Trang

Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2019

07-07-2019 : (phần II) CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN năm C


07/07/2019
Chúa Nhật 14 Thường Niên năm C
(phần II)


Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 14 Thường niên năm C
Is 66,10-14; Gl 6,14-18; Lc 10,1-12.17-20
THẬP GIÁ CHÚA KITÔ - SỨ MẠNG VÀ NẺO ĐƯỜNG NGƯỜI KITÔ HỮU
“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói(Lc 10,3)

I. CÁC BÀI ĐỌC
Giữa lời ngôn sứ của Isaia và Tin Mừng có một mối liên hệ mật thiết, đó là việc công bố về ơn cứu độ và nền hòa bình mà chính vị ngôn sứ đã loan báo, và Đức Giêsu đã hiện thực hóa điều đó bằng việc sai các tông đồ ra đi rao giảng.
1. Bài đọc I (Is 66,10-14)
Đoạn trích là một sấm ngôn dưới dạng một bài thơ với sắc thái vui tươi và tràn trề niềm hy vọng, lạc quan. Đoạn trích này có thể được viết ra lúc dân Do Thái trở về Giêrusalem sau chiếu chỉ cho người Do Thái hồi hương của vua Kyrô, và họ bắt đầu tái thiết Thành đô. Đây là một cuộc hồi hương về miền Đất Mẹ. Thành đô đang được tái thiết này được ví như hình ảnh một người mẹ của một gia đình đông con, trong đó, những đứa con đáng được hưởng dòng sữa thơm ngon và sự dịu dàng của người mẹ.
Các vị ngôn sứ cũng thường ví Giêrusalem như là một con người để cùng thể hiện sự thương cảm tiếc thương, hoặc để an ủi (Br 2,30) và mời gọi Thành đô hướng đến niềm vui (Is 54). Tất cả tùy thuộc vào sự kiện và số phận xảy ra với Thành đô, và số phận của Thành đô cũng là số phận của cả dân tộc.
Vì thế, ơn thái bình được kêu cầu cho thành đô Giêrusalem cũng bao hàm mọi ơn huệ của Thiên Chúa ban cho dân, đó là sức khỏe, sự phong nhiêu, thịnh vượng, và tình thân thiết với Thiên Chúa và với tất cả mọi người.
2. Bài đọc II (Gl 6,14-18)
Đoạn trích là phần cuối của lá thư, được chính bàn tay của thánh Phaolô viết ra (6,11). Trước bối cảnh một số người Do Thái muốn áp đặt việc cắt bì cho những người ngoại giáo theo đạo, thánh nhân đã lập lại điều cốt yếu: cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là niềm tin vào Chúa Kitô chịu đóng đinh. Niềm tin này đòi hỏi một sự dấn thân mạnh mẽ, đó phải là trở nên một thụ tạo mới.
Trong toàn bộ bức thư gởi cho các tín hữu Galát, thánh Phaolô đã giải thích rằng Nước Thiên Chúa không hệ tại ở việc tuân giữ lề luật Môsê, trong đó, việc cắt bì là dấu chỉ phân biệt dân Israel với các dân khác. “Quả thật, trong Đức Kitô Giêsu, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5,6). Cũng như Thiên Chúa đã giải thoát Israel dân Người khỏi ách nô lệ Ai Cập và Babilon, thì “chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Nhưng cuộc giải thoát khỏi những đam mê theo tính xác thịt mới là cuộc giải thoát đích thực: “Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau.Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5,13-14). “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,24).
Những gì mà thánh Phaolô đòi hỏi các tín hữu, thì chính ngài cũng đã trải nghiệm qua, và đó là điều mà bài đọc hôm nay nói với chúng ta. Sự hãnh diện về thập giá và mang lấy những dấu tích của Đức Giêsu có ý nghĩa gì? Thanh Girôlamo giải thích: “Những người hãnh diện về thập giá Đức Kitô là những người vác thánh giá và đi theo Người (x. Mc 8,34), đóng đinh tính xác thịt với những đam mê và ước muốn  của mình, không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (x. 2Cr 4,18).
Đây quả thật là bài học rõ ràng và thiết yếu cho những ai muốn nghiêm túc sống theo Tin Mừng, trở thành môn đệ Chúa Giêsu, làm chứng cho Người trước thế gian này và mang lại hòa bình thịnh vượng cho muôn người. Khi sai các môn đệ đi rao giảng, Đức Giêsu không bảo đảm trước cho họ sự thành công, “nhưng như chiên giữa bầy sói” nghèo nàn và tự do. Các Kitô hữu cũng vậy, họ mang lấy “hoa trái của Chúa Thánh Thần”, như thánh tông đồ đã nói: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22).
3. Bài Tin Mừng (Lc 10,1-12.17-20)
Thánh Luca là tác giả duy nhất nhắc đến việc Chúa Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi rao giảng. Việc sai đi của Chúa Giêsu còn được tìm thấy từng phần nhỏ trong Tin Mừng Mátthêu và Marcô, với Nhóm Mười Hai (Mt 9,37-38 và 10,7-16.40; Mc 6,7-11).
Thánh Luca đã lấy lại truyền thống này để chứng tỏ rằng sứ mạng được sai đi không chỉ dành riêng cho Nhóm Mười Hai. Trong khi đó, con số các môn đệ (70 hoặc 72) có lẽ đi theo truyền thống chương 10 trong sách Sáng Thế, khi nói về các dân ngoại, là con cháu của Ápraham, và nếu đúng như thế, con số này ám chỉ sứ mạng của các môn đệ đối với các dân ngoại mà Tin Mừng luôn nhắm đến, với nội dung là rao giảng triều đại Nước Thiên Chúa đã đến gần với biến cố Chúa Giêsu.
Các sứ giả Tin Mừng được sai đi với cặp đôi một. Điều này diễn tả rằng việc rao giảng Tin Mừng không mang tính cá nhân, nhưng phải là một công việc của cộng đoàn hay nhân danh cộng đoàn. Vì thế, họ không tự ý ra đi, nhưng là được sai đi.
Lời sai đi còn bao gồm một lời cầu nguyện để số lượng các thợ gặt trên cánh đồng được tăng lên dồi dào (c. 2). Điều này có thể phản ánh một sự thiếu hụt trong bối cảnh của thánh Luca, hoặc có mục đích chuyển hóa các môn đệ thành những tông đồ đích thực.
Ở đây ta thấy có những mối nguy hiểm trong sứ mạng, “như chiên con đi vào giữa bầy sói”. Người tôi tớ không còn cư ngụ tại nơi nhà chủ của mình.
Những cách hành xử của người môn đệ khi ra đi: từ bỏ, cẩn trọng, đơn sơ, không xấu hổ khi nhận lấy những sự trợ giúp cần thiết để sống trong hành trình.
Việc rao giảng Nước Thiên Chúa phải được thực hiện với cả lời nói và dấu chỉ, với ơn chữa lành bệnh tật và quyền lực trên ma quỷ. Tuy nhiên, những dấu chỉ đó tự bản chất chỉ có tính tương đối: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Nội dung của sứ mạng phải phù hợp với lời ngôn sứ, đó là sự bình an và những ơn phúc lành.
Phẩm giá của người thừa sai cũng được ngang bằng với Đấng sai đi: “"Ai nghe anh em là nghe Thầy” (c.16).
Cuối cùng, việc loan báo Nước Thiên Chúa được xác định với sự phán xét trước ngày cánh chung. Một số đón nhận sự bình an, một số từ chối. Cũng như lịch sử cứu độ đã cho thấy, một số thành được chúc phúc bởi thái độ đón nhận của họ, một số bị kết án vì đã từ chối. Đoạn trích hôm nay đã lược bớt một số câu chúc dữ được áp dụng cho một số thành như thế, chỉ còn giữ lại sự trừng phạt qua việc giũ bụi chân (c.11).
II. GỢI Ý SUY NIỆM THỰC TIẾN
1. Trong phế phẩm hoang tàn của Thành Đô Giêrusalem, niềm lạc quan và hy vọng vào Chúa qua những lời của ngôn sứ Isaia giúp tôi điều gì trong chính những “phế phẩm” của đời tôi hay của bao “thành đô” khác?
2. Tôi học được gì từ mẫu gương thánh Phaolô khi ngài khẳng định không hãnh diện gì khác hơn ngoài thập giá Chúa Kitô?
3. Mỗi khi tôi tuyên xưng mình là Kitô hữu, điều đó có ý nghĩa gì với tôi? Với sự đơn sơ, tôi có đủ can đảm tuyên xưng niềm tin của mình bằng lời nói và hành động trong cuộc sống hằng ngày của tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tếAnh chị em thân mến! Thiên Chúa mời gọi mọi người chúng ta cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ và trở nên sứ giả đem bình an đến cho muôn dân. Trong tâm tình tri ân cảm tạ, cộng đoàn chúng ta cùng tha thiết dâng lời cầu nguyện.
1. Hội Thánh có sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ cho mọi người. Chúng ta cùng cầu xin cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô cùng các vị chủ chăn, luôn nhiệt tâm chu toàn sứ mạng qua việc giảng dạy, lời cầu nguyện và gương sáng trong đời sống hằng ngày.
2. Thiên Chúa là nguồn mạch bình an và hạnh phúc đích thực. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho tất cả những ai đang đau khổ hay gặp gian nan thử thách trong cuộc sống biết chạy đến với Chúa, và đặt hết tin tưởng phó thác vào tình thương quan phòng của Người.
3. “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến gặt lúa của Người.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban ơn thánh hóa và trợ giúp các nhà truyền giáo cùng hàng linh mục của Chúa, để các ngài chu toàn sứ mạng qui tụ và chăm sóc đoàn chiên mà Chúa đã trao.
4. “Nước Thiên Chúa đã đến gần.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta được sống trong bình an đích thực, và biết tích cực dấn thân trong công việc tông đồ, luôn là dấu chỉ sống động của tình thương Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.
Chủ tếLạy Chúa, chúng con ý thức thân phận yếu hèn cùng với sứ mạng cao cả mà Chúa ủy thác. Xin Chúa nhận lời chúng con cầu nguyện và ban ơn nâng đỡ để chúng con chu toàn sứ mạng ấy bằng đời sống bác ái yêu thương. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.



SCĐ Chúa Nhật XIV TN C
Chủ đề :
Chúa sai tôi đi 
loan tin bình an và hạnh phúc
“Ngài sai họ đi từng hai người một”
(Lc 10,1)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Is 66,10-14c) : Khi dân do thái đang vừa trở về từ chốn lưu đày, ngôn sứ Isaia loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban bình an và hạnh phúc tràn trề cho họ.
– Đáp ca (Tv 65) : Ca tụng những phúc lành của Thiên Chúa.
– Tin Mừng (Lc 10,1-12.17-20) : Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi loan báo Tin Mừng.
– Bài đọc II (Gl 6,14-18) : Thánh Phaolô loan báo những phúc lành mà Thập giá Chúa Giêsu ban cho các tín hữu.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi như những sứ giả của sự bình an và hạnh phúc. Ngày nay Chúa cũng sai chúng ta như thế. Nhưng muốn là những sứ giả của bình an và hạnh phúc thì trước tiên chúng ta phải có bình an và hạnh phúc trong lòng chúng ta. Đó là hai ơn rất quý mà chúng ta hãy xin Chúa ban trong Thánh lễ này.
II. Gợi ý sám hối
– Chúng ta chỉ lo đến phần rỗi của riêng mình mà không nghĩ đến việc cứu rỗi người khác.
– Trong cuộc sống chung đụng với người khác, chúng ta chưa thực sự là những người mang lại bình an và hạnh phúc cho họ.
– Chúng ta chưa được như Thánh Phaolô, biết sung sướng hãnh diện vì Thập Giá Đức Kitô.
III. Lời Chúa
1.      Bài đọc I (Is 66,10-14c)
Vua Cyrus nước Ba Tư vừa tiêu diệt đế quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân do thái hồi hương. Trong bầu khí phấn khởi vui mừng đó, ngôn sứ Isaia nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ ban phúc lành cho dân. Điều đáng lưu ý là phúc lành quý giá nhất chính là ơn bình an : “Ta sẽ làm cho bình an chảy đến nó (Giêrusalem) như con sông”.
2.                  Đáp ca (Tv 65)
Tv này reo mừng Thiên Chúa và ca ngợi về những ơn lành của Ngài.
3.                  Tin Mừng (Lc 10,1-12.17-20)
Đoạn Tin Mừng này đã được Phụng vụ cắt bớt khúc giữa (cc 13-16), để chỉ còn lại hai phần chính : Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng (cc 1-12), và các môn đệ rao giảng xong trở về kể chuyện cho Ngài nghe (cc 17-20)
a/ Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng :
– Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.
– “Từng nhóm hai người” : Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
– “Hãy cầu xin” : Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
– “Như chiên non vào giữa sói rừng” : Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.
– “Đừng chào ai dọc đường” : việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.
– “Bình an cho nhà này” : đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.
– “Cứ ở lại nhà ấy” : gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.
– “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình” : sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).
– “Thợ đáng trả lương” : đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18 ; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18).
– “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy” : Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27).
– “Hãy chữa lành các bệnh nhân : đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.
– “Phủi bụi chân” : người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.
– Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.
b/ Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Chúa Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ : Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”)
4.                  Bài đọc II (Gl 6,14-18) (Chủ đề phụ)
Trong đoạn thư này gởi tín hữu Galata, Thánh Phaolô chia xẻ cho họ biết một Tin Mừng đặc biệt mà Ngài khám phá ra, đó là giá trị tuyệt vời của thập giá Đức Kitô :
– Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người
– Thập giá trở thành lẽ sống của Phaolô
– Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Những kẻ mang bình an
Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là “Bình an cho nhà này”. Như thế nghĩa là họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa.
Bắc Ai Len là một đất nước mà hai khối dân Công giáo và Tin lành thù ghét nhau và nhiều lần bắn giết nhau. Vào một dịp lễ Giáng sinh, một Linh mục công giáo đi sang bên kia đường để đến thăm một Mục sư Tin Lành. Vị Mục sư rất cảm động, đón tiếp vị Linh mục rất niềm nỡ. Ít lâu sau Vị Mục Sư cũng sang bên kia đường để thăm vị Linh mục. Tình thân giữa hai người ngày càng thắm thiết hơn. Tuy nhiên một vài tín đồ lớn tuổi thì nổi giận. Họ tìm đủ cách để cấp trên của Giáo Hội thuyên chuyển vị Mục sư ấy đi nơi khác.
Vị Linh mục và Vị Mục sư trên chỉ làm điều mà tất cả các môn đệ Chúa Giêsu phải làm, đó là làm những sứ giả của bình an và hòa giải trong một xã hội có nhiều chia rẻ.
Bình an không phải là một cái gì tiêu cực do không có chiến tranh và thù hận. Nó đòi phải có tinh thần cởi mở, tình huynh đệ, lòng khoan dung, thiện chí và ước muốn hòa giải. Nó buộc chúng ta đi đến với người khác. Nó giúp chúng ta gỡ bỏ những rào cản của nghi kỵ, sợ hãi, thành kiến và óc cố chấp.
Trước lúc Rước Lễ, chủ tế chúc “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây thực là một món quà quý giá mà thế gian không thể ban tặng được. Tiếp đó chủ tế kêu gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Đáp lời Ngài, chúng ta chào nhau, đến bắt tay nhau hoặc ôm hôn nhau. Ước chi những cử chỉ đó không phải chỉ là hình thức mà thực sự bày tỏ lòng thân thiện của chúng ta. Cuối Thánh lễ, chủ tế lại chúc “Chúc anh chị em ra về bình an”. Câu này có nghĩa là chúng ta đã đến nhà thờ lãnh nhận bình an của Chúa, vậy khi ra về chúng ta cũng hãy mang bình an ấy đến cho mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ.
* 2. Mênh mông lúa đồng
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói : “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp : “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên : “Đã thấy !” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên : “Đã thấy !”
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích : “Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh :“Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên !” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.
Ông John Kener kết luận : “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
Đã qua 2000 năm nhưng lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3%.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù ; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói : “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10,3) (…)
“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình : Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định : “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Thánh Cha Gian Phao lô II cũng quả quyết : “Không một ai trong những người rin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này : Đó là toan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “Ra đi”.
Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.
Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phao lô đã phải thốt lên : “Khốn cho thân tôi : nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói : “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng”. (TP)
* 3. “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít
Catherine de Hueck Doherty làm việc trong một quán bar ở Mahattan. Đến 4 giờ sáng, cô nói lời tạm biệt với các khách uống rượu. Một người hỏi :
– Cô đi đâu ?
– Tôi phải đu Nhà thờ dự Thánh lễ, vì hôm nay là Chúa nhật.
– Thế cô là người công giáo hả ?
– Đúng vậy.
Nhiều người trong đám khách rất ngạc nhiên vì không ngờ Catherine có thể vừa là một người công giáo ngoan đạo vừa làm việc tại một nơi phức tạp như vậy. Vài tuần sau, một người trong đám khách trở lại nói với Catherine : “Cô đã khiến tôi suy nghĩ nhiều. Cô có thể vừa sống đạo tốt vừa làm việc ơ một nơi như thế này, thì tại sao tôi không thể !” Và người ấy đã trở lại nhà thờ.
Lần khác, Catherine đang trên đường tới trạm xe điện ngầm thì gặp một bà cụ. Bà cụ mở lời “Cô có vui lòng nói chuyện với tôi giây lát không ?” Cô vui vẻ nhận lời. Hai người đã nói chuyện với nhau trong suốt chặng đường. Sau đó hai người còn kết thân với nhau và Catherine thường xuyên tới thăm viếng bà cụ cho tới ngày bà cụ qua đời.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Một kitô hữu có ý muốn làm thợ gặt như cô Catherine thì không bao giờ thiếu dịp để gặt lúa cho Chúa.

* 4. Mảnh suy tư
Tông đồ là kẻ được sai đi.
Vì thế làm tông đồ rất khác với làm chuyên viên. Làm chuyên viên thì cần phải có tài năng. Còn làm tông đồ thì chỉ cần đi theo lệnh Chúa sai, đến với người Chúa sai mình đến, và mọi việc khác hầu như Chúa sẽ làm tất cả.
5.                  Chuyện minh họa
a/ Đi giảng
Ngày kia, thánh Phanxicô Assadi nói với một thày dòng : “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thày dòng thắc mắc hỏi : “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà !” Thánh Phanxicô đáp : “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó ! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao ?”
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô-hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ.
b/ Khuôn vàng thước ngọc
“Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe ; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe”.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi người Kitô hữu cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Người. Với ước mong trở nên những sứ giả Tin mừng cứu độ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1.      Hội thánh là dấu chỉ ơn cứu độ Chúa sẵn sàng ban cho hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gửi nhiều thợ gặt lành nghề / đem tin mừng đến cho mọi loài thọ tạo.
2.      Khát vọng sâu xa nhất của con người ở mọi thời đại / là được sống bình an và hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh / để hết thảy mọi người đều được sống hạnh phúc và an bình.
3.      Tin tưởng vào Chúa quan phòng là thái độ người Kitô hữu cần có suốt cuộc đời của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa / mỗi khi gặp thử thách gian truân.
4.      Số linh mục trên thế giới ngày nay thiếu hụt trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết góp phần vào việc đào tạo linh mục tương lai của các giáo phận / bằng lời cầu nguyện / cũng như bằng việc rộng rãi giúp đỡ Chủng viện.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con đem Tin mừng cứu độ, mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao anh chị em chưa nhận biết Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết dùng đời sống bác ái yêu thương và phục vụ tận tụy, mà làm tròn sứ mạng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã nói “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người”. Giờ đây chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa Cha cho Nước Chúa mau trị đến.
– Chúc bình an : Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng bảo mỗi kitô hữu chúng ta hãy làm sứ giả của bình an. Chúng ta hãy thật lòng chúc bình an cho nhau.
VII. Giải tán
Anh chị em thân mến. Môn đệ Chúa là những sứ giả của bình an. Chúng ta hãy ra về và mang bình an đến cho tất cả những người chúng ta sẽ gặp gỡ.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật XIV Thường Niên (C)
Sunday 7 July, 2019
Bảy mươi hai môn đệ được sai đi.
Gầy dựng lại đời sống cộng đoàn
Lc 10:1-12, 17-20


1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Sự rao giảng của Chúa Giêsu lôi cuốn nhiều người theo (Mc 3:7-8).  Một cộng đoàn nhỏ bắt đầu thành hình chung quanh Chúa.  Thoạt đầu, với hai người (Mc 1:16-18); rồi thêm hai người nữa (Mc 1:19-20); sau đó là mười hai người (Mc  3:13-19); và bây giờ trong đoạn Phúc Âm của chúng ta, đã có hơn bảy mươi hai người (Lc 10:1).  Cộng đoàn tiếp tục tăng triển.  Một trong những điều Chúa Giêsu khẳng định là đời sống cộng đoàn.  Chúa đã làm gương.  Người không bao giờ muốn làm việc gì một mình.  Việc đầu tiên Chúa đã làm khi Người bắt đầu đi rao giảng ở Galilê là kêu gọi người ta sống với Người và chia sẻ trong sứ vụ của Người (Mc 1:16-20; 3:14).  Sự liên đới trong tình anh em đã triển nở chung quanh Đức Giêsu là một mường tượng trước về Nước Trời, một bằng chứng về kinh nghiệm mới về Thiên Chúa với Đức Chúa Cha.  Do đó, nếu Thiên Chúa là Cha và Mẹ, thì tất cả chúng ta đều chung một gia đình như anh chị em. Như thế là cộng đoàn được thành hình, một gia đình mới (Mc 3:34-35)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần này nói cho chúng biết về những điều thiết thực để điều hướng bảy mươi hai môn đệ trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Nước Trời và trong việc xây dựng lại đời sống cộng đoàn.  Rao giảng Tin Mừng Nước Trời và xây dựng lại đời sống cộng đoàn là hai mặt của cùng một đồng tiền. Một mặt không tồn tại và không thể có ý nghĩa nếu không có mặt kia.  Trong khi đọc Tin Mừng, chúng ta hãy cố gắng tìm kiếm sự liên hệ giữa đời sống cộng đoàn và việc công bố Nước Thiên Chúa.

b) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 10:1:  Sứ Vụ
Lc 10:2-3:  Đồng công trách nhiệm
Lc 10:4-6:  Lòng hiếu khách
Lc 10:7:  Sự chia sẻ
Lc 10:8:  Quây quần bên bàn ăn
Lc 10:9a:  Tiếp đón những kẻ bị hắt hủi
Lc 10:9b:  Nước Thiên Chúa đã đến gần
Lc 10:10-12:  Giũ sạch bụi đất ở chân các môn đệ
Lc 10:17-20:  Tên được ghi trên trời

c) Phúc Âm
1 Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước Người, đến tất cả các thành và các nơi mà chính Người sẽ đến.2 Người bảo các ông rằng:  “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người.  3 Các con hãy đi.  Này Thầy sai các con đi như chiên con đi vào giữa bầy sói rừng. 4 Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: “Bình an cho nhà này! ” 6 Nếu ở đó, có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ ở lại với người ấy; bằng không, sự bình an lại trở về với các con. 7 Các con ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì các con dùng thức đó, vì thợ đáng được trả công.  Các con đừng đi hết nhà nọ sang nhà kia. 8 Khi vào thành nào mà được người ta tiếp đón, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. 9 Hãy chữa những các bệnh nhân trong thành, và nói với họ rằng: “NướcThiên Chúa đã đến gần các ông.” 10 Nhưng khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ mà nói: 11 “Ngay cả bụi đất trong thành các ông dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần.” 12 Ta bảo cho các con: trong ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành đó.”
17 Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở và nói rằng: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thìcả ma quỷ cũng phải vâng phục chúng con.” 18 Đức Giêsu bảo các ông: “Ta đã thấy Sa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Ta đã ban cho các conquyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi quyền phép của kẻ thù, mà chẳng có gì có thể làm hại được các con. 20 Tuy nhiên, các con chớ vui mừng vì quỷ thần phải vâng phục các con; nhưng hãy mừng vì tên các con đã được ghi trên trời.”

3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta

4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân
a) Điều gì làm bạn hài lòng nhất hoặc đánh động bạn nhất trong đoạn Tin Mừng này?  Tại sao?
b) Bạn hãy nêu ra những điều mà Chúa Giêsu bảo các môn đệ nên làm và những điều cần tránh.
c) Chúa Giêsu muốn làm sáng tỏ điều gì qua những lời dạy bảo rất khác lạ với những người thông thường trong cuộc sống hằng ngày?
d) Làm cách nào mà chúng ta có thể đem áp dụng được những điều Chúa đòi hỏi:  “không mang theo túi tiền”, “đừng đi hết nhà nọ sang nhà kia”, “đừng chào hỏi ai dọc đường”, “giũ sạch tất cả bụi đất ở chân”?
e) Tại sao những điều dạy bảo này của Chúa Giêsu là dấu hiệu của Nước Thiên Chúa đã đến gần?
f) Chúa Giêsu bảo chúng ta phải chú tâm vào điều quan trọng nhất khi Người nói:  “tên các con đã được ghi trên trời!”  Điều này mang ý nghĩa gì đối với chúng ta?

5. Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng
 Giúp cho những ai muốn đào sâu hơn vào chủ đề

a) Bối cảnh văn học và lịch sử:  
Trước đoạn Tin Mừng này một chút, trong sách Luca chương 9:51, là khởi đầu giai đoạn thứ hai các hoạt động tông đồ của Chúa Giêsu, đó là một cuộc hành trình dài tiến về Giêrusalem (Lc 9:51 đến 19:29).  Giai đoạn thứ nhất diễn ra tại Galilê và bắt đầu bằng các cuộc giảng dạy của Chúa Giêsu trong các hội đường tại Nagiarét (Lc 4:14-21).  Trong giai đoạn thứ hai, Chúa đi đến vùng Samaria, Người gửi sứ giả đi trước (Lc 9:52) và thu nhận thêm các môn đệ mới (Lc 9:57-62).  Giai đoạn hai bắt đầu với việc chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác và với lời huấn dụ sẽ hướng dẫn họ trong các hoạt động mục vụ của họ (Lc 10:1-16).  Do đó, Luca có ý cho chúng ta biết là các môn đệ mới này không phải là những người Do-Thái đến từ Galilê mà là người Samaria, và nơi mà Chúa Giêsu công bố Tin Mừng không còn là miền Galilê nữa mà là vùng Samaria, miền đất bị loại trừ.  Mục đích của sứ vụ được trao cho các môn đệ là việc xây dựng lại đời sống cộng đoàn.  Trong thời Chúa Giêsu, nhiều phong trào đã cố thử những phương cách mới về đời sống và đời sống chia sẻ:  các người Biệt Phái, phái Êssêniô, phái Cuồng Nhiệt, Gioan Tẩy Giả và những phái khác.  Nhiều người đã thành lập các cộng đoàn môn đệ (Ga 1:35; Lc 11:1; Cv 19:3) và họ có sứ vụ của mình (Mt 23:15).  Nhưng có một điểm dị biệt lớn.  Lấy ví dụ, những cộng đoàn người Biệt Phái sống tách biệt khỏi dân chúng.  Cộng đoàn chung quanh Chúa Giêsu sống hòa đồng với dân chúng.  Bài sai của Chúa Giêsu trao cho bảy mươi hai môn đệ là thiết lập lại các giá trị truyền thống của cộng đoàn đã bị đánh mất, thí dụ như lòng hiếu khách, sự tiếp đón, sự chia sẻ, sự hòa đồng quây quần bên bàn ăn, chấp nhận những người bị loại trừ.  Chúa Giêsu cố gắng đổi mới và cải tổ các cộng đoàn trong một phương cách mà họ có thể trở thành một khuôn mặt của Lời Giao Ước, một khía cạnh của Nước Thiên Chúa.

b) Lời bình luận về văn bản:
Lc 10:1:  Sứ Vụ
Chúa Giêsu sai các môn đệ đi đến các nơi mà chính Người sẽ tới.  Môn đệ là sứ giả của Chúa Giêsu.  Môn đệ không là tác giả của Tin Mừng.  Chúa Giêsu sai các ông đi từng hai người một.  Điều này giúp cho sự hỗ trợ giữa lẫn nhau và vì thế sứ vụ không phải là dành cho một cá nhân mà là cho cộng đoàn.  Hai người tượng trưng cho một cộng đoàn.

Lc 10:2-3:  Đồng công trách nhiệm
Việc các ông phải làm trước hết là xin Thiên Chúa sai thợ gặt đến.  Tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu phải cảm thấy có trách nhiệm với sứ vụ.  Vì vậy các ông phải cầu nguyện với Chúa Cha cho sứ vụ được trôi chảy.  Chúa Giêsu sai các môn đệ như chiên con đi vào giữa bầy sói rừng.  Sứ vụ là một việc khó khăn và nguy hiểm. Hệ thống xã hội mà các ông sống, và cũng rất có thể là xã hội chúng ta đang sống ngày nay, tiếp tục phản kháng lại việc thay đổi tổ chức về lối sống của người ta trong cộng đoàn.  Bất cứ ai, giống như Chúa Giêsu, công bố tình yêu thương trong một xã hội được tổ chức thiên về lòng vị kỷ cá nhân và bè phái, thì sẽ trở thành một chiên con giữa bầy sói rừng và sẽ bị đóng đinh.

Lc 10:4-6:  Lòng hiếu khách
Các môn đệ của Chúa Giêsu không được mang theo vật gì bên mình, không túi tiền, không giầy dép.  Các ông chỉ được phép mang theo là sự bình an.  Điều này có nghĩa là các ông đã phải nương nhờ vào lòng hiếu khách của dân chúng.  Vì thế người môn đệ là kẻ không mang theo vật gì bên mình ngoại trừ sự bình an, cho thấy là người ấy tin tưởng vào người ta.  Ông nghĩ là mình sẽ được chấp nhận và do đó người ta sẽ cảm thấy họ được tôn trọng và được thừa nhận.  Bằng cách này, các môn đệ đã phê phán các lề luật liên quan đến sự phân chia giai cấp và đưa ra các giá trị truyền thống về sự chia sẻ công đoàn của dân Thiên Chúa.  Không chào hỏi ai dọc đường có nghĩa là các ông không nên lãng phí thì giờ vào bất cứ việc gì không liên quan đến sứ vụ.  Điều này có lẽ muốn nhắc đến câu chuyện cái chết của con trai người Sunêm, nơi tiên tri Ê-li-sa nói với người đày tớ:  “Hãy ra đi!  Nếu gặp ai thì đừng có chào” (2 V 4:29), bởi vì đây là vấn đề về sự sống và cái chết.  Công bố Tin Mừng của Thiên Chúa là vấn đề giữa sự sống và cái chết!

Lc 10:7:  Sự chia sẻ
Các môn đệ không được di chuyển từ nhà này sang nhà nọ, nhưng phải ở lại trong cùng một ngôi nhà.  Các ông phải sống chung với nhau, chia sẻ đời sống và công việc với người dân địa phương, và ăn uống những thứ họ trao cho, vì thợ đáng được trả công.  Điều này có nghĩa là các ông phải tin tưởng vào việc chia sẻ.  Qua cách thực hành mới mẻ này, các ông tái khám phá ra một trong những truyền thống cổ xưa của dân riêng Thiên Chúa, chỉ trích nền văn hóa tích lũy vơ vét là một đặc tính của đế quốc La-mã và để công bố một mô hình mới cho người ta sống chung với nhau.

Lc 10:8  Cuộc sống quây quần bên bàn ăn
Các môn đệ phải dùng những thức người ta dọn cho.  Khi những người Biệt Phái đi thi hành sứ vụ, họ ra đi với sự chuẩn bị sẵn sàng.  Họ mang theo túi tiền để họ có thể mua thức ăn cho riêng mình.  Họ khẳng định rằng họ không thể tin tưởng vào thức ăn của người dân vì các thức ấy không luôn được “tinh khiết”.  Vì thế, việc tuân giữ lề luật tinh khiết, thay vì giúp đỡ để vượt qua những ngăn cách, lại làm suy yếu các giá trị của cuộc sống cộng đoàn.  Các môn đệ của Chúa Giêsu không được sống tách biệt với người ta mà phải chấp nhận cuộc sống quây quần bên bàn ăn.  Khi phải tiếp xúc với dân chúng, các ông không phải lo sợ mất đi sự tinh khiết theo lề luật.  Giá trị cuộc sống cộng đoàn của tình anh em sống chung với nhau thì lớn hơn giá trị việc tuân giữ lề luật.  Bằng cách hành động như thế, các ông đã lên án luật lệ hiện hành về thanh tẩy, và công bố một phương cách thanh tẩy mới, là gần gũi với Thiên Chúa.

Lc 10:9a:  Tiếp đón những kẻ bị hắt hủi
Các môn đệ phải chữa lành những người bệnh tật, chữa sạch những người phong cùi, và xua đuổi ma quỷ (Mt 10:8).  Điều này có nghĩa là các ông phải đón tiếp vào trong cộng đoàn những người đã bị hất hủi bỏ rơi.  Thực hành sự đoàn kết là một lời chỉ trích đến xã hội đã loại trừ người ta ra khỏi cộng đoàn.  Và do đó đã tìm lại được truyền thống tiên tri cổ xưa về Đấng Cứu Chuộc.   Vào thời xa xưa, sức mạnh của gia tộc hay cộng đoàn đã được mặc khải trong việc bảo vệ giá trị của con người, gia đình và sở hữu đất đai, và được thực hành một cách cụ thể mỗi “bảy lần bảy năm” qua việc cử hành Năm Thánh (Lv 25:8-25; Đnl 15:1-18)

Lc 10:9b:  Nước Thiên Chúa đã đến gần
Hiếu khách, chia sẻ, sống quây quần, tiếp đón những người bị loại trừ (người che chở) là bốn trụ cột để duy trì đời sống cộng đoàn.  Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn của nghèo đói, thất nghiệp, sự ngược đãi và đàn áp từ người La-mã, những trụ cột này đã bị gãy đổ.  Chúa Giêsu muốn xây dựng lại những tru cột này và khẳng định rằng, nếu dân chúng tìm trở lại với bốn giá trị này, thì các môn đệ có thể công bố với bốn phương:  Nước Thiên Chúa đã đến gần!  Lời công bố về Nước Trời không có nghĩa là giảng dạy về chân lý và đạo lý, mà là đem người ta đến một phương pháp mới để sống và chia sẻ, một phương cách mới để hành động và suy nghĩ, dựa trên Tin Mừng mà Chúa Giêsu công bố rằng:  Thiên Chúa là Cha và do đó tất cả chúng ta đều là anh chị em.

Lc 10:10-12:  Giũ sạch bụi đất ở chân các môn đệ
Làm thế nào chúng ta có thể hiểu được một lời đe dọa cứng rắn như thế?  Đức Giêsu đã đến để mang lại một điều hoàn toàn mới mẻ.  Người đến để phục hồi các giá trị đời sống cộng đoàn xa xưa:  lòng hiếu khách, sự chia sẻ, đời sống quây quần và chào đón những kẻ bị hắt hủi.  Điều này giải thích mức độ nghiêm trọng của những lời được dùng đối với những ai từ chối chấp nhận lời rao giảng.  Họ không từ chối chấp nhận điều gì mới lạ, mà chính là quá khứ của mình, nền văn hóa riêng và sự khôn ngoan của họ!  Chương trình của Chúa Giêsu dành cho bảy mươi hai vị môn đệ là nhắm vào khơi dậy lại ký ức, khôi phục lại giá trị đời sống cộng đoàn của truyền thống lâu đời nhất, để xây dựng lại cộng đoàn và nhắc lại lời Giao Ước, để canh tân đời sống và do đó Thiên Chúa là Tin Mừng mới tuyệt vời trong đời sống của mọi người.

Lc 10:17-20:  Tên được ghi trên trời
Các môn đệ sau khi đi rao giảng trở về sum họp với Chúa Giêsu để duyệt xét lại những việc các ông đã làm.  Các ông bắt đầu kể lại những công việc của mình.  Với niềm vui lớn lao, các ông thông báo lại với Người rằng, nhân danh Đức Giêsu, họ đã có thể xua đuổi được ma quỷ!  Chúa Giêsu giúp các ông phân tách và sự nhận thức của mình.  Nếu các ông đã có thể xua trừ được ma quỷ, đó là vì Chúa Giêsu đã ban cho các ông quyền năng ấy.  Trong khi các ông còn ở với Đức Giêsu, thì không ma quỷ nào có thể đến gần các ông. Và theo lời của Chúa Giêsu thì việc quan trọng nhất không phải là xua trừ được ma quỷ, mà là tên của các ông đã được viết trên trời.  Để có tên được viết ở trên trời có nghĩa là chắc chắn được Chúa Cha biết đến và được yêu mến.  Trước đây, các ông Giacôbê và Gioan đã xin để cho lửa từ trời xuống tiêu diệt người Samaria (Lc 9:54).  Bây giờ, qua việc công bố Tin Mừng, Satan như một tia chớp từ trời sa xuống (Lc 10:18) và tên của các môn đệ người Samaria được ghi trên trời!  Trong những ngày ấy, nhiều người nghĩ rằng bất cứ điều gì thuộc về người Samaria là thuộc về ma quỷ, thuộc về Satan (Ga 8:48).  Chúa Giêsu đã thay đổi tất cả!

c) Phụ chú
Các cộng đoàn nhỏ đang được thành hình tại miền Galilê và tại Samaria tất cả chỉ là “một sự mường tượng trước về Nước Trời”.  Cộng đoàn sống chung quanh Chúa Giêsu ví như dung mạo của Thiên Chúa được biến thành Tin Mới cho dân chúng, hơn hết cả là cho những người nghèo khó.  Cộng đoàn của chúng ta có giống như thế không?
Đây là một số đặc điểm của cộng đoàn đã phát triển chung quanh Chúa Giêsu.  Đây là những đặc điểm về dung mạo Thiên Chúa đã được mặc khải trong họ.  Chúng có thể dùng như một tấm gương cho việc duyệt xét lại cộng đoàn chúng ta:
i)  “Anh em chỉ có một Thầy, còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23:8).  Nền tảng của cộng đoàn không phải là kiến thức hoặc quyền lực, nhưng sự bình đẳng giữa các anh chị em.  Đó là tình anh em.
ii)  Chúa Giêsu nhấn mạnh về sự bình đẳng giữa nam và nữ (Mt 19:7-12) và giao việc cho các ông lẫn các bà (Mt 28:10, Mc 16:9-10, Ga 20:17).  Tất cả mọi người đều “đi theo” Chúa Giêsu từ miền Galilê (Mc 15:41; Lc 8:2-3).
iii)  Họ đã có một ngôi nhà chung được chia sẻ với người nghèo khó (Ga 13:29).  Việc chia sẻ này phải thấm nhuần vào hồn và tâm trí của tất cả mọi người (Cv 1:14; 4:32).  Nó phải đạt tới điểm rằng không có một bí mật nào giữa họ (Ga 15:15).
iv)  Sức mạnh của sự phục vụ.  “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người!” (Mc 10:44)  Chúa Giêsu đã nêu gương (Ga 13:15).   “Con Người đến không phải để được phục vụ, mà là để phục vụ” (Mt 20:28).  “Đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22:27).  “Chúng tôi là những đày tớ vô dụng!” (Lc 17:10)
v)  Bởi vì có nhiều mâu thuẫn và chia rẽ, Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng cộng đoàn phải là nơi của sự tha thứ và hòa giải, không phải là nơi để chỉ trích lẫn nhau (Mt 18:21-22; Lc 17:3-4).  Quyền tha thứ đã được trao cho thánh Phêrô (Mt 16:19), các thánh tông đồ (Ga 20:23) và các cộng đoàn (Mt 18:18).  Ơn tha thứ của Thiên Chúa đã được truyền xuống đến cộng đoàn.
vi)  Họ đã cầu nguyện với nhau trong Đền Thờ (Ga 2:13, 7:14, 10:22-23).  Thỉnh thoảng Chúa Giêsu tập họp họ lại thành những nhóm nhỏ hơn (Lc 9:28; Mt 26:36-37).  Họ cầu nguyện trước bữa ăn (Mc 6:41; Lc 24:30, thường xuyên đi đến các hội đường (Lc 4:16)
vii)  Niềm vui mừng không ai có thể lấy đi được (Ga 16:20-22).  “Phúc cho anh em!”  Tên của anh em đã được ghi trên trời (Lc 10:20), mắt của họ sẽ được thấy những gì đã hứa (Lc 10:23-24), Nước Thiên Chúa là của anh em! (Lc 6:20).
Cộng đoàn chung quanh Chúa Giêsu là một mẫu mực cho các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi sau khi Chúa Phục Sinh (Cv 2:42-47)!  Cộng đoàn này được ví như dung mạo của Thiên Chúa được biến đổi thành Tin Mừng cho thế gian.

6. Đáp Ca Thánh Vịnh 146 (145)
Dung mạo của Thiên Chúa, được xác nhận bởi Đức Giêsu
1 Alêluia!  Ca tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
2 Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng CHÚA,
sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
3 Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
4 Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
5 Phúc thay người được Chúa Trời nhà Giacóp phù hộ
và cậy trông CHÚA, Thiên Chúa họ thờ.
6 Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi
cùng muôn loài trong đó.
Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời,
7 xử công minh cho người bị áp bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
CHÚA giải phóng những ai tù tội,
8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà.
CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
CHÚA yêu chuộng những người công chính.
9 CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.
10 CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,
Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.

7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét