay ông, từ khi nó thấy mình thụ
thai, liền khinh dể tôi. Xin Chúa xét xử giữa tôi và ông”. Abram trả lời rằng:
“Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý”. Sarai
hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi.
Thiên thần Chúa gặp
nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa.
Thiên thần hỏi nàng rằng: “Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi
đâu?” Nàng đáp: “Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi”. Thiên thần Chúa bảo nàng rằng:
“Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà”. Thiên thần Chúa nói tiếp: “Ta sẽ
tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được”. Và nói thêm rằng: “Này ngươi
đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa
đã nghe biết sự khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống
đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh
em”. Agar đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu
tuổi khi Agar sinh Ismael. Đó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: St
16, 6-12. 15-16
Abram trả lời Sarai rằng:
“Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý”. Sarai
hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi. Thiên thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng
gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng:
“Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi đâu?” Nàng đáp: “Tôi trốn
Sarai, bà chủ tôi”. Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: “Hãy trở về với bà chủ
ngươi, và tùng phục bà”. Thiên thần Chúa nói tiếp: “Ta sẽ tăng số con cháu
ngươi nhiều không thể đếm được”. Và nói thêm rằng: “Này ngươi đã thụ thai và sẽ
sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự
khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người
và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em”. Agar đã
sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi
Agar sinh Ismael. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 105, 1-2.
3-4a. 4b-5
Đáp: Hãy ca tụng
Chúa, vì Người nhân hậu (c. 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy ca tụng Chúa, bởi
Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói hết được những hành
động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? – Đáp.
2) Phúc cho những ai
tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa,
xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. – Đáp.
3) Xin mang ơn cứu độ
đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa
chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia
nghiệp của Ngài. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 1, 14 và
12b
Alleluia, alleluia!
– Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì
Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 7, 21-29
“Nhà xây trên nền đá và nhà xây
trên cát”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: “Không phải tất cả những ai nói với Thầy: ‘Lạy Chúa,
Lạy Chúa’, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở
trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với
Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói
tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó
ư?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: ‘Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi
những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta’.
“Vậy ai nghe những lời
Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình
trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà
đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời
Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà
mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ
trở nên đống hoang tàn”.
Khi Chúa đã nói xong
những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ
như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ. Đó là lời
Chúa.
Suy Niệm : Thực thi ý
Chúa
Mẹ Têrêsa Calcutta
đã có lần phát biểu: Tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên
gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ,
họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ
rũ, nụ cười chưa nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các chị hãy về nhà ngủ
một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi".
Mẹ Têrêsa quả đã sống
cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng công việc
mà Mẹ và các nữ tu của Mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội, mà thiết
yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống và rao giảng
Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan. Do đó, thật mâu
thuẫn khi Tin Mừng được sống với bộ mặt ủ rũ, khi Tin Mừng được loan báo với
cung giọng buồn thảm.
Tin Mừng phải được thể
hiện trước tiên qua cuộc sống của người rao giảng Tin Mừng, đó là đòi hỏi cơ bản
nhất mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ. Trong Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu nêu bật những đòi hỏi ấy qua dụ ngôn hai ngôi nhà: ngôi nhà xây trên
đá thì vững chắc, dù mưa sa bão táp cũng không thể làm lay chuyển, đó là hình ảnh
người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, họ không chỉ lắng nghe lời Ngài, mà còn
đem áp dụng vào cuộc sống. Ngôi nhà xây trên cát, đó là hình ảnh của những người
nghe lời Chúa, nhưng không đem ra thực hành.
Tin Mừng vốn không chỉ
được lắng nghe cho vui tai, mà là để được thực thi; chân lý không chỉ được hiểu
biết suông, mà để được thực thi; bác ái không chỉ trên môi miệng, nhưng phải được
thực thi bằng những việc làm cụ thể. Tựu trung đây cũng là sự nối dài và đòi hỏi
của mầu nhiệm Nhập Thể trong đời sống đức tin. Thiên Chúa Nhập Thể làm người
không chỉ là một chân lý trừu tượng, Ngài đã trở thành con người bằng xương bằng
thịt; Ngài không phải là khách bàng quan đứng ngắm nhìn lịch sử nhân loại, Ngài
đã nhập cuộc làm một với nhân loại, Ngài không rao giảng Thập giá như một lý
thuyết suông. Ngài đã thực sự vác lấy Thập giá và đón nhận mọi khổ đau của con
người. Do đó, tuyên xưng Thiên Chúa Nhập Thể làm người không phải chỉ là tuyên
xưng một chân lý, mà thiết yếu là đi vào con đường Nhập Thể của Ngài.
Không thể có Kitô giáo
và niềm tin Kitô mà không có dấn thân; không thể là môn đệ Chúa Kitô mà không
đi lại con đường của Ngài; không thể rao giảng Tin Mừng bằng những lời nói
suông; không thể sống niềm tin Kitô mà không mỗi ngày cố gắng nên hoàn thiện
như Cha trên trời. Chúng ta vốn thán phục những người làm nhiều, hơn là những kẻ
nói nhiều. Nói mà không làm là kẻ dối trá, nói một đàng nhưng làm một nẻo là kẻ
lừa gạt. Tất cả rồi cũng qua đi, chân lý chỉ thực sự chiếu tỏ bằng cuộc sống
trung thực mà thôi.
Nguyện xin Chúa gia
tăng ý thức ấy nơi chúng ta. Xin cho niềm tin chúng ta tuyên xưng trên môi miệng
được diễn đạt một cách sống động qua cuộc sống mỗi ngày. Xin cho đức ái luôn
chiếu tỏa bằng những hành động cụ thể, để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ
đích thực của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 12 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Gen
16:1-12, 15-16; Mt 7:21-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải thực
hành Lời Chúa.
Con người hay bội hứa,
quên thề; Thiên Chúa luôn trung tín. Con người hay thay đổi; Thiên Chúa không
bao giờ đổi thay. Con người nghĩ để sống sót, họ cần phải tiêu diệt đối phương.
Thiên Chúa chứng minh, Ngài có quyền năng làm cho tất cả hiện hữu chung:
Do-thái Giáo, Kitô Giáo, và Hồi Giáo, đều đã được Thiên Chúa chúc lành và có thể
sống chung với nhau. Để Lời Chúa có thể sinh ích, con người không chỉ cần lắng
nghe, mà còn phải thực hành Lời Chúa dạy. Nếu con người chỉ biết trên lý thuyết
mà không chịu thực hành trong đời sống, Lời Chúa có ích chi cho con người đâu!
Các Bài Đọc hôm nay vạch
ra cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người; giữa cách cư xử
của Thiên Chúa và cách cư xử của con người. Trong Bài Đọc I, bà Sarai, khi thấy
mình không được Đức Chúa cho sinh con, đã hiến người hầu, Hagar, cho Abram để
ông có con nối giòng. Khi Hagar có con với Abram, nàng lại coi thường và khinh
khi bà chủ. Bà Sarai tức giận và đối xử nhẫn tâm với Hagar đến nỗi nàng phải trốn
đi; nhưng sứ thần Thiên Chúa đã hiện ra và loan báo cho nàng biết: Thiên Chúa
cũng sẽ chúc lành cho giòng dõi của Ismael, con nàng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
tuyên bố: Nước Trời chỉ dành cho ai nghe và giữ Lời Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta sẽ làm cho giòng dõi ngươi sinh sôi thật nhiều đến mức
không thể đếm được.
1.1/ Con người hay thay đổi: Truyền thống Do-thái và hầu hết truyền thống Á-đông đều
có thái độ coi thường người phụ nữ có chồng mà không sinh cho chồng được người
con để nối dõi tông đường (I Sam 1:5-6). Trong trường hợp như thế, người vợ thường
sẽ hy sinh để chồng ăn ở với vợ lẽ hay nàng hầu để có con nối dõi cho chồng.
(1) Phản ứng của bà
Sarai: Trình thuật hôm nay liệt kê một trường hợp điển hình: “Bà Sarai, vợ ông
Abram, đã không sinh được cho ông một người con nào. Bà có một người nữ tỳ Ai-cập,
tên là Hagar. Bà Sarai nói với ông Abram: “Ông coi: Đức Chúa đã không cho phép
tôi sinh con. Vậy xin ông đi lại với nữ tỳ của tôi; may ra nhờ nó mà tôi sẽ có
con.” Ông Abram nghe lời bà Sarai, ông ăn ở với nàng hầu, Hagar, và nàng đã
mang thai. Bà Sarai tức giận với nàng hầu có thể vì hai lý do: (1) Khi ông
Abram tỏ cử chỉ yêu thương với Hagar. Điều này có thể hiểu được vì không ai muốn
san sẻ tình yêu vợ chồng cho người khác; và (2) Nàng Hagar có những cử chỉ
khinh thường bà. Dù sao chăng nữa, bà Sarai cũng có lỗi, vì bà phải biết những
chuyện này không thể không xảy ra.
(2) Phản ứng của nàng
hầu Hagar: Phản ứng này có thể hiểu được, vì là phản ứng của đa số con người:
khinh thường những người có chồng mà không có con. Hơn nữa, nàng đang ở địa vị
của nữ tỳ, bỗng nhiên trở nên bà chủ và được Abram thương mến, vì làm cho ông
có con nối dõi tông đường, nên nàng càng có thái độ khinh thường và xỉ nhục chủ
mình. Nàng Hagar khôn nhưng không ngoan; nếu nàng biết nhận ra tình thương của
ông Abram và bà chủ Sarai, và khiêm nhường đáp lại, nàng đã không bị Bà đuổi ra
khỏi nhà.
(3) Phản ứng của ông
Abram: Ông nhận ra sự quan tâm của vợ và thái độ khinh thường vợ mình của
Hagar; nhưng ông bị kẹt vào thế ở giữa, bênh bên nào cũng không được. Khi nghe
Bà Sarai than thở, ông Abram nói với bà Sarai: “Nữ tỳ của bà ở trong tay bà đấy;
đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm!” Thế là Bà Sarai hành hạ Hagar đến
nỗi nàng phải trốn khỏi Bà.
1.2/ Lời hứa của Thiên
Chúa luôn vững bền: Cách đối xử của Thiên
Chúa hoàn toàn khác với cách đối xử của con người. Ngài có thể chúc lành cho cả
bà Sarai lẫn nàng hầu Sarai, cho giòng dõi của Sarai và của Hagar. Vì thế,
Thiên Chúa sai sứ thần của Ngài đến gặp Hagar, và khuyên nàng: “Cứ về với bà chủ
ngươi, và chịu luỵ bà ấy… Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra thật nhiều đến mức
không thể đếm được vì quá đông.”
Lời hứa về giòng dõi của
Hagar: Sứ thần của Đức Chúa nói với nàng: “Này đây ngươi đang có thai, sắp sinh
hạ con trai và sẽ đặt tên là Ismael, vì Đức Chúa đã nghe thấu nỗi khổ của
ngươi. Con người đó đúng là một con lừa hoang, nó giơ tay chống mọi người, mọi
người giơ tay chống nó, nó sẽ luôn đối đầu với tất cả anh em nó.” Lời hứa này
cho chúng ta thấy cả Hồi Giáo và Do-thái Giáo đều nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa: Ismael là tổ phụ của những người Hồi Giáo và cũng được Thiên Chúa
chúc lành. Isaac, đứa con Thiên Chúa ban cho Abram sau này, là tổ phụ của những
người Do-thái và được Thiên Chúa chúc lành qua tổ phụ Abram. Lời sấm của sứ thần
vẫn đang ứng nghiệm: giòng dõi của tổ phụ Abraham (Do-thái, Hồi Giáo, và Kitô
Giáo) chiếm quá nửa dân số trên địa cầu; và mối thù truyền kiếp giữa Do-thái và
Hồi Giáo vẫn đang xảy ra.
2/ Phúc Âm: Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời,
mới được vào mà thôi.
2.1/ Nước Trời không dành
cho những ai chỉ biết nói yêu mến Thiên Chúa: Chúa
Giêsu tuyên bố rõ ràng tình yêu phải được biểu tỏ bằng việc làm: “Không phải bất
cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng
chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà
thôi.” Một người ngây thơ có thể tin vào những lời đường mật của người dẻo miệng
lưỡi ca tụng; nhưng không ai có thể đánh lừa Thiên Chúa bằng những lời tán tụng
ngoài miệng, vì Ngài thấu suốt mọi ý hướng của con người.
2.2/ Nước Trời chỉ dành
cho những ai thực hành Lời Chúa dạy: Để dẫn
chứng tầm quan trọng của việc thi hành Lời Chúa, Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ mà
mọi người đều hiểu.
(1) Xây nhà trên đá:
“Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người
khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng
không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.” Nhà xây trên nền đá, tuy khó làm lúc đầu,
nhưng sẽ chịu đựng được mọi thay đổi của thời tiết sau này.
(2) Xây nhà trên cát:
”Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như
người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy
sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.” Nhà xây trên cát rất dễ làm lúc đầu, nhưng không
chịu đựng nổi những đe dọa của thời tiết; chỉ cần một cơn sóng gió nhỏ cũng đủ
cuốn trôi nhà ấy.
Cuộc đời con người
cũng thế: Nếu họ chịu xây dựng cuộc đời của họ trên nền tảng của Lời Chúa, tuy
khó khăn lúc đầu, nhưng sẽ giúp họ đứng vững trước bất kỳ cơn phong ba bão táp
nào của cuộc đời. Nhưng nếu họ không chịu xây dựng cuộc đời trên nền tảng Lời
Chúa, họ sẽ bị cuốn hút, và không thể nào thắng vượt được những cơn lốc của thế
gian, và bẫy giăng của ma quỉ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải luôn
biết lấy tình thương Thiên Chúa để đối xử với nhau trong mọi hoàn cảnh: khi thịnh
vượng cũng như lúc nghèo khổ, khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau, khi vinh
quang cũng như lúc đau khổ; vì đó là lệnh truyền của Thiên Chúa.
– Tri hành đồng nhất.
Lời nói phải đi đôi với việc làm. Nếu chúng ta không thực hành những gì Thiên
Chúa dạy, lời khôn ngoan cách mấy cũng chẳng giúp được gì cho chúng ta; nhưng nếu
chúng ta kiên nhẫn mang Lời Chúa ra áp dụng vào cuộc sống, Lời Chúa sẽ sinh rất
nhiều lợi ích cho cuộc đời chúng ta.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
27/06/2019 – THỨ NĂM TUẦN 12 TN
Th. Sy-ri-lô, giám mục A-lê-xan-ri, tiến sĩ HT
Mt 7,21-29
NỀN MÓNG GIA ĐÌNH
“Ai nghe những lời Thầy nói đây và đem ra thực hành, thì ví
được như người khôn xây nhà trên đá” (Mt 7,24)
Suy niệm: Căn nhà bền vững, chắc chắn
trước thời tiết khắc nghiệt qua năm tháng là nhờ được xây trên một nền móng vững
chắc. Thời Chúa Giê-su, cái nền móng ấy thường được xây bằng đá tảng. Chúa
Giê-su dùng hình ảnh đời thường quen thuộc ấy để áp dụng trong đời sống đức
tin. Với Ngài, nền móng đá tảng cho cuộc đời cá nhân, gia đình, cộng đoàn, xã hội
là nghe và thực hành Lời Chúa: thi hành ý muốn của Chúa Cha, qua lời giảng dạy
của Chúa Con. Thiếu việc thực hành Lời Chúa, chúng ta đang xây dựng ngôi nhà cuộc
đời mình trên cát, không nền móng: ngôi nhà ấy sẽ nhanh chóng sụp đổ trước khó
khăn, thử thách. Các gia đình ngày nay có nhìn nhận và giải quyết mọi vấn đề của
mình dưới ánh sáng Lời Chúa, mới có thể bền vững trước những khó khăn, thách đố.
Mời Bạn: Thực hành Lời Chúa là sự sống
còn của đời sống đức tin, vì “Không phải ai thưa: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” sẽ được
vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên
trời” (c. 21). Thực hành Lời được chép trong Sách Thánh là làm cho những dòng
chữ vô hồn được trở nên sống động trong sinh hoạt đời thường hằng ngày của người
Ki-tô hữu.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày, mỗi tuần bạn hãy tâm niệm một câu Lời Chúa được
nghe trong thánh lễ và đem ra thực hành trong đời sống.
Cầu nguyện: Đọc kinh Gia
Đình hoặc lời cầu nguyện sau: Lạy Chúa, Lời Chúa là đá tảng cho cuộc đời con.
Xin giúp con đổi mới đời con, gia đình, cộng đoàn bằng việc thực thi
thánh ý Chúa mỗi ngày. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Xây trên nền đá (27.6.2019 – Thứ
Năm tuần 12 TN)
Suy niệm:
Nếu ai trong cộng đoàn các Kitô hữu chúng ta
có khả năng nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là dùng quyền năng của Ngài,
để nói tiên tri, để trừ quỷ hay làm nhiều phép lạ (c. 22),
chắc chúng ta sẽ tin ngay người đó là môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
Người đó dĩ nhiên phải là người tốt lành, thánh thiện, đáng tin,
vì chỉ ai là người của Chúa mới làm được những điều lạ lùng đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng vội kết luận.
Làm được những điều Chúa đã làm như trừ quỷ hay chữa bệnh
chưa chắc chắn đã là người môn đệ chân chính.
Những kết quả hoành tráng trên vẫn chưa đủ để biết cây (Mt 7, 16).
Cả những ai thưa với Thầy Giêsu: Lạy Chúa! lạy Chúa!
cũng không hẳn sẽ được vào Nước Trời (c. 21).
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn quan trọng khác để nhận định.
Đó là chính cuộc sống của người môn đệ đó.
“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời…” (c. 21).
Ý muốn ấy được giải thích và diễn tả qua “những lời Thầy nói đây” (c.
24).
Vậy tiêu chuẩn chắc chắn để nhận ra người môn đệ thật
đó là xem người đó có sống đúng tinh thần của Đức Giêsu không,
có làm điều Ngài dạy qua Bài Giảng trên núi không.
“Những kẻ làm điều gian ác” ở đây là những người đã nghe và không làm.
Ngay cả những kẻ ấy cũng có thể làm được những điều kỳ diệu,
khiến chúng ta bị ngây ngất, say mê và ngộ nhận.
Nhưng vào ngày phán xét, mọi sự sẽ bị phanh phui.
Chúa sẽ nói với họ: “Ta không biết các ngươi. Xéo đi khỏi Ta” (c. 23).
Nước Trời không dành cho những ai bất tuân phục Ý Chúa.
Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa Cha,
nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung kính đón nhận
bằng cách sống trọn vẹn Ý Cha như một người con thảo hiền.
Không có thái độ này, thì quà có đó mà vẫn không đến tay.
Chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu quá nhiều, nhưng thực hành lại chưa đủ.
Chính vì thế khi mưa đổ xuống, gió giật, nước dâng,
ngôi nhà đời chúng ta sụp đổ dễ dàng.
Vấn đề không phải do cuồng phong và lũ lụt,
mà do nền móng của ngôi nhà, nền đá hay nền cát.
Sau một cơn bão, có những tòa nhà cổ vẫn đứng vững hiên ngang,
trong khi những ngôi nhà mới xây lại sụp đổ.
Cơn bão nói cho ta về chất lượng thật của ngôi nhà.
Có bao nhiêu cơn bão mà ngôi nhà mỗi người vẫn phải gánh chịu mỗi năm?
Có lẽ ta nên chọn một câu Tin Mừng làm nền đá cho ngôi nhà đời mình.
Và xây cả đời mình trên việc sống câu Tin Mừng ấy.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường
từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà
trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời
Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra
thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi
chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời
Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời
Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh
đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự
do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng
con
được xây trên nền tảng vững
chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống
chúng con.
Lm.
Antôn NGuyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG SÁU
Trong Sự Chăm Sóc
Ân Cần Của Cha
Ngay từ thuở ban đầu,
sự quan phòng của Thiên Chúa được xem như một chân lý nền tảng của đức tin. Huấn
quyền của Giáo Hội luôn luôn khẳng định điều ấy, tuy rằng mãi đến Công Đồng
Vatican I chân lý này mới được tuyên bố chính thức về mặt tín lý. Công Đồng nói
về sự quan phòng của Thiên Chúa nơi tạo vật: “Mọi sự mà Thiên Chúa đã sáng tạo,
Ngài gìn giữ và dẫn dắt bằng sự quan phòng của Ngài – sự quan phòng ấy bao trùm
từ chân trời này tới chân trời kia và cai quản tất cả một cách tốt đẹp” (Kn
8,1), “Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mắt Ngài (Dt 4,13), kể cả những
gì sẽ xảy ra do sáng kiến tự do của các thụ tạo” (DS 3003).
Bản văn của Vatican I
nhằm đáp ứng cho những nhu cầu cụ thể của các tín hữu Công Giáo sống trong thế
kỷ 19. Trước hết, Công Đồng muốn xác nhận giáo huấn vốn sẵn có của Giáo Hội về
sự quan phòng, một giáo huấn bất biến có liên kết chặt chẽ với toàn bộ sứ điệp
Thánh Kinh. Chúng ta nhận ra điều này trong những bản văn Cựu Ước và Tân Ước đã
được trích dẫn trong bản văn của Công Đồng.
Qua việc xác nhận giáo
thuyết này, Công Đồng chống lại những sai lạc của thuyết duy vật và thuyết tự
nhiên thần giáo (deism) của thế kỷ 19. Thuyết duy vật phủ nhận sự hiện hữu của
Thiên Chúa. Thuyết tự nhiên thần giáo tuy nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa
và sự sáng tạo thế giới song lại chủ trương rằng Thiên Chúa không hoạt động
trong thế giới mà Ngài đã sáng tạo. Vì thế, có thể nói rằng thuyết này (deism)
trực tiếp chống lại chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 27/6
Thánh Cyrillô
Alexandria, tiến sĩ Hội Thánh
St 16, 1-12. 15-16;
Mt 7, 21- 29.
LỜI SUY NIỆM: “Không phải bất
cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ
ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới đươc vào mà thôi.”
Cầu nguyện, đối với người Kitô hữu là lương thực cần thiết để nuôi sống cả hồn
lẫn xác. “Trong mọi lời cầu nguyện phải đặt trên nền tảng đức tin. Nó không hệ
tại chỉ là lời “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” Nhưng là sẵn lòng thi hành thánh ý của
Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã dạy chúng con cầu nguyện với kinh Lạy Cha: “Lạy Cha
chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh Cha vinh hiển, triều đại Cha
mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. (Mt 6,9-10). Xin Chúa cho
chúng con luôn quan tâm cọng tác vào kế hoạch yêu thương, cứu độ của Chúa Cha.
Để được vào Nước Trời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
27-06: Thánh CYRILLÔ ALEXANDRINÔ
Giám Mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (+444)
Năm 412 thánh Cyrillô
kế vị cậu Ngài là Theophilô làm giám mục Alexandria. Khi ấy Ngài đã vào khoảng
trung tuần. Người ta không biết gì về cuộc sống Ngài trước đó, trừ trường hợp,
Ngài có mặt trong vụ kết án thánh Gioan Kim Khẩu năm 408. Hiển nhiên là Ngài đã
có thời sống như một ẩn sĩ trong sa mạc và đã được giáo dục kỹ lưỡng về văn
chương Hy Lạp.
Vào thế kỷ V, các giáo
phụ Alexandria đã trở thành những giám mục giàu có và uy quyền nhất trong đế quốc.
Trở thành Kitô, người Ai cập vẫn còn mang những gì còn lại trong tâm tình dân tộc
của mình. Các giám mục tự mô tả như là những Đấng kế vị thánh Marcô, nhưng cũng
kế nhiệm các thượng tế Amen Ra và có phong cách nào đó của Pharao.
Suốt 15 năm đầu làm
giám mục, thánh Cyrillo đã đập tan thế hệ cầm quyền và những nhà đổi tiền Do
thái ở Alexandria. Việc thực thi đức ái của Ngài đối với người nghèo khó, bệnh
hoạn cũng như lòng thương cảm sâu xa của Ngài với mọi tội nhân hối cải, luôn
kèm theo một chút cứng rắn. Chắc chắn là các kẻ thù của Ngài cũng là kẻ thù của
Thiên Chúa. Nhiệt tâm với các linh hồn và say mê bảo vệ đức tin Kitô giáo, Ngài
sẵn sàng dùng đến mọi phương tiện trong tay như là của cải, tài khích lệ quần
chúng và lực lượng các thầy dòng.
Điều này giúp chúng ta
hiểu được tại sao cuộc tranh luận về Kitô học mà Ngài giữ một vai trò lớn lao
đã có màu sắc pha trộn chính trị lâu dài như vậy.
Năm 438, thày dòng
Nestôriô trở thành thượng phụ Constantinople. Dường như ông ta đã làm giám mục
tại triều đình có tham vọng mãnh liệt, tin vào hiệu quả lớn mạnh do đời sống cầu
nguyện của mình và có ý tiêu diệt mọi lạc thuyết. Đàng khác, không chắc rằng
ông đã muốn trở thành lạc giáo. Vào đầu thế kỷ V, các thần học gia đền nhận rằng:
đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Dầu vậy chưa có định tín về mối
tương quan giữa Thiên tính và nhân tính của Người như thế nào. Thánh Cyrillo chủ
trương rằng: cả hai bản tính kết hợp mật thiết với nhau, đến độ Mẹ Chúa Kitô
cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Nestôriô thì phân biệt rằng Mẹ Con Trẻ Giêsu chỉ
được gọi là Mẹ Chúa Kitô mà thôi. Mỗi bên đều tố cáo bên kia là lạc giáo.
Thánh Cyrillo liên kết
với các tu sĩ Đông phương Ngài còn được Đức giáo hoàng nâng đỡ và cử làm Vị đại
diện ở Đông phương. Với mệnh lệnh này, năm 430 Ngài kết án Nestôriô là lạc giáo
tại một hội nghị ở Alexandria. Mùa hè năm 431, Ngài triệu tập và chủ tọa cộng đồng
chung ở Ephesô. Nestôriô không những bị kết án mà còn bị truất phế nữa. Đức
trinh Nữ được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa.
Công đồng Ephêsô được
Đức giáo hoàng chuẩn nhận. Nhưng hoàng đế lại không công nhận vì thánh Cyrillo
đã không đợi 43 giám mục có thiện cảm với Nestôriô tới họp. Thánh Cyrillo bị bắt
ở Tiểu Á và bị giam tù trong hai tháng. Thánh phụ Antiôkia và các người dưới
quyền cắt đứt hiệp thông với Ngài. Thánh nhân trốn về Ai cập và năm 433 kết hợp
lại được với Antiôkia. Từ đó Ngài lại thúc đẩy hoàng đế chấp nhận các sắc lệnh
của công đồng Ephêsô. Hoàng đế vẫn nghi ngờ Ngài cho đến khi Ngài qua đời vào
năm 444. Thánh Cyrillo vẫn còn dấn thân vào cuộc tranh luận Kitô học này cho đến
chết.
Không có nhà thần học
Hy Lạp nào lớn hơn thánh Cyrillo. Ngài có khả năng tổng hợp và nhận định có thể
so sánh được với thánh Augustinô. Không có thánh nhân nào bị phê bình tàn khốc
như thánh nhân, nhưng ít có thánh nhân nào đã hăng hái như Ngài. Cả những người
ghen ghét cũng không thề chất vấn về sự cao cả của Ngài. Bên dưới sự hăng hái của
Ngài là cả một tình yêu mạnh mẽ đối với đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào lòng
thương xót của Người. Đức giáo hoàng Celestinô xưng tụng Ngài là đấng bảo vệ
Giáo hội và Đức tin”.
(daminhvn.net)
27 Tháng Sáu
Con Chim Trong Bàn Tay
Người Ba Tư có kể
câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Ngày xưa, tại quảng
trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố giải
đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.
Một hôm, giữa đám
người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử từ trên núi cao đến.
Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng
kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông.
Anh tiến đến gần
nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. anh đặt câu hỏi như sau:
‘Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc thông thái biết được
mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?”.
Nhà hiền triết biết
đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu ông bảo rằng
con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi
mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn
manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau một hồi thinh lặng,
trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau: “Con
chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn
cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó chết”.
Ai trong chúng ta cũng
khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình,
vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc hơn
là hưởng nếm chính hạnh phúc đang cầm trong tầm tay của chúng ta. Hạnh phúc
đích thực chính là con chim mà mỗi người chúng ta đang có ở trong lòng tay. Con
chim ấy sống hay chết là tùy ở mỗi người chúng ta. Chúng ta được hạnh phúc,
chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta.
Hạnh phúc đích thực của
chúng ta, niềm vui đích thực của chúng ta chính là Thiên Chúa. Nếu chúng ta để
cho Thiên Chúa chiếm ngự, nếu chúng ta để cho Thiên Chúa lấp đầy, thì cho dẫu
ngoại cảnh có làbầu trời đen tối đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy an bình, hạnh
phúc.
Ý thức được sự hiện diện
của Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa chiếm trọn tâm tư, lấy Chúa làm tất cả
trong cuộc sống, chúng ta sẽ có được niềm vui đích thực.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét