04/07/2019
Thứ năm đầu tháng, tuần 13 thường niên.
BÀI ĐỌC I: St 22, 1-19
“Lễ hiến tế của Abraham Tổ phụ
chúng ta”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: “Abraham, Abraham!” Ông đáp lại: “Dạ,
con đây”. Chúa nói: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con yêu dấu của ngươi, và đi đến
đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”.
Vì vậy ban đêm Abraham chỗi dậy, thắng lừa, dẫn theo hai đầy tớ và Isaac, con của
ông; khi đã chặt củi dành để đốt của lễ toàn thiêu, ông đi đến nơi Chúa đã truyền
dạy. Đến ngày thứ ba, ngước mắt lên, ông thấy nơi còn xa xa; ông bảo các đầy tớ
rằng: “Các ngươi và con lừa hãy đợi tại đây. Ta và con trẻ đi đến nơi kia, sau
khi cử hành việc thờ phượng xong, chúng tôi sẽ trở lại đây với các ngươi”. Ông
lấy củi dành để đốt của lễ toàn thiêu mà đặt trên vai Isaac, con ông, còn ông
thì cầm lửa và gươm. Khi cha con cùng đi trên đường, Isaac hỏi cha mình rằng:
“Thưa cha”. Ông Abraham trả lời: “Hỡi con, con muốn gì?” Isaac nói: “Củi và lửa
có đây rồi, còn của lễ toàn thiêu ở đâu?” Ông Abraham đáp: “Hỡi con, Thiên Chúa
sẽ dự liệu của lễ toàn thiêu”. Vậy hai cha con tiếp tục cùng đi.
Khi hai người đến nơi
Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt
lên đống củi trên bàn thờ. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ
thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: “Abraham! Abraham!” Ông thưa lại: “Dạ,
con đây”. Người nói: “Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết
ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta”.
Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi
cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Ông gọi tên nơi này là
“Chúa trông thấy”. Bởi vậy, mãi cho đến ngày nay, người ta quen nói rằng “Trên
núi Chúa sẽ trông thấy”.
Thiên thần Chúa gọi
Abraham lần thứ hai và nói rằng: “Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều
đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc
phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như
cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc trên
mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Ông Abraham trở về
cùng các đầy tớ, và họ cùng nhau đi về Bersabê, và lập cư tại đó. Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 114, 1-2.
3-4. 5-6. 8-9
Đáp: Tôi sẽ tiến đi
trước Thiên nhan Chúa, trong miền đất của nhân sinh (c. 9).
Xướng:
1) Tôi mến yêu Chúa,
vì Chúa đã nghe, đã nghe tiếng tôi cầu khẩn; vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi
trong ngày tôi kêu cầu Chúa. – Đáp.
2) Thừng chão tử thần
đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh
lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống
con”. – Đáp.
3) Chúa nhân từ và
công minh, và Thiên Chúa của chúng tôi rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất
phác, tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi. – Đáp.
3) Bởi Người đã cứu
tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến
đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”.
– Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 9, 1-8
“Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban
cho loài người quyền năng như thế”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống
thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một
kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất
toại rằng: “Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi”. Bấy giờ mấy luật
sĩ nghĩ thầm rằng: “Ông này nói phạm thượng”. Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền
nói: “Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng ‘Tội con
được tha rồi’, hay nói ‘Hãy chỗi dậy mà đi’, đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế
là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội”. Bấy giờ
Người nói với người bất toại: “Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con”. Người
ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã
ban cho loài người quyền năng như thế. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Sống niềm
tin
Con người là con vật
xã hội. Xã hội không dành riêng phần đất cho những người tự đóng kín vào mình.
Vừa mở mắt chào đời, con người đã phải đón nhận sự nâng đỡ của người khác, rồi
trong suốt cuộc đời, không ai có thể tự hào mình không cần nhờ vả đến ai. Sống
là một luân lưu của những trao đổi và cảm thông. Tôi phải nhờ đến người khác và
cũng có bổn phận để người khác nhờ đến tôi.
Ðời sống đức tin cũng
không ra ngoài định luật ấy. Ơn cứu độ được gửi đến cho tất cả, chứ không cho
riêng một ai, mỗi cá nhân đón nhận nhưng rồi phải san sẻ cho người khác. Sự
thánh thiện hoặc tội lỗi của một người cũng có ảnh hưởng đến người khác. Chúa
Giêsu đã lên án mạnh mẽ những ai làm cớ vấp phạm cho người khác xa lìa Thiên
Chúa.
Tin Mừng hôm nay thuật
lại một phép lạ xẩy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng
đến cho Chúa Giêsu. Phúc Âm Marcô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ
này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê
liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu
nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng
của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng
người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Dấu lạ đòi hỏi lòng
tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ
dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người
khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh
nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn
nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng
tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta
biết sống niềm tin, dù cho có gặp nhiều cản trở, nhờ đó chúng ta sẽ nhận được
ơn lành của Chúa, và củng cố niềm tin nơi nhiều người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 13 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Gen
22:1-19; Mt 9:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức tin mang
lại những điều tốt lành và có thể tha tội cho con người.
Trong lãnh vực đức
tin, con người không thể nói họ chỉ tin những gì họ có thể hiểu được. Lý do đơn
giản là có những mầu nhiệm của Thiên Chúa vượt quá tầm hiểu biết của con người;
chẳng hạn các Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, Mình Máu Thánh Chúa, Thánh Giá, đau khổ …
Để hiểu những mầu nhiệm này, con người cần mặc khải của Thiên Chúa qua Đức
Kitô.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn
chứng cho chúng ta thấy phải tin tưởng và vâng lời Thiên Chúa, mặc dù con người
không luôn hiểu lý do tại sao. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật
đức tin sắt đá của Abraham vào Thiên Chúa, qua việc sẵn sàng sát tế người con
duy nhất cho Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa người bại liệt và tha thứ tội
lỗi vì ông có niềm tin nơi Ngài. Chúa cũng kiên nhẫn mặc khải cho các kinh sư về
quyền tha tội của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thử thách đức tin của Abraham.
1.1/ Đức tin sắt đá của
Abraham vào Thiên Chúa: Có nhiều điều chúng
ta học hỏi được từ câu truyện lịch sử này, hôm nay chúng ta chỉ chú ý đế hai điểm
chính:
(1) Abraham không hỏi
lý do tại sao Thiên Chúa muốn ông làm điều đó: Nhiều người trong chúng ta chắc
chắn sẽ đặt câu hỏi tại sao Thiên Chúa muốn Abraham làm điều đó, vì nó hoàn
toàn đi ngược lại với sự suy luận của loài người: Làm sao người cha có can đảm cầm
dao giết con, nhất là đứa con thừa tự mà Thiên Chúa ban cho trong lúc tuổi già!
Abraham không thắc mắc,
vì ông đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa: Chúa bảo “Đi!” ông đi. Chúa bảo:
“Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ
Moriah mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.”
Sáng hôm sau, ông Abraham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là
Isaac, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên
Chúa bảo. Abraham không cần hỏi vì ông quá tin tưởng vào Thiên Chúa; ông biết
Thiên Chúa có mục đích khi Ngài truyền ông phải làm bất cứ điều gì. Khi chưa hiểu
được lý do, Abraham dùng đức tin để bước đi.
(2) Tình phụ tử vẫn phải
đặt sau tình yêu Thiên Chúa: Ba ngày trong cuộc hành trình là khoảng thời gian
dài để Abraham có thể đổi ý, không làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa, nhất là
sau khi nghe câu truyện đối thoại giữa hai cha con:
– Isaac thưa với cha
là ông Abraham: “Cha!”
– Ông Abraham đáp:
“Cha đây con!”
– Cậu nói: “Có lửa, có
củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?”
– Ông Abraham đáp:
“Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ.” Rồi cả hai cùng đi.
Tuy thế, tình yêu của
Abraham dành cho Thiên Chúa mạnh hơn tình phụ tử của Abraham dành cho Isaac;
nên khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi
lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham
đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
1.2/ Phần thưởng dành cho
Abraham:
(1) Đức tin cần được
tôi luyện trong thử thách: Nếu một người sẵn sàng sát tế người con một của mình
để chứng tỏ niềm tin cho Thiên Chúa, chẳng cần gì phải thử thách người đó nữa.
Thiên Chúa, Đấng thấu hiểu mọi bí ẩn trong con người, đã hiểu rõ đức tin của
Abraham dành cho Ngài. Một khi Thiên Chúa đã nhìn thấy đức tin của ông, việc
sát tế Isaac không còn cần thiết nữa; nên Thiên Chúa ra lệnh cho sứ thần đình
chỉ việc sát tế Isaac: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết
ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi,
ngươi cũng chẳng tiếc!”
Chúng ta đã so sánh việc
sát tế Isaac trên núi Moriah với việc sát tế Chúa Giêsu, Người Con Một của
Thiên Chúa, trên đồi Golgotha, không xa Moriah bao nhiêu. Điểm khác biệt giữa
hai biến cố là Isaac không chết; nhưng Chúa Giêsu đã đổ máu chết thực sự để chuộc
tội cho con người. Lý do Chúa Giêsu phải chết là Thiên Chúa muốn chứng thực
tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Con người cần bằng chứng vì con người
không thể nhìn thấu tâm tư của Thiên Chúa.
(2) Thiên Chúa chúc
lành cho giòng dõi Abraham: Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần
nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì
ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ
thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho giòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như
sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Giòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành
trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng
dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.”
Một người làm quan cả
họ được nhờ. Vì hành động anh hùng và vâng lời của tổ-phụ Abraham, Thiên Chúa
chúc lành ông và cho toàn giòng dõi của ông. Cũng như vì sự bất tuân của Adam,
mà ông và toàn giòng dõi ông bị chúc dữ. Đức tin của một người không bao giờ chỉ
giữ lại trong người đó, nhưng sẽ lan tràn và sinh lợi ích cho nhiều người.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu có quyền tha tội và quyền chữa lành (Mk 2:1-12;
Lk 5:17-26).
2.1/ Các kinh-sư chất vấn
quyền tha tội của Chúa Giêsu: Người ta
khiêng đến cho Chúa Giêsu một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin
như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội
rồi!”
(1) Phản ứng của các
kinh-sư: Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng!” Truyền thống
Do-thái tin: Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội.
(2) Phản ứng của Chúa
Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói: “Sao các ông lại nghĩ xấu
trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là bảo: “Con đã được tha tội rồi!” hai
là bảo: “Đứng dậy mà đi!” điều nào dễ hơn?
Dĩ nhiên điều dễ làm
hơn là bảo: “Con đã được tha tội rồi!” vì chẳng ai có thể xác quyết quyền này.
Điều khó hơn là truyền cho bệnh nhân: “Đứng dậy mà đi!” vì ai ai cũng có thể chứng
nhận người truyền có thể làm việc ấy hay không. Để chứng minh cho họ biết Ngài
có cả hai quyền, Chúa Giêsu truyền cho người bại liệt: “Đứng dậy, vác giường đi
về nhà!” Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.
2.2/ Quyền tha tội liên
quan đến việc chữa lành:
(1) Chúa Giêsu có quyền
tha tội: Bệnh tật là hậu quả của tội; nếu chữa lành bệnh tật là cũng lấy đi tội
lỗi, nguyên nhân của bệnh. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành để chứng minh Ngài có
quyền tha tội.
(2) Chúa Giêsu là
Thiên Chúa: Ngoài ra, như mấy kinh sư tin tưởng: Chỉ Thiên Chúa mới có quyền
tha tội; mà Chúa Giêsu có quyền tha tội; cho nên Ngài phải là Thiên Chúa. Như
thế, lời kết tội Chúa Giêsu của các kinh sư “Ông này nói phạm thượng!” là sai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải vâng lời
những gì Thiên Chúa truyền và sự quan phòng của Ngài, cho dù chúng ta không hiểu
tại sao xảy ra như vậy. Ngài sẽ soi sáng hay mặc khải cho chúng ta hiểu sau.
– Để hiểu các mầu nhiệm
của Thiên Chúa, chúng ta cần khiêm nhường nhận giời hạn hiểu biết của con người,
và cầu xin sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
04/07/2019 – THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 13 TN
Th. Ê-li-sa-bét Bồ Đào Nha
Mt 9,1-8
CHỮA LÀNH THIÊNG LIÊNG
“Này con, cứ yên tâm, tội con được tha rồi!” (Mt 9,2)
Suy niệm: Người ta khiêng một người
bại liệt nằm trên gường đến với Đức Giê-su, cầu xin Chúa chữa lành cho anh để
anh có thể đứng dậy đi được. Họ mong được chữa lành tật bệnh phần xác, còn Chúa
Giê-su quan tâm chữa trị tận gốc của căn bệnh là tội lỗi nơi anh. Họ chỉ muốn
coi Chúa như một ông thầy lang chữa bệnh miễn phí nhưng lại không nhận ra Ngài
là vị Lương Y do Thiên Chúa Cha sai đến. Ngài biết rằng: tội lỗi làm cho tâm hồn
anh ra băng hoại, không còn sống trong bình an với Thiên Chúa và tha nhân. Ngài
nói lời ban ơn tha tội cho anh. Lời ân phúc này đối với người biệt phái, là một
câu nói lộng ngôn, lộng quyền vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội.
Để cho họ thấy Ngài thực sự có quyền tha tội, Ngài bảo người bệnh: “Đứng dậy
vác chõng mà về,” anh ta đứng dậy làm theo lời Chúa.
Mời Bạn: Tội lỗi cá nhân và những
cơ chế tội lỗi do họ đặt ra là những con vi khuẩn gây bệnh tàn phá tâm hồn và
cuộc sống xã hội. Điều bi đát nữa là người ta đánh mất ý thức về tội lỗi; họ phạm
tội mà không biết rằng mình phạm tội, thậm chí còn coi như một việc bình thường,
hay một việc nên làm.
Sống Lời Chúa: Hằng ngày trước khi đi ngủ,
tôi xét mình trước mặt Chúa và ăn năn thống hối vì những lỗi lầm thiếu sót của
mình. Tôi siêng năng lãnh nhận bí tích Hòa Giải để được ơn tha tội và được ơn
nghĩa với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã chịu nạn chịu chết trên thập giá để tha tội cho con và cho con được làm
con Chúa. Xin cho con biết giữ tâm hồn trong sạch, xa tránh mọi tội lỗi cố
tình, và luôn sống trong tình yêu Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Thấy họ có lòng tin (04.7.2019 –
Thứ Năm tuần 13 TN)
Suy niệm:
Khiêng một người bất toại trên một cái giường là điều không dễ.
Chẳng biết có mấy người khiêng và khiêng bao xa?
Chẳng rõ tương quan giữa họ ra sao, có phải là bạn bè, họ hàng không?
Có điều chắc là anh bất toại không thể tự mình đến với Thầy Giêsu được.
Chân của anh có vấn đề, và thời ấy không có xe lăn như bây giờ.
Anh cần đến sự giúp đỡ của bạn bè quen biết.
Và đã có những người đáp lại vì tình thương đối với anh chịu tật nguyền.
Rồi đã có một cuộc hẹn, và sau đó cả nhóm lên đường.
Tình bạn làm cho đường đến nhà của Thầy Giêsu ở Caphácnaum gần hơn.
Nhưng vất vả, nhọc nhằn thì vẫn không tránh được.
Đưa người bất toại đến với Thầy Giêsu quả là một kỳ công,
vì trong Tin Mừng theo thánh Máccô, họ đã phải đưa người bệnh xuống
qua một lỗ thủng ở trên mái nhà, bởi lẽ không có đường nào khác! (Mc 2,
4).
Dù sao Thầy Giêsu cũng đã thấy lòng tin của họ (c. 2).
Lòng tin là cái bên trong, nhưng được lộ ra ngoài.
Cả người bất toại lẫn các người khiêng đều có chung một lòng tin.
Tin rằng đến với Thầy Giêsu là thế nào cũng được khỏi.
Họ nuôi một niềm hy vọng lớn: khi trở về không phải khiêng nhau nữa.
Anh bất toại có thể đi được bằng đôi chân của chính mình,
và đi ngang hàng với những người bạn khác.
Tin, yêu và hy vọng là những tâm tình có trong tim của nhóm bạn này.
Không có những điều đó thì cũng chẳng có phép lạ khỏi bệnh.
Ơn Thiên Chúa vẫn đến với con người ngang qua lòng tốt của con người.
Nhưng lạ thay Thầy Giêsu lại có vẻ không màng đến chuyện chữa bệnh.
Thầy nói với người bất toại: “Các tội của anh được tha thứ” (c. 2).
Ơn đầu tiên người bất toại nhận được là một ơn mà anh không xin,
ơn đó không phải nơi thân xác, nhưng nơi linh hồn.
Hẳn Thầy Giêsu không có ý nói rằng anh bị tật là vì đã phạm tội.
Nhưng Ngài muốn cho thấy uy quyền của lời Ngài nói.
Lời này có thể tha tội và lời này cũng có thể chữa lành.
Nếu các kinh sư nghĩ rằng Ngài đã nói phạm thượng (c. 3),
dám tiếm quyền tha tội dành cho một mình Thiên Chúa,
thì Ngài sẽ chứng tỏ cho họ thấy Ngài có quyền tha tội dưới đất.
Ngài bảo anh bất toại: “Đứng dậy, vác chõng mà đi về nhà” (c. 6).
Ngài đã không chọn điều dễ hơn (c. 5), điều khó kiểm chứng.
Anh bất toại đã đứng dậy và đi về nhà cùng với các bạn của anh.
Anh đã được hơn cả điều anh mong ước, đó là hồn an xác mạnh.
Đức Giêsu có quyền giải phóng ta khỏi bệnh tật và tội lỗi.
Tội lỗi cũng làm ta bất toại, không đến được với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhưng Đức Giêsu đã muốn chia sẻ quyền này cho “loài người” (c. 8).
Môn đệ của Ngài vẫn làm thừa tác vụ chữa lành và tha tội cho đến tận thế.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã giúp cho bao người què đi được trên đôi chân của mình.
Chúa đã làm cho người bất toại
nằm chờ đợi nhiều năm bên hồ nước
bất ngờ trỗi dậy, vác chõng và bước đi.
Chúa đã làm cho người bất toại
mà bạn bè vất vả đưa xuống từ lỗ hổng của mái nhà,
được khỏi bệnh, lòng bình an vì được tha thứ.
Chúa đã cho kẻ bại tay được đưa tay ra
và tay anh trở lại bình thường.
Bất toại trên thân xác thật là điều đáng sợ.
Nhưng đáng sợ hơn là thứ bất toại của tâm hồn.
Có thứ bất toại làm chúng con không đến được với người khác,
dù nhà họ ở kế bên nhà chúng con,
không đến được với Chúa, dù Chúa vẫn luôn chờ đợi.
Có thứ bất toại làm chúng con không thể đưa tay ra
để bắt tay người đối diện hay để chia sẻ một món quà.
Có thứ bất toại làm trái tim chúng con khô cứng,
hững hờ trước nỗi đau của người anh em.
Xin giúp chúng con ra khỏi
những thành kiến và mặc cảm, thù oán và ghen tương,
để chuyển động mềm mại hơn dưới sự tác động của Chúa.
Xin cũng giúp chúng con biết khiêm tốn
nhìn nhận sự bại liệt của mình,
và chấp nhận để người khác đưa mình đến gặp Chúa.
Lm.
Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG BẢY
Biến Cái Hỗn Mang
Thành Trật Tự
Trong nhiều bản văn,
Thánh Kinh ca ngợi sự quan phòng thần linh như là quyền bính tối cao của thế giới,
quyền bính đầy quan tâm đối với mọi tạo vật, nhất là đối với con người. Thiên
Chúa, trong tư cách là chủ nhân đầy tình yêu thương đối với tất cả những gì mà
Ngài đã tạo dựng, vẫn luôn luôn làm việc trong mọi sự.
Thiên Chúa, bằng sự
khôn ngoan đầy sức sáng tạo của Ngài, dự liệu mọi sự và làm việc trong mọi sự.
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa vượt xa sự khôn ngoan và cẩn trọng của con người.
Thật vậy, Thiên Chúa – Đấng siêu việt trên mọi sự – làm cho thế giới có thể biểu
hiện trật tự lạ lùng theo ý Ngài ở nhiều cấp độ khác nhau.
Chính sự quan phòng và
khôn ngoan này của Đấng Tạo Hóa làm cho thế giới có thể vận hành như một vũ trụ
có hệ thống và trật tự chứ không phải như một mớ hỗn mang. “Chúa đã sắp xếp có
chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi” (Kn 11,20). Thánh Kinh trầm trồ
về sự khôn ngoan sáng tạo của Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04/7
Thánh nữ Elisabét Bồ
Đào Nha
St 22, 1-19; Mt 9,
1-8.
LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu bảo
người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!” Có mấy kinh sư
nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng.”
“Chúa Giêsu làm những hành vi, như việc tha tội, biểu lộ rằng Người là chính
Thiên Chúa Cứu Độ. Một số người Do-Thái, không nhận biết Chúa Giêsu là Thiên
Chúa làm người, chỉ thấy Người là một phàm nhân mà lại tự cho mình là Thiên
Chúa, nên đã kết án Người là kẻ nói phạm thượng.” (GL số 594)
Lạy Chúa Giêsu, trong mỗi người chúng con đây, ai ai cũng đang mang những chứng
bại liệt trong tâm hồn của mình; không tự mình đứng lên được. Với lòng thương
xót của Chúa, xin cho chúng con vững tin và cầu xin hằng ngày và mọi lúc, để
chúng con được Chúa an ủi và chữa lành mọi đau đớn của chúng con.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-07: Thánh
ELISABETH LUSITANIA
(1271 – 1336)
Thánh Elisabeth là con
vua Phêrô III nước Aragon, và là cháu vua Giacôbê I. Ngài sinh ra năm 1271 và
được đặt tên là Elisabeth, để kính nhớ thánh nữ Elisabeth, hoàng hậu nước
Hungari là dì của cha Ngài, mới được đức giáo hoàng Grêgôriô IX tuyên thánh 40
năm trước. Elisabeth ra đời như sứ giả hòa bình, vì khi Ngài sinh ra cha Ngài
và ông nội Ngài làm hoà với hau.
Vua Giacôbê muốn tự
mình giáo huấn đứa cháu gái. Elisabeth lên sáu tuổi thì ông nội từ trần. Nhưng
những chỉ dẫn thánh thiện của ông nội lẫn gương sáng của bà nội đã in sâu trong
tâm hồn thánh nữ. Nhận xét về đứa cháu gái của mình. Có lần nhà vua thánh thiện
Giacôbê đã nói: – Đây là viên ngọc xứ Aragon.
Lên tám, Elisabeth đã
tỏ ra là người trưởng thành. Vào tuổi này Ngài đã bắt đầu đọc kinh nhật tụng và
sẽ trung thành đến phút cuối đời. Dầu thân xác yếu đuối, Ngài vẫn sống đời khắc
khổ. Ngày áp lễ Đức Mẹ thánh nữ thường giữ chay nhiệm nhặt để dọn mình, không
thích chưng diện sang trọng, Ngài sống khiêm tốn hiền hậu. Mọi người trong triều
đình coi Ngài như một thiên thần được Thiên Chúa gởi xuống. Cha Ngài cũng phải
nhìn nhận rằng: chính lòng đạo đức của con gái mình đã kéo ơn phúc lành từ trời
cao xuống cho vương quốc.
Vào tuổi 12, Elisabeth
được nhiều hoàng tử chú ý. Sau hai lần từ khước lời cầu hôn của hoàng tử nước
Anh và của hoàng tử nước Ý, thánh nữ nhận lời thành hôn với hoàng tử Denis nước
Bồ Đào Nha. Trở thành hoàng hậu, Elisabeth vẫn luôn hướng lòng về Thiên Chúa.
Ngài dốc toàn lực để chu toàn phận vụ của một hoàng hậu. Nhưng ưu tư quan yếu của
Ngài là trang hoàng các thánh đường và cung ứng của ăn áo mặc cho người nghèo.
Đối với những ai biết được cuộc sống nhiệm nhặt âm thầm của thánh nữ mà muốn
khuyên Ngài giảm bớt, Ngài nói: – Ở đâu cần hy sinh hãm mình hơn là ở trong triều
đình là nơi có nhiều nguy hiểm lớn lao.
Ngài thường nói: –
Thiên Chúa đặt tôi lên ngai là để tôi làm việc lành cho những người bất hạnh.
Mọi người đau khổ đều
được Ngài săn sóc, nhưng Ngài quan tâm hơn tới trẻ mồ côi, nhưng người thiếu nữ
cô độc và khốn khổ. Ngài còn tiếp đón khách hành hương, săn sóc các bệnh nhân.
Mỗi ngày thứ sáu trong mùa chay, Ngài rửa chân cho 13 người hành khất. Lần kia,
hoàng hậu rửa sạch, băng bó vết thương nơi chân một bệnh nhân, rồi âu yếm hôn
lên vết thương ấy. Hành động anh hùng này đã được ân thưởng: vết thương được
lành.
Đối với những người
nghèo khổ mà mắc cỡ, thánh nữ mang của bố thí đến cho họ. Vào một ngày mùa
đông, Ngài giấu đồ cứu trợ trong áo. Chồng Ngài bắt gặp và lên tiếng hỏi. Thấy
chồng giận dữ, Ngài không dám trả lời. Nhà vua giật áo Ngài ra. Và lạ lùng nhà
vua chỉ thấy toàn là hoa hồng. Để ghi nhớ phép lạ này, một cửa vào tu viện
thánh Clara do thánh nữ thiết lập được đặt tên là hoa hồng.
Đức bác ái của thánh
Elisabeth còn lan rộng tới những miền xa xôi khác nữa, hoà giải các gia đình và
các dân tộc lại với nhau. Ngài đã hòa giải vua miền Aragon với vua miền
Castille, rồi vua miền Castilia với vua Bồ đào Nha. Như thế Ngài đã dập tắt được
nhiều cuộc chiến.
Trong khi mang hạnh
phúc đến cho mọi người, thánh nữ lại là người chịu bao nhiêu cay đắng. Denis,
chồng Ngài là một nhà cai trị có khả năng, nhưng lại là một người chồng thất
tín. Chúng ta nhớ rằng: cuộc hôn nhân của Ngài là một cuộc dàn xếp chính trị và
các vua mà giữ được sự tinh khiết thì quả là đặc biệt. Elisabeth không những đã
nhẫn nhục và êm đềm chịu đựng sự bất trung của chồng mà còn tận tâm săn sóc những
đứa con ngoại hôn của chồng với trọn tình mẫu tử. Dần dần những nhẫn nại và
thùy mị đã cảm hóa được Denis.
Câu chuyện sau đây là
một ví dụ: Hoàng hậu Elisabeth đã chọn một tiểu đồng nhân đức là Alonsô để phân
phát của bố thí. Ghen tức Alonsô, một tiểu đồng khác đã vu cáo là Alonsô có những
liên hệ tội lỗi với hoàng hậu. Nhà vua tin lời. Ong ra lệnh cho một chú lò vôi:
– Khi một tiểu đồng đến hỏi rằng: “Lệnh nhà vua đã được thi hành chưa ?” thì cứ
túm lấy cổ nó mà ném vào lò cho chết.
Hôm sau vua sai Alonsô
đi hỏi như trên. Dọc đường anh vào nhà thờ dự ba thánh lễ liền. Còn nhà vua thì
nóng lòng, sai tên vu cáo đi dò hỏi sự việc. Hắn tới và bị túm cổ ném vào lò
vôi. Hết lễ Alonsô đến hỏi chủ lò vôi rồi về tường trình sự việc cho vua. Nhà
vua ngạc nhiên và nhận biết sự vô tội của Alonsô. Ong hối cải và quyết tâm sống
xứng đáng với người vợ thánh thiện của mình.
Nhưng rồi một thảm họa
đã xảy ra. Hoàng tử Alfonsô nổi loạn. Hoàng hậu Elisabeth rất đau lòng. Ngài
thêm lời cầu nguyện, sám hối và bố thí, Ngài đã thành công khi cỡi ngựa vào giữa
trận địa, tay cầm thánh giá để ngăn cho khỏi xẩy ra việc đổ máu. Tại Lisbonne vẫn
còn tấm đá cẩm thạch ghi dấu sự kiện này. Lợi dụng thời cơ bọn nịnh thần xúi giục
nhà vua tin rằng: chính hoàng hậu đã thông đồng với con để khởi loạn. Elisabeth
bị giam trong pháo đài Alamquer: nhưng hoàng hậu vẫn nhân từ, Ngài không chống
đối theo lời khuyên của các lãnh Chúa mà còn làm cho họ trung thành hơn với
vương quyền. Denis nhờ đó nhận biết sự lầm lẫn của mình. Ông công khai hối hận.
Năm 1325 Denis từ trần cách thánh thiện sau một cơn bệnh lâu dài và đau đớn, dưới
sự săn sóc tận tình của người vợ.
Từ đây Elisabeth cởi bỏ
mọi y phục sang trọng, cắt tóc ngắn và nhập dòng ba Phanxicô. Ngài mặc áo dòng
và đã sống trong một ngôi nhà cạnh dòng thánh Clara mà Ngài đã thiết lập ở
Coimbra. Đời sống Ngài là một gương mẫu cho các nữ tu.
Năm 1336, con Ngài là
vua Alphonsô gây chiến với vua miền Castille, người đã xử tệ với vợ mình, là
con gái vua Alfonsô. Dầu đã yếu đau, thánh Elisabeth đã đuổi theo và gặp được
đoàn quân ở Estremoz. Ngài đã thành công trong việc hòa giải hai nhà vua.
Trong cơn bệnh cuối đời
của Ngài, có cả con và cháu hiện diện, Ngài còn được ơn an ủi đặc biệt và được
Đức Mẹ đến đón trong lúc hơi thở cuối cùng. Ngài qua đời ngày 4 tháng 7 năm
1336. Đức giáo hoàng Urbanô đã suy tôn Ngài lên bậc hiển thánh.
(daminhvn.net)
04 Tháng Bảy
Củ Cà Rốt Của Tôi
Một lão bà nọ qua đời,
được các Thiên Thần mang đến tòa phán xét. Trong khi duyệt xét các hành động của
bà lúc còn sống, Ðấng phán xét đã không tìm thấy bất cứ một hành động bác ái
nào, ngoại trừ có một lần bà đã cho người ăn mày một củ cà rốt. Tuy nhiên, Ðấng
phán xét tối cao đầy lòng nhân từ cũng xem hành động ấy có đủ sức để mang người
đàn bà lên Thiên Ðàng. Dĩ nhiên, củ cà rốt sẽ được dùng như sợi xích vững để
người đàn bà bám vào và leo lên các bậc trong chiếc thang dẫn về Thiên Ðàng.
Người ăn mày cũng
chết vào khoảng trong thời gian ấy. Anh cũng được diễm phúc bám vào gấu áo của
người đàn bà để được đưa lên Thiên Ðàng.
Một người khác cũng
qua đời vào ngày hôm đó. Người này cũng níu lấy chân của người hành khất. Không
mấy chốc, chiếc thang bắt đầu từ củ cà rốt mỗi lúc một dài ra đến gần như vô tận:
mọi người đều níu kéo nhau để lên Thiên Ðàng. Nhưng từ trên đỉnh thang nhìn xuống,
người đàn bà bỗng châu mày khó chịu. Bà thấy sợi dây mỗi lúc một dài, bà sợ nó
sẽ căng ra rồi đứt chăng. Cho nên trong cơn bực tức, bà cố gắng dành riêng cho
mình củ cà rốt và la lên: “Các người giang ra, đây là củ cà rốt của tôi”.
Người đàn bà cố gắng
giữ củ cà rốt cho riêng mình cho nên sợi dây tạo nên chiếc thang bắc lên Trời bị
đứt. Bà rơi nhào xuống đất và cả đoàn người bám víu vào sợi dây ấy cũng rơi
theo.
Một tác giả nào đó đã
nói như sau: “Nguyên nhân của tất cả các sự dữ trên trần gian đều bắt đầu từ
câu nói điều này thuộc về tội, điều kia thuộc về tôi”.
Khi con người muốn chiếm
giữ cho riêng mình là lúc con người cũng muốn chối bỏ và loại trừ người khác.
Nhưng càng muốn chiếm giữ cho riêng mình, con người không những chối bỏ người
khác mà cũng đánh mất chính bản thân mình. Tình liên đới là điều thiết yếu cho
sự thành toàn của bản thân chúng ta. Càng ra khỏi chính mình để sống cho người
khác, chúng ta càng gặp lại bản thân, chúng ta càng lớn lên trong tình người.
Ðó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Ai mất mạng sống mình, người
đó sẽ tìm gặp lại bản thân”. Hạnh phúc của bản thân chính là làm sao cho người
khác được hạnh phúc.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét