07/07/2019
Chúa Nhật 14 Thường Niên năm C
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Is 66,
10-14c
“Đây Ta khiến sông bình an chảy
vào nó”.
Trích sách Tiên tri
Isaia.
Các ngươi hãy vui mừng
với Giêrusalem, và hết thảy những ai yêu quý nó, hãy nhảy mừng vì nó. Hỡi các
ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy hân hoan vui mừng với nó, để các ngươi bú sữa
no nê nơi vú an ủi của nó, để các ngươi sung sướng bú đầy sữa vinh quang của
nó. Vì chưng Chúa phán thế này: “Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con
sông, và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ. Các ngươi sẽ được bú sữa, được
ẵm vào lòng và được nâng niu trên đầu gối. Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ
nâng niu con, và tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi. Các ngươi sẽ xem thấy,
lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các ngươi sẽ nẩy nở như hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ
nhìn biết bàn tay của Chúa”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 65, 1-3a.
4-5. 6-7a. 16 và 20
Đáp: Toàn thể đất
nước, hãy reo mừng Thiên Chúa (c. 1).
Xướng: 1) Toàn thể đất
nước hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người, hãy kính dâng
Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp
Chúa. – Đáp.
2) Toàn thể đất nước
thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự
nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người
ta! – Đáp.
3) Người biến bể khơi
thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan
trong Chúa. Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời. – Đáp.
4) Phàm ai tôn sợ
Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng
đại biết bao! Chúc tụng Chúa là Đấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút
lại lòng nhân hậu đối với tôi. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Gl 6, 14-18
“Tôi mang trong mình tôi những
dấu thánh của Chúa Giêsu”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, phần
tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho
tôi, và tôi cho thế gian. Vì chưng trong Đức Kitô, có cắt bì hay không cũng chẳng
có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới. Nguyện chúc bình an
và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó, và cho cả Israel của
Thiên Chúa nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi nữa; vì tôi mang
trong mình tôi dấu thánh của Chúa Giêsu.
Anh em thân mến, nguyện
ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng anh em! Amen. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 10, 1-9 hoặc
1-12. 17-20
“Sự bằng yên của các con sẽ đến
trên người ấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm
bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến
các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của
Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các
con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.
Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu ở đấy có
con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng
không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống
những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
“Khi vào thành nào mà
người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các
bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ‘Nước Thiên Chúa đã đến gần các
ngươi’.
“Khi vào thành nào mà
người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: ‘Cả đến bụi
đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại
các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần’.
Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này”.
Bảy mươi hai ông trở về
rất vui mừng và nói rằng: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục
chúng con”. Người bảo: “Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này
Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ
thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng
vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được
ghi trên trời”. Đó là lời Chúa
Suy Niệm: Chúa Muốn Cứu
Ðộ Mọi Người
Chúa nhật trước đã cho
chúng ta thấy đòi hỏi tổng quát quyết liệt của ơn gọi tông đồ nói riêng và ơn gọi
Kitô hữu nói chung. Mọi người muốn theo Chúa đều phải từ bỏ bản thân, dứt khoát
với nếp sống cũ kỹ của con người xác thịt và thế gian. Hôm nay bài Tin Mừng cho
chúng ta thấy Chúa sai những con người từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, và cánh đồng
truyền giáo. Người sai họ đi khắp nơi, làm công việc cứu thế. Người bảo đảm
thành công cho họ. Vì kế hoạch cứu thế làm cho cả nhân loại được hạnh phúc là
điều Chúa đã hứa ban ngay từ thuở ban đầu, như bài sách Isaia hôm nay loan báo.
Tuy nhiên các tông đồ và tín hữu của Chúa phải bắt chước Phaolô trong bài thư
hôm nay, trung thành yêu mến mầu nhiệm thánh giá Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy xem Chúa
dự định cứu nhân loại thế nào? Người thi hành việc ấy làm sao? Và chúng ta sẽ
góp phần gì vào công việc cứu thế này?
1. Chúa Muốn Cứu Ðộ Mọi
Người
Bài sách Isaia có giá
trị cho mọi thời vì nói lên kế hoạch cứu độ trước sau như một của Thiên Chúa.
Ðoạn sách ấy trích trong phần thứ ba, hay quyển thứ ba sách Isaia, nói về thời
sau lưu đày.
Chúng ta biết dân Chúa
ngày xưa phải lưu đày sang Babylon trên dưới 40 năm. Nhiều người đã chán nản,
nghĩ rằng chẳng bao giờ khôi phục được Giêrusalem nữa. Nhưng một số ít người đạo
đức, thuộc thành phần khó nghèo, vẫn tin tưởng vào Chúa là Ðấng trung tín sẽ giữ
lời giao ước. Chính Người sẽ ra tay cứu dân và đưa họ về quê cha đất tổ mặc dầu
họ không xứng đáng. Niềm tin ấy đã không phải hổ ngươi, vì quả thật khi Hoàng đế
Cyrô lên ngôi, ông đã ban phép và khuyến khích những ai yêu mến Giêrusalem hãy
trở về xây dựng lại đền thờ.
Ðó là niềm vui bất ngờ. Người ta kéo nhau về hân hoan như được sống lại.
Công cuộc tái thiết bắt đầu rất hăng say. Nhưng chẳng bao lâu mây đen đã kéo đến
chân trời. Các khó khăn liên tiếp và dồn dập xảy ra. Do các mối bất hòa đến từ
tứ phía, các cánh tay đang tái thiết bỗng rã rời và chỉ muốn buông xuống. Chính
lúc ấy tiếng tiên tri lại vang lên, an ủi khuyến khích và phấn chấn lòng người.
Người của Chúa không đưa ra những luận lý mới mẻ. Ông không tự ý hứa hẹn những
điều hão huyền. Là phát ngôn viên trung thành của Thiên Chúa, ông chỉ lặp lại,
nhắc nhở kế hoạch cứu độ ngàn đời của Người. Ông hô: hỡi những ai yêu mến
Giêrusalem hãy hân hoan lên vì nó; hỡi những ai đã có lần khóc lóc với nó
(trong cảnh cùng quẫn), hãy với nó phấn khởi lên vì Chúa sẽ đem hòa bình đến
cho Giêrusalem: nó sẽ trở nên trù phú: mọi dân sẽ tuốn đến uống sữa no nê của
nó vì chính Chúa sẽ bồng bế mọi người ở Giêrusalem để hết thảy sẽ được hồi sinh
và tươi mát.
Ngày nay chúng ta dễ hiểu những lời tiên tri này. Ðây không phải là những lời
hy hữu, lẻ loi, nhưng chỉ diễn tả đề tài cố hữu và chính yếu của mạc khải. Ngay
từ thời Abraham, Thiên Chúa đã hứa cho ông được dòng dõi đông đúc và hạnh phúc.
Dòng dõi này sẽ bao trùm mọi sắc dân. Với Môsê Chúa đã tái xác nhận như vậy.
Các tiên tri không làm gì hơn là giúp người Do Thái biết hiểu giao ước và lời hứa
theo ánh sáng siêu nhiên và phổ quát hơn. Bài sách Isaia hôm nay nằm trong viễn
tượng và cố gắng ấy. Tội nghiệp cho những ai không tin rằng: Lời Chúa sẽ được
thực hiện. Nhưng cũng tội nghiệp không kém cho những kẻ chỉ hiểu Lời Chúa hứa
theo ý nghĩa xác thịt và thế gian.
Giêrusalem của lời hứa không phải đô thị ở trên mảnh đất Do Thái. Thái độ
này chỉ là hình ảnh và điểm tựa để Thiên Chúa nói đến Nước ân sủng của Chúa Cứu
Thế, nơi Người sẽ tập họp hết mọi người được cứu độ. Chính Ðức Giêsu đã bảo: cứ
phá Giêrusalem vật chất đi, Người sẽ xây lại nó trong ba ngày. Người muốn nói
thân thể phục sinh của Người và mọi dân được cứu độ. Ở đó, nơi thân thể có cạnh
sườn mở ra của Người sẽ có dòng nước Thánh Thần chảy theo dòng máu hy sinh của
Người để làm cho mọi người được no nê, hồi sinh và tươi mát. Thiên Chúa sẽ yêu
dấu chúng ta nơi Ðức Giêsu Kitô, người con chí ái của Người.
Lời sách Isaia hôm nay, cuối cùng là như vậy. Nó là sứ điệp Tin Mừng Thiên Chúa
gửi đến cho mọi người ở mọi thời, tác giả sách Isaia đã nhắc lại lời hứa ấy
trong một hoàn cảnh đen tối của lịch sử dân Chúa để gây tin tưởng nơi lòng mọi
người. Hôm nay và hằng ngày trong cuộc sống, đặc biệt trong những lúc bi đát và
nao núng niềm tin, Lời Chúa vẫn còn đó để nhắc nhở chúng ta. Người là Ðấng
trung thành đã hứa thì sẽ giữ mọi điều của kế hoạch yêu thương cứu độ. Tất cả
chỉ còn tùy nơi chúng ta có muốn tin hay không?
Thực ra chúng ta có điều kiện để dễ tin hơn các thế hệ ngày trước. Bởi vì từ
ngày có lời tiên tri trong sách Isaia, đã có biết bao nhiêu biến cố lịch sử chứng
tỏ Thiên Chúa hằng trung thành thực hiện dần dần kế hoạch cứu độ của Người.
Ðặc biệt đã có cuộc đời và sự nghiệp của Ðức Giêsu mà đoạn sách Luca hôm
nay còn nhắc lại một trong rất nhiều biến cố rất ý nghĩa.
2. Chúa Muốn Các Dân Tộc Ðược Cứu Vớt
Nếu thực sự được phép nối liền hai bài Tin Mừng của Chúa nhật trước và Chúa
nhật này, chúng ta thấy đoạn văn hôm nay thổi lên một luồng gió phấn khởi. Chúa
nhật trước, bài sách Luca nói đến thái độ của dân Samari chặn đứng cuộc hành
trình của Ðức Giêsu khiến hai môn đệ tức giận chỉ muốn xin lửa từ trời xuống đốt
dân thành ấy. Hôm nay, Ðức Giêsu và các môn đệ của Người như đang đứng trước
toàn những đô thị dân ngoại. Nhưng Người giơ tay trỏ cho họ thấy kìa mùa gặt rất
phong phú. Nhưng sao ít thợ gặt thế! Hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa
chín của Người. Và Ðức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi giảng đạo trong mọi đô thị và
xóm làng mà Người sẽ đến.
Tác giả Luca đã có nhiều ý kiến khi thuật lại câu chuyện này. Ông nói đến
72 môn đệ chứ không phải chỉ 12 tông đồ được sai đi. Ông nghĩ đến các thế hệ
tông đồ sau này sẽ được gởi đến mọi nơi trên mặt đất sao? Hay ông nghĩ đến các
người đi giảng đạo ở thời ông mà không phải là đoàn 12. Rất có thể là ông đã
theo gương tác giả sách Khởi nguyên đoạn 10, tính tổng số các dân ngoại là 72
do 3 người con của ông Noe sinh sản ra. Dù sao ngụ ý của tác giả ở đây là muốn
cho việc truyền giáo các dân ngoại được phát xuất và khởi sự ngay từ Ðức Giêsu.
Chính Người đã sai môn đệ đi tới hết mọi dân tộc và mọi nơi chốn mà Người (tức
là ơn cứu độ của Người) sẽ đi đến. Bởi vì với việc đi lên Giêrusalem chịu chết
và sống lại của Người, cả thế giới đã trở thành như ruộng lúa chín vàng đang chờ
thợ gặt.
Hình ảnh này, các sách Kinh Thánh vẫn dùng để gợi lên mùa cứu độ cũng như
mùa xét xử. Ðức Giêsu đến là để nhiều người được chỗi dậy và nhiều kẻ bị hư đi,
như lời Simêon tiên báo. Người mang tin mừng và Ơn cứu độ trải ra khắp địa cầu
như người ta thả lưới để kéo vào và lượm ra các thứ cá. Việc rao giảng Nước Trời
cũng giống như mùa gặt để thu lúa vào kho, còn rơm rạ thì đốt đi. Không dân tộc
nào ngăn chặn được ảnh hưởng của công cuộc truyền giáo vì tiếng các ngôn sứ đã
vang cùng thế giới. Kế hoạch đem mọi dân tộc vào hạnh phúc đã được hứa cho
Abraham mà bài sách Isaia hôm nay cho thấy hằng được rao giảng qua mọi thế hệ,
kế hoạch ấy đang thực hiện trước mắt các môn đệ của Chúa Giêsu.
Và họ được sai đi làm công việc ấy với những chỉ thị rõ ràng. Người bảo họ:
hãy đi, này Ta sai các ngươi như chiên đi vào giữa sói. Câu nói này có thể hiểu
theo nghĩa các tông đồ được sai đi làm một công việc khó khăn, nguy hiểm. Nhưng
đúng hơn nên nhớ lại văn chương của Kinh Thánh thường so sánh dân ngoại như
chiên với sói, để hiểu câu văn này chỉ có ý nói đến mệnh lệnh truyền giáo đi
vào dân ngoại.
Chúa bảo các môn đệ đừng mang theo tiền nong, bao bị, giày dép và đừng chào
hỏi những người qua đường vì Người muốn họ phải lanh lẹ, nhẹ nhõm đi lo việc
Chúa. Tâm hồn họ chỉ để vào việc truyền giáo, nên vào nhà nào, họ phải nói
ngay: Bình an cho nhà ấy. Ðó là lời chúc cổ điển của Kinh Thánh, lời bao gồm tất
cả niềm tin ở giao ước. Muốn cho ai được bình an theo nghĩa đó, là muốn cho họ
nhận được ân phúc mà Thiên Chúa đã từng hứa từ thời Abraham, để họ được ân sủng
yêu thương của Người và được cứu độ, khiến họ không còn thiếu gì khác nữa. Với
lời chào bình an, người tông đồ mang đến cho người ta kho tàng cứu độ và lời hứa
trung tín của Thiên Chúa như bài Isaia trên kia đã cho chúng ta thấy. Việc được
như vậy hay không là tùy thái độ của từng người. Còn người tông đồ cứ ở lại đó,
tiếp tục rao giảng cho người ta về Nước Trời và chữa bệnh tật cho người đau yếu
để làm chứng ơn cứu độ đã đến cho người ấy. Và người tông đồ luôn luôn chỉ quan
tâm đến phận sự rao giảng, không chút mảy may để ý đến cách thức người ta cho
mình ăn uống thế nào. Và nhất là không được nay ở nhà này mai đổi sang nhà khác
để được tiếp đãi no đủ hơn.
Có thể có những tông đồ bị hắt hủi. Nhưng Chúa sẽ phán xét thái độ của người
ta. Người tông đồ không nao núng, cứ rao giảng Nước Trời. Tuy nhiên, tác giả
Luca không muốn chấm dứt bài tường thuật với giả thiết ít lạc quan ấy. Người
nhìn thấy chung cuộc việc truyền giáo cho các dân ngoại rất kết quả. Người kể
cho chúng ta ngày các tông đồ trở về hân hoan vì thấy ảnh hưởng của thần dữ đã
bớt đi trên thế gian và Ðức Giêsu đã nhìn thấy Satan đã lao mình xuống khỏi trời
như một tia chớp. Những tư tưởng này làm chứng rồi ra kế hoạch của Thiên Chúa sẽ
toàn thắng. Mọi dân tộc sẽ được cứu vớt. Bình an và phúc lành của Thiên Chúa hứa
cho loài người sẽ đánh tan ảnh hưởng xấu xa của Satan và tên các tông đồ sẽ được
ghi ở trên trời.
Như vậy bài Tin Mừng hôm nay đã thực hiện lời tiên tri trong sách Isaia.
Chúng ta được chỉ dẫn cho thấy kế hoạch cứu độ ngàn đời của Thiên Chúa đang thực
hiện qua Giêrusalem mới là Hội Thánh với đoàn tông đồ đông đảo đang được sai đi
đến các dân tộc để nhân danh Ðức Giêsu đem phúc bình an đến cho mọi người.
Chúng ta để ý đến chương trình cứu độ chắc chắn đầy thành quả của Thiên Chúa;
nhưng cũng không nên quên các yêu sách của chương trình này mà tác giả Luca đã
một phần nào gợi lên khi đưa ra các chỉ thị truyền giáo. Thánh Phaolô trong bài
thư hôm nay đã tóm tắt các yêu sách lại trong một quan niệm: hãy mang lấy các
đau khổ của Ðức Giêsu Kitô.
3. Miễn Là Chúng Ta Sống Mầu Nhiệm Thánh Giá
Chắc chắn là không ai bằng thánh Phaolô có khả năng nói với chúng ta về
kinh nghiệm truyền giáo. Người đã mở đường và đi tiên phong trong việc đem Tin
Mừng đến cho dân ngoại. Kế hoạch cứu độ các dân tộc của Chúa nhờ Người đã đem lại
những kết quả cụ thể. Và bài thư hôm nay là những lời tâm huyết của Người, viết
ở cuối bức thư gửi người Galát. Chính tay Người thảo ra những dòng chữ "lớn
lao" này để khẳng định một lần cuối cùng rằng: muốn cho các dân tộc được cứu
độ, phải cư xử theo thánh giá Chúa Kitô. Người nói như vậy vì Người thấy có nhiều
kẻ muốn làm tông đồ và rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa nhưng lại dùng đường
lối không phù hợp với thánh giá. Họ sợ gặp khó khăn khi thi hành việc giảng đạo,
nên tuyên bố tín hữu phải cắt bì để lấy lòng người Do Thái và để hạng người này
không phá rối việc giảng đạo của họ. Nhưng như vậy còn nói đến Tin Mừng của Ðức
Giêsu Kitô làm gì nữa? Chính Người đã đến để giải thoát người ta ra khỏi luật
pháp Do Thái cũng như mọi luật tôn giáo khác để mọi người từ nay được cứu độ nhờ
Niềm Tin. Thế mà bây giờ có những tông đồ còn bảo tín hữu phải chịu cắt bì!
Không, họ không phải là tông đồ đâu. Họ không rao giảng ơn cứu độ mà Thiên Chúa
đã hứa ban. Thế thì họ giảng đạo làm gì, nếu chẳng phải nguyên để được vinh dự
và tiếng tăm!
Không, không ai được gọi là tông đồ nếu không được sai đi. Và người được
sai đi phải thấy việc rao giảng Tin Mừng là một sứ mệnh đè xuống trên vai mình
và bắt mình phải hy sinh chứ không phải để được tiếng tăm và vinh dự. Người
tông đồ chân chính không những phải rao giảng niềm tin vào mầu nhiệm Thánh giá,
mà hơn nữa còn phải nên như thập giá sống động ở trước mặt mọi người. Họ phải
nói như Phaolô: Tôi không lấy gì làm vinh dự, ngoài Thánh giá Chúa Giêsu Kitô,
nhờ đó thế gian đã bị đóng đinh cho tôi và tôi cho thế gian. Chỉ những ai cư xử
như vậy mới được bình an và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ tông đồ nào như
thế mới đem lại bình an và thương xót của Chúa cho các dân tộc và cho mọi người.
Tất cả chúng ta muốn sống đạo và truyền đạo phải lấy đó làm nguyên tắc hành động.
Mỗi người phải suy nghĩ và diễn tả nguyên tắc mang Thánh giá Ðức Giêsu Kitô ra
trong đời sống. Ai mang trong thân mình những vết hằn (tức là những dấu vết) của
Thánh giá như Phaolô, mới là tín hữu và tông đồ chân chính.
Nhưng ai trong chúng ta lại đã không được ghi dấu thánh giá? Không những từ
ngày chịu phép rửa tội, mà hằng ngày không biết bao lần chúng ta được ghi dấu
thánh ấy? Chỉ còn phải hỏi đời sống và hành động của chúng ta có phù hợp với
thánh giá hay không? Thánh lễ này đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá một cách
đặc biệt. Chúng ta cố gắng tham dự thánh lễ tốt. Nhưng chúng ta còn phải quyết
tâm hơn nữa đưa tinh thần mầu nhiệm thánh giá nơi bàn thờ đây vào trong đời sống.
Chỉ khi nào chúng ta thi hành tinh thần ấy, ơn cứu độ mới được ban cho chúng ta
và đời sống của chúng ta mới mang ơn cứu độ đến cho người khác. Chương trình và
kế hoạch cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa mới thực sự được thi hành cho chúng
ta và nhờ chúng ta cho mọi người.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 14 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Isa
66:10-14c; Gal 6:14-18; Lk 10:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ba sự thật cần thiết nhất của cuộc đời.
Con người bị lẫn lộn
và giằng co giữa sự thật và sự gian tà, giữa việc tôn thờ Đấng Tạo Hóa với những
tạo vật do tay Ngài làm nên, giữa mục đích của cuộc đời và những phương tiện
sinh sống trong cuộc đời, giữa bổn phận chính yếu với những bổn phận phụ thuộc.
Ví dụ: Mục đích của cuộc đời là làm sao để đạt được Nước Trời chứ không phải
xây cho được những tòa nhà lộng lẫy, nguy nga… để rồi sẽ có ngày không còn hòn
đá nào chồng trên hòn đá nào. Niềm tin để đạt được mục đích cuộc đời là xác tín
vào Đức Kitô, Đấng duy nhất có thể bảo đảm cho con người được cứu độ, chứ không
phải nơi uy quyền, danh vọng hay bất cứ người nào khác. Bổn phận chính con người
phải làm khi sống ở đời này là rao giảng Tin Mừng sao cho mọi người nhận ra và
tin vào Thiên Chúa để được hưởng ơn cứu độ, chứ không phải bất kỳ một bổn phận
phụ thuộc nào khác.
Các bài đọc hôm nay
cho chúng ta ba cái nhìn chính xác về mục đích của cuộc đời, niềm tin phải có để
đạt được mục đích đó, và bổn phận phải làm để đạt được mục đích của cuộc đời.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah nhìn thấy rõ viễn cảnh hòa bình của Jerusalem
sau những ngày lưu đày cơ khổ. Đây cũng là mục đích người tín hữu hướng tới khi
phải làm việc vất vả, chịu đựng bao nhiêu gian khổ trong thế gian là để đạt tới
và sống trong cảnh thái bình của Jerusalem trên trời. Trong bài đọc II, thánh
Phaolô xác tín Thập Giá Đức Kitô là dấu hiệu bảo đảm cho niềm tin vào hạnh phúc
Thiên Đàng. Niềm xác tín này phải in sâu tâm hồn của mọi tín hữu để họ đừng bị
lung lay bởi bất cứ học thuyết nào hay bất cứ những cám dỗ nào của thế gian.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và căn dặn các
ông tập trung vào một điều chính yếu là làm cho triều đại của Thiên Chúa mau tới.
Bổn phận của người tín hữu phải luôn nhớ sứ vụ của mình là rao giảng Tin Mừng để
đem mọi người về cho Thiên Chúa, chứ không phải cho bất kỳ một sứ vụ nào khác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mục đích của cuộc đời: Viễn cảnh thái bình của Jerusalem.
1.1/ Jerusalem sẽ được phục
hồi: Jerusalem là trọng tâm đời sống của con
cái Israel, vì đây là Đền Thờ của Thiên Chúa cư ngụ giữa họ. Sau năm 587 BC, Đền
Thờ bị phá hủy tan tành, thành Sion và các thành lũy chung quanh cũng bị triệt
hạ hoàn toàn, và dân chúng bị đem đi lưu đày tại Babylon. Đối với những người
không có đức tin, năm đó là năm chấm dứt niềm tin của con cái Israel vào Thiên
Chúa, vì còn đâu Đền Thờ cho Thiên Chúa ngự. Nhưng đối với các ngôn sứ,
Jerusalem sẽ được phục hồi và sẽ trở thành trung tâm mà mọi dân mọi nước hướng
về. Sau cảnh thương khóc và gian khổ là sung mãn vinh quang mà Thiên Chúa dành
cho những ai tin tưởng nơi Ngài. Chương 66 của Sách Isaiah nói lên vinh quang của
Jerusalem sẽ được hưởng sau thời kỳ lưu đày: “Hãy vui mừng với Jerusalem, hãy
vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng
Jerusalem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô, để được
Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh
quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.”
1.2/ Đức Chúa sẽ yêu quí
Jerusalem: Tác giả diễn tả sự yêu quí này bằng
những hình ảnh khác nhau: Thiên Chúa sẽ tuôn đổ muôn hồng ân xuống trên
Jerusalem cho dân Người “tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về
tràn lan như thác vỡ bờ. Người sẽ an ủi vỗ về dân Người như người mẹ săn sóc
con thơ: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu
trên đầu gối.”
Hình ảnh Jerusalem của
ngôn sứ Isaiah diễn tả ở đây không chỉ giới hạn Jerusalem sau thời lưu đày, vì
Jerusalem này cũng bị quân đội Roma phá bình địa vào năm 70 AD. Người tín hữu
trông cậy vào thành Jerusalem trên trời, nơi không một sức mạnh nào có thể phá
nổi.
2/ Bài đọc II: Niềm xác tín của người môn đệ: “Tôi chẳng hãnh diện về điều
gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô.”
2.1/ Làm sao để có bình
an?
(1) Thập giá Đức Giêsu
Kitô là niềm hãnh diện của người tín hữu: Đây là bốn câu cuối cùng của Thư
Galat, và thánh Phaolô muốn tổng kết những gì Ngài đã nói với các tín hữu trong
toàn Thư. Người tín hữu không được tìm sự hãnh diện nơi bất cứ điều gì thế gian
dâng tặng như: uy quyền, danh vọng, tiền của, hưởng thụ… Niềm hãnh diện của người
tín hữu là ở nơi Thập Giá của Đức Kitô, vì nhờ cây Thập Giá này mà họ được rửa
sạch tội lỗi và được giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Phaolô tuyên xưng: “Ước chi
tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!
Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối
với thế gian.”
(2) Qui tắc để có bình
an: Đối với các Kitô hữu, không phải hệ tại ở việc cắt bì, cũng chẳng phải ở việc
giữ Luật, nhưng là ở chỗ trở nên một tạo vật mới: theo sự hướng dẫn của Thánh
Thần để hoàn toàn sống cho Đức Kitô. Thánh Phaolô dạy: “Quả thật, cắt bì hay
không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. Chúc tất
cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Israel của Thiên Chúa được hưởng bình
an và lòng thương xót của Người.”
Bình an này có liên kết
mật thiết với niềm tin của người tín hữu vào Đức Kitô: một khi đã biết Kế Hoạch
Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu không còn lo lắng về tội lỗi và về sự chết
nữa. Họ biết nếu họ tin và tuân giữ những gì Đức Kitô dạy bảo, họ sẽ được sống
đời đời với Thiên Chúa. Chính sự xác tín này làm cho họ được bình an trong tâm
hồn.
2.2/ Tôi mang trên mình
tôi những dấu tích của Đức Giêsu.
Trong cuộc đời, người
tín hữu phải đương đầu với biết bao nhiêu những lạc thuyết của thế gian và các
tôn giáo khác nhau. Một khi đã biết rõ ràng Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người
tín hữu đừng để cho bất cứ người nào làm lung lay niềm tin của mình, đừng để
cho bất cứ sự gì lôi cuốn mình khỏi Thập Giá của Đức Kitô, và đừng để cho những
dấu tích của Đức Kitô in trên thân thể bị xóa nhòa. Những “dấu tích” thánh
Phaolô nói ở đây có thể là “5 dấu thánh” mà thánh Phanxicô Khó Khăn hay Cha Piô
được chịu; cũng có thể là những đau khổ để lại trên thân xác sau khi đã trải
qua những gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô; hay có thể hiểu một cách thiêng
liêng: những chứng tích mà bí-tích Rửa Tội để lại trong linh hồn các tín hữu.
3/ Phúc Âm: Bổn phận của môn đệ là loan báo: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến
gần các ông.”
3.1/ Khác biệt về văn bản:
Theo Lucas, Chúa Giêsu không chỉ chọn 12
tông đồ, nhưng còn nhiều môn đệ khác, để huấn luyện và sai đi rao giảng Tin Mừng.
Trong Lucas, có hai lần sai đi: Lần thứ nhất, Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk
9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk 6:7-13). Lần thứ hai, chỉ có trong Lucas, theo trình
thuật hôm nay: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng
hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”
70 hay 72 môn đệ? Theo
Bruce Metzger, sự khác biệt của các văn bản cổ xưa có thể nói là đồng đều. Theo
bản Alexandria (A) và các bản của nhóm Tây Phương (gồm hầu hết các bản của
Latin cũ và Sinaitic Syriac) cho là 72 môn đệ. Các bản Alexandrian khác
(Sinaiticus, L, Delta) cùng với hai bản f 1 và f 13 cho
là 70 môn đệ. Vì thế, khó mà xác định con số nào chính xác. Nhiều học giả còn
đi xa hơn trong việc phiên dịch ý nghĩa của con số 70 (dựa trên Exo 24:1; Num
11:16) hay 72 (dựa trên truyền thuyết 72 người phiên dịch của Bản Bảy Mươi hay
72 quốc gia trong Gen 10). Tất cả những phiên dịch này chỉ có tính cách võ
đoán. Metzger tuy chọn con số 72, nhưng để trong ngoặc cho mọi người biết là có
sự tranh luận về con số này.
3.2/ Môn đệ là sứ giả
mang Tin Mừng.
(1) Phải ý thức sứ vụ
cuả mình: Chúa Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải đương đầu khi Ngài
nói với các ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.”
Hai điều Ngài muốn đề phòng cho các ông:
– “Đừng mang theo túi
tiền, bao bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng. Lo
lắng quá nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông dành mọi cố gắng
cho việc rao giảng Tin Mừng.
– “Cũng đừng chào hỏi
ai dọc đường”: Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự hay sống cách biệt.
Ngài chỉ muốn các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng Tin Mừng để các
ông đừng trò chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng (cf. 2 Kgs
4:29).
(2) Chấp nhận Tin Mừng
là điều kiện để có bình an: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Vào bất cứ nhà
nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”” Điều này chứng tỏ Tin Mừng cứu
độ được trao cách nhưng không cho mọi người. Theo Lucas, sự bình an này được
liên kết với ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi người (cf. 1:79, 2:14-29,
7:50, 8:48, 12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có bình an: “Nếu ở đó, có ai
đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không
thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây là sự
bình an trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng cảm thấy được bình
an.
3.3/ Môn đệ là sứ giả của
Nước Trời.
(1) Đừng tìm kiếm những
sự thế gian: Nhiều người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao bị thì lấy gì
mà ăn.” Nói như thế là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài coi các
môn đệ là những người làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công đời này” (1
Tim 5:18; cf. 1 Cor 9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh: “người ta
cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không được đòi hỏi,
họ phải có khả năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng không thể sống
theo luật kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết nhà nọ đến nhà
kia” để tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.
(2) Làm cho triều đại
Thiên Chúa mau đến: Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận chính của người môn đệ: “Hãy
chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến
gần các ông.”” Triều đại của Thiên Chúa đã đến với sự xuất hiện của Đức Kitô và
các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến cho mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Mục đích của cuộc đời
chúng ta là hướng tới Jerusalem trên trời, nơi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giòng
lệ, đau khổ và chết chóc sẽ không còn, và chúng ta sống hạnh phúc bên Ngài muôn
đời.
– Để đạt được mục đích
đó, chúng ta phải tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài đến để xóa tội lỗi cho chúng ta
và giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cần tuân giữ những dạy dỗ của
Ngài.
– Sứ vụ của chúng ta ở
đời này là lo sao cho mình và mọi người được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Chúng ta đừng để mình bị lôi cuốn vào những thú vui tạm bợ đời này.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
07/07/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 14 TN – C
Lc 10,1-12.17-20
HÀNH TRANG TÔNG ĐỒ
Đức Giê-su nói: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em như
chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc
10,3)
Suy niệm: Người đi đường cần phải mang theo bao bị, túi xách. Đi càng lâu càng
xa, bao bị càng lớn, va li càng to. Vậy mà Đức Giê-su lại căn dặn người môn đệ
ra đi rao giảng Tin Mừng không túi tiền giắt lưng, cũng chẳng bao bị, túi xách,
va li. Lỡ hết tiền dọc đường chẳng lẽ ngửa tay xin? Không có đồ dùng cá nhân
thì lấy gì lo cho những nhu cầu tối thiểu? Cần phải hiểu đúng lời Đức Giê-su:
Ngài muốn hành trang người tông đồ phải là hành trang gọn nhẹ, đơn giản hết sức.
Đúng hơn nữa, hành trang ấy phải là lòng yêu mến Thiên Chúa, tâm tình nhiệt
thành đối với các linh hồn, nhất là đối với những người chưa biết Đức Ki-tô,
chưa nghe biết Tin Mừng Nước Trời. Chính lòng yêu mến Chúa và công cuộc Nước Trời
mới là hành trang cho sinh hoạt mỗi ngày của những ai muốn làm tông đồ.
Mời Bạn: Hãy ghi nhớ lời Gandhi: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ
tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không
đủ mạnh.” Bạn sẽ làm gì để lửa yêu mến các linh hồn làm tan chảy sự dửng dưng của
bạn đối với công cuộc truyền giáo và sau đó làm tan chảy các tâm hồn khác?
Chia sẻ: Tại sao cuộc sống của tôi chưa là lời chứng về Tin Mừng
Chúa Ki-tô cho người chung quanh?
Sống Lời Chúa: Gia đình tôi sẽ kết nghĩa với một gia đình lương dân và
khi thuận tiện, mời họ tham dự những sự kiện của gia đình, gia tộc (lễ cưới, lễ
giỗ…) để họ có dịp tiếp xúc với Lời Chúa
Cầu nguyện: Sốt sắng hát
bài: Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán… để cầu cho việc truyền giáo.
(5 Phút Lời Chúa)
Anh em hãy ra đi (07.7.2019
– Chúa Nhật 14 TN, Năm C)
Suy niệm:
Ai được mời gọi gặt lúa?
Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ,
mà là 72 môn đệ;
không phải chỉ là 12 chi tộc Israel,
mà là mọi người thuộc mọi dân nước.
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt.
Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân
đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui:
Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.
Một lời chào thân thiện:
Bình an cho nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh:
không túi tiền, bao bị, giày dép.
Một việc phải làm:
chữa lành những người ốm đau.
Một thái độ phải có:
khiêm tốn và siêu thoát,
đón nhận những gì người ta cung cấp cho,
không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Ðức Giêsu sai chúng ta đi,
Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì?
Chắc Ngài sẽ dặn khác,
vì cánh đồng con người đã đổi khác.
Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè,
phải biết nói sao để họ hiểu được,
nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần,
và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo,
sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay,
sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại.
Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.
Hành trang không được trở thành những cản trở
khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa
và xa lạ với con người,
nhất là những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời,
đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói.
Chúng ta cứ phải trăn trở hoài
để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè
thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ:
khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc,
khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông;
để những việc chúng ta làm cho họ
xoa dịu được nỗi đau nhức nhối,
và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần,
đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui
khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy.
Vương quốc của Satan bị đẩy lui
bởi những con người bình thường và yếu đuối.
Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương
chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan,
để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này,
và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả
năng bản thân
hay vào những phương tiện trần
thế.
Xin cho chúng con làm được
những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm
đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG BẢY
Đừng Lo Lắng !
Nhận thức của chúng ta
về sự quan phòng thần linh trong Cựu Ước được củng cố và được làm cho phong phú
thêm trong Tân Ước. Trong tất cả những lời nói của Đức Giêsu về chủ đề này, những
lời được ghi lại bởi hai Thánh Sử Matthêu và Luca sau đây đặc biệt cho ta nhiều
ấn tượng: “Vậy, anh em đừng băn khoăn về những vấn đề như mình sẽ ăn gì uống gì
hay mặc gì. Những kẻ không tin luôn luôn theo đuổi những thứ ấy. Nhưng Cha của
anh em trên trời biết anh em cần gì. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và
sự công chính của Ngài, và mọi thứ khác sẽ được ban cho anh em” (Mt 6,31-33; Lc
12,29-31).
“Hai con chim sẻ chỉ
bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của
Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài
cũng đếm cả rồi.Vậ anh em đừng sợ; anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt
10,29-31; Lc 21,18).
“Hãy xem chim trời:
chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời
vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quí giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em,
nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng
thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra
bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết:
Ngay cả Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.
Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc
đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (Mt 6,26-30; Lc
12,24-28).
Với một giáo huấn mạnh
mẽ như vậy, Chúa Giê-su không chỉ củng cố giáo huấn của Cựu Ước về sự quan
phòng thần linh mà thôi. Người còn cho thấy tại sao chúng ta không bao giờ được
phép nghi ngờ sự quan phòng ấy. Người bảo chúng ta đừng lo lắng, bởi vì chúng
ta có thể ung dung thanh thản trong tình yêu của Cha trên trời dành cho chúng
ta.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 07/7
Chúa Nhật XIV thường
niên
Is 66, 10-14; Gl 6,
14-18; Lc 10, 1-12.17-20.
LỜI SUY NIỆM: “Lúa chín đầy
đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.
Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.”
Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện và quan tâm đến đời sống của nhân loại, Người muốn
cứu độ hết thảy mọi người không trừ một ai; không những vậy, Người còn mời gọi
những ai đã đi theo và tin vào Người; hãy cùng Người cầu xin Chúa Cha ban thêm
những người đã được tuyển chọn và đào tạo ra thu gom nhân loại vào trong Nước
Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa sai chúng con đi vào trần gian, như chiên con đi vào giữa
bầy sói. Xin cho chúng con tin vào ơn ban và sự gìn giữ, bảo vệ của Chúa, để
chúng con mạnh bước trên mọi thử thách gian nguy.
Mạnh Phương
07 Tháng Bảy
Ðể Cho Lòng Tha Thứ Tiếp Tục Hiện Hữu
Chuyện “Nghìn lẻ một
đêm” của Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau:
Có hai người anh em
ruột nọ bắt chói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước
quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng đền răng. Kẻ sát nhân đã dùng
đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã quy định…
Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước
khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba
ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho
hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử… Quan tòa
xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do
dự, thì trong đám đông những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam
kết: “Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn
không trở lại, tôi sẽ chết thế thay cho hắn”.
Tên tử tội được tự
do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc
mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang bước ra giữa
pháp trường và dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình.
Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tội xin trở lại đây để chịu tội. Tôi muốn trung
thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên
mặt đất này nữa”.
Sau lời phát biểu
dõng dạc của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa
đám đông và tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, là
vì tôi không muốn để cho người ta nói: Lòng quảng đại không còn trên mặt đất
này nữa”.
Sau hai lời tuyên bố
trên , đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi
để thể hiện những gì là cao quý nhất trong lòng người…
Từ giữa đám đông,
hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa: “Thưa ngài, chúng tôi
xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: Lòng tha thứ
không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa”.
Giữa sa mạc cằn cỗi, một
cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc
lõng. Giữa sa mạc nóng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng
tràn trề cho những ai đang đói khát… Giữa một xã hội khô cằn tình người, giữa một
xã hội mà những giá trị tinh thần và đạo đức đã bị bóp nghẹt, chứng từ của người
tín hữu Kitô cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chới
với đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của
sự tha thứ…
Người tín hữu Kitô phải
sống thế nào để người ta có thể nói; Niềm tin vào cuộc sống, ý nghĩa của cuốc đời
vẫn còn cháy sáng giữa xã hội.
Người tín hữu Kitô phải
sống thế nào để người ta có thể nói: Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.
Người tín hữu Kitô phải
sống thế nào để người ta có thể nói: Con người vẫn có thể yêu thương nhau và sống
cho nhau.
Người tín hữu Kitô phải
sống thế nào để người ta có thể nói: Tôn giáo không là thuốc phiện mê hoặc quần
chúng, nhưng là sức mạnh để cải thiện xã hội.
(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét