Chúa Nhật 19 Quanh Năm Năm B
Bài Ðọc I: 1 V 19, 4-8
"Nhờ sức của nuôi ấy,
ông mới đi tới núi của Thiên Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ
nhất.
Trong những ngày ấy, Êlia đi
một ngày đàng vào trong hoang địa. Khi đến nơi kia, và ngồi dưới gốc cây tùng,
ông xin được chết mà rằng: "Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi:
vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con". Rồi ông nằm ngủ dưới bóng cây tùng.
Và đây Thiên Thần Chúa đánh thức ông và bảo rằng: "Hãy chỗi dậy mà
ăn". Ông nhìn thấy gần đầu ông có chiếc bánh lùi và một bình nước: ông ăn
uống, rồi ngủ lại. Thiên Thần Chúa trở lại đánh thức ông lần thứ hai và bảo:
"Hãy chỗi dậy mà ăn: vì đường ngươi phải đi còn xa". Ông liền chỗi
dậy ăn uống, và nhờ sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới
Horeb, núi của Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ê-li-a và Thiên thần. |
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5.
6-7. 8-9
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện
hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa
trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi
hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca
ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm
lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các
bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và
Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại
đồn binh chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử
và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa
ở nơi Người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 4, 30 - 5, 2
"Anh em hãy sống
trong tình thương, như Ðức Kitô đã sống".
Trích thư Thánh Phaolô Tông
đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em chớ
làm phiền hà Thánh Thần của Thiên Chúa, vì trong Người, anh em được ghi ấn tín
để chờ đợi ngày cứu chuộc đến. Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt,
tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở
hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha
thứ cho anh em trong Ðức Kitô. Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái
rất yêu dấu của Người: hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương
chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên
Chúa vì chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Phao-lô tại Ê-phê-xô. |
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa
phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết
nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6, 41-52
"Ta là bánh hằng sống
bởi trời mà xuống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, những người Do-thái
kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: "Ta là bánh hằng sống bởi
trời mà xuống". Họ nói: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông
Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: 'Ta
bởi trời mà xuống'".
Chúa Giêsu trả lời cùng họ
rằng: "Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha,
là Ðấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày
sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa
dạy bảo'. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem
thấy Cha, trừ Ðấng bởi Thiên Chúa mà ra, Ðấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật
các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.
"Ta là bánh ban sự sống.
Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ðây là bánh bởi trời
xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai
ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế
gian được sống".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Dân Do thái xưa lang thang
trong sa mạc, đã được Thiên Chúa ban Manna hằng ngày để nuôi sống họ. Khi nhắc
đến Manna, người Do thái rất hãnh diện. Vì đó là dấu chứng Giavê Thiên Chúa yêu
họ. Họ là dân riêng của Ngài.
Ðức Giêsu cũng tự ví Ngài là
bánh nuôi dân Do thái mới là Giáo Hội - là chúng ta. Thiên Chúa yêu thương
chúng ta, nên đã ban Ðức Giêsu cho chúng ta. Ðức Giêsu đến để đem sự sống cho
chúng ta. Sự sống Ðức Giêsu ban không chỉ như Manna xưa, mà là sự sống
vĩnh cửu. Ðến với Ðức Giêsu, chúng ta sẽ được hạnh phúc muôn đời.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Manna đã làm
cho dân Do thái xưa được sức mạnh để tiếp tục hành trình trong sa mạc gian khổ.
Ngày nay trong sa mạc cuộc đời. Chúng con cũng gặp nhiều khó khăn thử thách: bị
đói khát, mệt mỏi vì chiến đấu với nghịch cảnh.
Xin Chúa cho chúng con biết
đến với Chúa là sinh lực của chúng con. Xin cho chúng con biết hoàn toàn phó
thác trong tình yêu của Chúa. Chỉ trong Chúa, chúng con mới được hạnh phúc muôn
đời. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Bánh Hằng Sống
Cố ĐGM.Bat.Nguyễn Sơn Lâm. |
Suy Niệm:
Chúa Nhật XIX Thường Niên
Năm B
Sách Các Vua I 19,4-8; Thư
Êphêsô 4,30-5,2; Tin Mừng Yoan 6,41-51
Câu truyện Êlia đi trong sa mạc,
lời Ðức Yêsu tuyên bố về bánh ban sự sống, huấn từ của Phaolô về nếp sống hòa
hợp, tất cả đều đã quen thuộc đối với chúng ta. Và chúng ta có thể coi chủ đề
của ba bài Kinh Thánh hôm nay là Thánh Thể. Việc Êlia được nuôi ăn nơi hoang
địa sẽ báo trước việc Ðức Yêsu hiến thân làm lương thực nuôi dưỡng các linh hồn
khiến họ đã cùng ăn một bánh thì cũng phải biết sống hiệp nhất với nhau. Cho
rằng ý chính của Lời Chúa hôm nay là như vậy, chúng ta vẫn còn cần đọc lại các
bản Thánh Kinh để nhận ra sự phong phú của việc huấn giáo trong Hội Thánh.
1. Lương Thực Ði Ðường
Trở lại bài sách Các Vua,
chúng ta dễ nhận ra Êlia là biểu tượng của mỗi người chúng ta đang hành trình
trần gian. Cũng như ông, có lẽ chúng ta có những lần thành công và phấn khởi
trong cuộc đời. Nhưng như bông hoa sớm nở tối tàn, những thành công phấn khởi
ấy ít khi kéo dài. Chúng ta chưa kịp vui hưởng, đã gặp ngay những khó khăn thất
bại và chán chường cô đơn. Những lúc này, ước gì chúng ta biết đọc lại câu
chuyện Êlia.
Ông là một tiên tri vĩ đại.
Chiến thắng của ông ở trên núi Camêlô rất ngoạn mục. Một mình ông đã đương đầu
hiển hách được với 450 tiên tri Baal được triều đình và dân chúng ủng hộ. Mặc
cho họ kêu cầu cả ngày, lễ vật nằm trên bàn thờ tà giáo trở nên ươn thối dần.
Lúc ấy, chỉ một lời nguyện của Êlia, lửa trời đã xuống đốt lễ vật ông dâng, làm
chứng đạo của ông là chính giáo.
Nhưng Êlia chưa kịp vui hưởng
thành quả thì đã phải tất tưởi ra đi, hướng thẳng về sa mạc để tránh sự trả thù
ghê gớm của hoàng hậu Yêzabel, người đỡ đầu tà giáo trong nước. Êlia đi mãi cho
đến khi mệt mỏi chân chùn. Gặp được một bóng cây ở giữa sa mạc hoang vu, ông
nằm vật xuống, chán nản ê chề. Sống làm gì nữa, ông nghĩ vậy? Và ông xin Chúa
cất lấy linh hồn ông, để ông chết đi cho rồi, giống như các tổ phụ ngày trước
cũng đã chết nơi sa mạc này (Ds 14,22-23) và không được vào Hứa Ðịa. Có lẽ ông
đã nhớ tới trường hợp của Môsê nhiều hơn cả. Ít nhất tác giả bài sách hôm nay
đã muốn so sánh ông với vị tiên tri đã lãnh đạo dân ra khỏi Aicập.
Quả vậy Êlia đang làm lại
cuộc hành trình của Môsê. Ông này lớn lên ở trong đền vua Aicập. Một ngày kia
xuất du vãng cảnh, Môsê gặp một tên Aicập hành hạ một người Dothái. Ông nhảy xổ
vào, hạ sát tên Aicập trước sự ngưỡng mộ hào hứng của giới đồng bào với ông.
Chưa kịp hưởng hết âm vang của hành vi nghĩa hiệp hào hùng, hôm sau Môsê đã
phải tất tưởi bỏ trốn vào sa mạc kẻo bị luật pháp Aicập trị tội. Nhưng lần này,
Môsê gặp hên hơn Êlia hôm nay. Ông đã được Chúa hướng dẫn tới núi Horeb và được
Người mạc khải Danh Thánh ở đó, cũng như được lãnh nhận sứ mạng đi cứu dân. Từ
ngày ấy Horeb đã trở thành chốn hành hương. Và Êlia hôm nay đang hướng về núi
thánh này.
Nhưng Êlia không còn sức mạnh
như Môsê khi lên núi Horeb. Thất vọng, chán nản, mệt nhọc, ông tự ví mình như
Môsê không phải như hồi Môsê vừa hạ sát tên Aicập, nhưng như khi Môsê đưa dân
đi trong hoang địa. Ngoài những mệt nhọc do cảnh cát nóng, thiếu ăn, thiếu uống
gây cho thân thể, hằng ngày Môsê còn rũ rượi, nặng nề, ngao ngán vì bao lời kêu
trách, xỏ xiên, chọc tức của dân. Êlia nghĩ đến Môsê ở giai đoạn này. Và ông
muốn được an nghỉ như Môsê nơi sa mạc. Ông muốn lịch sử xưa lập lại y hệt. Ông
muốn đầu hàng trước tử thần. Ông là biểu tượng của con người muốn xuôi tay
trước thất bại và thất vọng.
Nhưng Thiên Chúa không dựng
nên con người để chết, mà là để sống. Người cứu sống họ khỏi miệng tử thần. Ðó
là mạc khải quý hóa của Lời Chúa hôm nay.
Thật vậy, đã có một thần sứ
đến lay Êlia dậy: "Ăn đi để còn lên đường". Cựu Ước dùng danh từ thần
sứ vì không dám dùng đích danh Thiên Chúa, chứ thật ra chính Người đến ban
lương thực đi đường cho con người mệt mỏi. Êlia ăn rồi lại ngủ, vì đã quá mệt.
Nhưng Chúa lại đánh thức ông, giục ông ăn thêm. Và nhờ thức ăn bồi dưỡng này,
Êlia đã đi trọn 40 đêm ngày và tới Núi Thánh của Thiên Chúa.
Tác giả Kinh Thánh dùng con
số 40 để ám chỉ cuộc hành trình của Dân Chúa nơi sa mạc từ khi ra khỏi Aicập
tới ngày vào Hứa địa là 40 năm. Nó đã trở thành biểu tượng của thời gian con
người hành trình ở trần gian này. Và đối với chúng ta, nó nói lên thời gian sống
ơn gọi làm con cái Chúa ở trần gian, từ ngày rửa tội tới khi về thiên đàng.
Và như vậy lương thực Êlia đã
nhận được cũng trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho chúng ta trong suốt
cuộc hành trình trần gian. Ðó là ý tưởng mà phụng vụ hôm nay muốn cho chúng ta
nhớ về câu truyện Êlia, để đi vào bài Tin Mừng. Chúng ta ghi nhớ nhưng không
quên cuộc hành trình của Êlia có rất nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Ông là
hiện thân của mỗi người. Các thế hệ Kitô hữu đã sớm coi ông như võ sĩ vô địch
về đức tin. Và các khuynh hướng tu trì nhìn ông như vị tiền phong của mọi phong
trào muốn từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm
kiếm Thiên Chúa vô hình. Ðó là con đường cam go, nhưng trên con đường ấy chắc
chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí.
2. Bánh Ban Sự Sống
Ðây không còn phải là một ước
nguyện kể từ ngày Ðức Yêsu giảng trong hội đường ở Capharnaum. Người đã đem
thần lương từ trời xuống cho loài người đang hành trình trần gian. Lạ lùng hơn
nữa, thần lương ấy lại là chính Người.
Tính cách lạ lùng này làm cho
người Dothái thắc mắc. Hơn thế nữa, họ khó chịu và trở nên gay gắt, thù địch.
Ðể diễn tả mối bất bình càng ngày càng lớn lên ở trong lòng họ, tác giả Yoan
không gọi họ là quần chúng hay lũ đông như từ trước tới giờ nữa. Người gọi
thẳng tên họ là "người Dothái". Và trong tác phẩm của người, danh từ
này ám chỉ những người Dothái chống đối Ðức Yêsu và sẽ giết Người.
Vậy, người Dothái bực mình
khi nghe Ðức Yêsu tuyên bố Người là bánh từ trời xuống. Họ chưa thèm để ý quan
niệm Người là bánh, vì nó trừu tượng khó hiểu quá đối với họ. Họ chỉ cần bắt bẻ
ngay tư tưởng "từ trời xuống". Họ thì thầm bảo nhau: Ông ta là con
của ông Yuse và bà Maria mà lại nói mình từ trời xuống! Ðức Yêsu nghe biết
giọng chống đối hằn học. Người lại như nhìn thấy đoàn người Dothái ngày xưa khi
ở sa mạc với Môsê... Và lòng Người cũng đau đớn thấm thía như nhà tiên tri này
và cũng như Êlia trong bài sách Các Vua hôm nay. Cảm giác bị phản đối và công
kích bị khước từ và phủ nhận sứ mạng trào lên trong môi miệng Người.
Người bảo họ: "Thôi đừng
thầm thì làm chi! Ta biết rồi, chỉ những ai được Chúa Cha kéo lại mới đến được
với Ta là phái viên của Người... Những kẻ ấy sẽ được Ta cho sống lại trong ngày
sau hết". Có lẽ Người đã nghĩ, trước hết tới Môsê, Êlia và những người như
các tiên tri này. Họ là những người đã chết trong niềm tin ở sứ mệnh đã được
Thiên Chúa sai phái. Ðức Yêsu sẽ làm cho họ sống lại. Nhưng Người cũng đã nghĩ
tới những thế hệ đến sau. Ðó là những người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ như lời các
tiên tri đã hứa (Is 54,13; Yr 31,33-34), tức là những kẻ sẽ nghe và sẽ đón nhận
lời của Người như của Ðấng từ Chúa Cha mà đến và nói những gì đã thấy nơi Chúa
Cha. Nghĩa là họ sẽ đón nhận Người như sứ giả của Chúa Cha; họ sẽ tin Người từ
trời mà xuống; họ sẽ tin bản tính Thiên Chúa ở nơi Người. Và như vậy họ sẽ được
sống đời đời. Và chính đức tin sẽ là lương thực đi đường của họ. Và bánh bởi
trời ban sự sống trước hết chính là Lời Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa nhập thể,
cũng là chính Ðức Yêsu Kitô là Ngôi Lời đã làm người.
Không dừng lại ở đây, Ðức
Yêsu còn đi xa hơn nữa. Người Dothái đã lấy óc thực tế ra để tranh luận với
Người, thì Người sẽ thách thức óc thực tế của họ. Người bảo họ: cha ông các
ngươi đã ăn Manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn ai ăn bánh bởi trời sẽ không
chết. Và bánh bởi trời xuống chính là Ta... Và bánh Ta sẽ ban là Thịt Ta sẽ
được ban cho nhân loại được sống.
Không thể có thách thức nào
lớn hơn, vì cũng không thể có mạc khải và giáo lý nào khó chấp nhận rằng: người
ta có thể công nhận Ðức Yêsu đã từ trời xuống. Người mang lời ban sự sống đến;
kẻ giữ lời ấy có thể được sống đời đời. Nhưng tin Người sẽ ban thịt máu mình để
nuôi sống con người cho đến sự sống vĩnh cửu thì thật khó quá. Ngay ngày nay đã
thấy Người ban sự sống mình làm hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thánh giá, nhiều
người vẫn còn khó tin ở mầu nhiệm Thánh Thể ban sự sống vĩnh cửu. Nhưng chính
sự khó tin này khiến người ta phải tự hỏi về niềm tin trước... Có thật người ta
đã tin đúng mức Ðức Yêsu là Lời ban sự sống chưa? Hay họ mới chỉ tin Người như
một tiên tri mang lời nuôi sống của Thiên Chúa đến cho loài người? Không, Người
không phải là tiên tri được Chúa Cha sai đến theo kiểu đó. Người là Ngôi Lời,
là chính Ngôi-Lời-Thiên-Chúa nhập thể. Người là Manna đích thực ban sự sống đời
đời. Manna ấy trước hết là Lời của Người, là chính Người với tư cách là
Ngôi-Lời-Nhập-Thể. Ai tin và nhận lấy Người như vậy là ăn Manna đi đường trần
gian dẫn đến Hứa Ðịa thực là Thiên Ðàng. Nhưng ai đã tin như vậy và đồng hóa
với Người như lương thực nuôi sống sẽ có khả năng đón nhận lời mạc khải cuối
cùng về Người rằng: Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta được ban để thế gian có sự
sống. Vì khi người ta đã tin Ðức Yêsu là Thiên Chúa thì không lẽ nào họ có thể
từ chối tin một lời Người khẳng định rõ ràng như vậy.
Do đó mấu chốt của vấn đề là
lòng tin, là thái độ có muốn được Thiên Chúa dạy dỗ và có sẵn sàng chấp nhận
mọi lời của Người hay không? Sự khác biệt giữa những người như Môsê và Êlia một
bên, còn bên kia là những người Dothái luôn luôn có thái độ thì thầm, chống
đối, bất vâng phục, là ở niềm tin vào Lời Chúa. Không phải là niềm tin chọn lọc
lời này ý kia, vì làm như vậy là đặt mình và sự khôn ngoan của mình lên trên cả
ý của Thiên Chúa; nhưng là niềm tin tận hiến trọn vẹn để được chính Chúa ban sự
khôn ngoan và sự sống của Người cho thân phận và đời sống bé bỏng yếu đuối của
mình.
Chúng ta lựa chọn thái độ của
Môsê và Êlia hay thái độ của người Dothái?
Này là Mình Thầy... Này là Chén Máu Thầy ... |
3. Nếp Sống An Bình
Dĩ nhiên chúng ta muốn được
như các vị tiên tri là những con người đích thực của Chúa. Thế thì chúng ta
đừng thì thầm, càm ràm như người Dothái thời Môsê và thời Ðức Yêsu. Ðó chính là
điều thánh Phaolô hôm nay khuyên chúng ta ở đầu bài thư của ngài: "Anh em
đừng gây phiền muộn cho Thánh Thần của Thiên Chúa (là) ấn tín anh em được niêm
đợi ngày cứu độ".
Ngày xưa dân Dothái gây phiền
muộn cho Chúa. Rồi họ đã gây phiền muộn cho Ðức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể.
Bây giờ chúng ta có thể gây phiền muộn cho Thánh Thần là ấn tín của Thiên Chúa
niêm ở nơi chúng ta. Có thể nói được rằng ngày xưa Lều Giao ước là sự hiện diện
của Thiên Chúa ở giữa dân; và họ đã ăn ở bất tín đến nỗi Người đã lấy hình
khói, mây bay ra khỏi Ðền thờ; rồi sự hiện diện của Ðức Yêsu đã nói lên Thiên
Chúa ở cùng loài người (Emmanuel) và họ đã đem Người ra khỏi Thành để đóng
đinh. Ngày nay việc ơn Thánh Thần tuôn đổ trong ngày Người hiện xuống và khi
chúng ta nhập đạo là bằng chứng Thiên Chúa đến lưu lại nơi chúng ta. Và chúng
ta có thể làm phiền muộn Người. Thánh Phaolô bảo chúng ta đừng làm như vậy. Và
người chỉ bảo những việc phải tránh để điều ấy khỏi xảy ra.
Bài thư hôm nay nói đến toàn
những hành vi gây hấn, bất bình, khó chịu với anh em. Tại sao muốn đừng làm
phiền muộn Chúa Thánh Thần chúng ta lại phải tránh những thái độ bất hòa với
anh em? Không khó hiểu lắm đâu. Ở cuối bài thư, thánh Phaolô đã muốn giải
thích. Chúng ta được ơn Thánh Thần khi "Ðức Kitô đã yêu mến ta và đã phó
nộp mình vì ta, làm lễ vật hy sinh, hinh hương dâng lên Thiên Chúa" để ban
cho chúng ta ơn tha thứ, ơn giải hòa, ơn bình an, mà ơn Thánh Thần là bảo
chứng. Người là ấn tín niêm trên các kẻ đã được chọn để họ trở thành con cái
của bình an, của tha thứ, chứ không còn để họ trở thành con cái của lôi đình và
thù nghịch nữa. Như vậy nếp sống hòa hợp, hòa giải là lẽ tự nhiên trong cuộc
đời của họ. Và ngược lại, mọi lời nói việc làm và thái độ bất bình khó chịu
xung khắc với anh em sẽ phá ấn tín bình an trên họ; và như thế họ làm phiền
muộn Thánh Thần. Nói một cách dễ hiểu hơn, Thiên Chúa chỉ lưu lại nơi những tâm
hồn được tha thứ. Vậy khi ai không có nếp sống tha thứ, họ chứng tỏ không còn
giữ Chúa lưu lại trong mình. Họ đa làm phiền muộn Người đến nỗi Người đã phải
bỏ đi.
Chúng ta có dễ tin những lời
trên này không? Hay chúng ta vẫn còn nhiều khuynh hướng thì thầm, chống đối như
Israel
ngày trước? Chắc chắn chúng ta tin vững vàng thịt máu Chúa là lương thực ban sự
sống đời đời. Nhưng chúng ta có tin mọi lời từ miệng Chúa phán ra cũng là bánh
hằng sống không? Nếu tin thì chúng ta đã phải giữ tất cả. Thế nhưng dường như
chúng ta không sẵn sàng thi hành mọi lời Chúa truyền dạy như sẵn sàng chịu lấy
Thịt Máu Chúa. Có lẽ vì vậy mà chúng ta ít tiến bộ về mặt đạo đức bởi vì như
trên đã nói, khi người ta chưa tin và nhận lấy Lời Chúa như bánh hằng sống, thì
người ta cũng khó tin và nhận lấy đúng Mình Máu Thánh Chúa. Khi ấy người ta sẽ
chịu lễ với ít lòng tin và lòng mến. Người ta có thể làm phiền muộn Chúa hơn là
làm đẹp lòng Người.
Ước gì chúng ta luôn tin vào
Lời Chúa như Êlia và Môsê để khi rước lễ chúng ta cảm thấy được bổ dưỡng thật
sự như hai ông khi nhận được Manna và lương thực đi đường. Và phải hơn hai ông
nữa, vì Manna và lương thực đi đường đích thực chính là Thịt Máu Chúa ban cho
thế gian được sống và ban cho chúng ta được sống an bình ở thế gian để hành
trình về Nước Trời.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chúa Nhật 19 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: I Kgs 19:4-8; Eph 4:30-5:2; Jn
6:41-51.
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Bánh mang lại sự sống
thần linh cho con người.
Đời sống con người có ít nhất hai
chiều kích: thể lý và tinh thần. Khi thân xác mệt mỏi và đói khát, con người
không còn sức lực để làm việc; vì thế họ cần ăn uống và nghỉ ngơi để lấy sức.
Khi tinh thần chán nản đến độ tuyệt vọng, con người mất hết ý chí và nghị lực để
sống, họ chỉ muốn chết. Làm sao con người có thể phục hồi tinh thần để tiếp tục
bước tới?
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đặc
biệt tới lương thực thần linh, những gì có thể giúp con người sống dồi dào và
sống muôn đời. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Elijah cảm thấy chán nản đến tuyệt
vọng; vì sau khi đã cố gắng rao giảng và làm nhiều phép lạ; vua quan và con cái
Israel vẫn quay lưng lại vẫn sự thật, lại còn nghe lời hoàng hậu Jezebel để lấy
mạng sống của ông. Thiên Chúa sai thiên thần mang bánh và nước tới để giúp ông
phục hồi nghị lực. Sau khi dùng lương thực hai lần, ông chỗi dậy và đi bộ một
mạch 40 ngày đêm tới núi Horeb, để gặp gỡ Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh
Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Ephesô hãy loại trừ lối sống theo xác thịt, và mở
lòng lãnh nhận lối sống theo Thánh Thần, mà Đức Kitô đã xin Chúa Cha gởi tới
tâm hồn các tín hữu. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là bánh từ
trời xuống để đem lại sự sống trường sinh cho nhân loại; người Do-thái xầm xì
chống đối, vì họ không hiểu làm sao Chúa Giêsu có thể xuống từ trời và lấy thịt
của Ngài cho họ ăn được.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhờ lương
thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Horeb.
1.1/ Nỗi chán
nản và thất vọng của tiên-tri Elijah vì con người mù quáng trước sự thật: Giống như tất cả các
tiên tri khác, tiên-tri Elijah phải nói những gì Thiên Chúa truyền và phải làm
chứng cho sự thật; nhưng con người chẳng những không nhận ra và tin vào sự
thật, họ còn tìm giết hại mạng sống của Elijah. Trong chương 18 trước trình
thuật hôm nay, Elijah đã chứng minh cho vua Ahab và toàn thể con cái Israel biết đâu là Thiên Chúa thật, qua việc thử
thách hy lễ trên núi Carmel .
Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của ông qua việc gởi lửa từ trời xuống thiêu rụi
của lễ. Nhân cơ hội này, tiên-tri Elijah đã ra lệnh bắt trói và tàn sát một lúc
450 ngôn-sứ của Baal.
Nhưng Ahab là
một ông vua hèn nhát: nhà vua đã không chấp nhận sự thật, lại còn kể cho hoàng
hậu Jezebel nghe mọi chuyện ông Elijah đã làm và tất cả sự việc ông dùng gươm
hạ sát hết các ngôn-sứ. Bà Jezebel liền sai sứ giả đến nói với ông Elijah rằng:
"Xin các thần minh làm cho ta thế này, và còn hơn thế nữa, nếu giờ này
sáng mai ta không biến mạng ngươi ra như mạng một trong các người ấy" (I
Kgs 19:2).
Vì thế,
tiên-tri Elijah phải trốn đi để bảo toàn mạng sống. Tiên-tri đi một ngày đường
trong sa mạc. Ông đến ngồi dưới gốc một cây kim tước. Ông xin cho được chết và
nói: "Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con
chẳng hơn gì cha ông của con."
1.2/ Bánh của thiên
thần làm cho Elijah lấy lại sức sống: Rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi.
Nhưng này có một thiên sứ đụng vào người ông và nói: "Dậy mà ăn!" Ông
đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá
nung và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống. Thiên sứ của
Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: "Dậy mà ăn, vì ngươi
còn phải đi đường xa."
Đây là bánh từ
tay các thiên thần chuẩn bị cho tiên-tri Elijah. Chỉ có lương thực này mới có
thể giúp cho tiên-tri Elijah hồi phục cả về thể xác lẫn tinh thần, để ông lên
đường đi bộ suốt 40 ngày đêm tới Horeb, là núi của Thiên Chúa. Lương thực của
trái đất không thể làm được điều này. Bánh mà tiên-tri Elijah ăn là hình bóng
của bí-tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đề cập tới trong Tin Mừng Gioan bên dưới.
2/ Bài đọc II: Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa.
Để hiểu những
lợi ích do Bí-tích Thánh Thể mang lại, chúng ta cần phân biệt hai lối sống mà
thánh Phaolô muốn các tín hữu Ephesô thấu hiểu.
2.1/ Lối sống
theo xác thịt: là lối sống ngược lại với những gì Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Phaolô khuyên
nhủ: "Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người
là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt
gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian
ác." Nhìn chung, đây là bốn phản ứng thường thấy khi con người phải đương
đầu với những đối tượng làm điều họ không thích hay gây thiệt hại cho họ. Tùy
theo sự liên hệ và vị thế của đối tượng, con người sẽ chọn một hay nhiều cách
thức để đối xử cho thỏa mãn tính nóng giận.
2.2/ Lối sống theo
Thánh Thần: Ngược
lại với lối sống theo xác thịt, thánh Phaolô khuyên:
+ Phải đối xử tử
tế với nhau:
Người tín hữu không sống ích kỷ để chỉ biết lo cho mình, nhưng luôn quan tâm
đến nhu cầu của người khác.
+ Phải có lòng thương xót
và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. Đây là một phần của
Kinh Lạy Cha và cũng là một điều Chúa Giêsu đòi hỏi để trở nên trọn lành như
Cha trên trời trong chương 5 của Tin Mừng Matthew.
+ Hãy bắt chước Thiên
Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương: Tục ngữ Việt-nam khuyến khích việc con
bắt chước để trở nên giống cha: "Con nhà tông, chẳng giống lông cũng giống
cánh." Bắt chước Thiên Chúa là tiêu chuẩn cao nhất trong cuộc đời một
người có thể học được. Clement của Alexandria
nói cách mạnh bạo hơn: một tín hữu thực sự là một người khôn ngoan đang tập
luyện để thành Chúa.
+ Hãy sống trong tình bác
ái: như
Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ,
làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. Hai điều chúng ta cần
học nơi Đức Kitô: (1) luôn vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự; và (2) luôn yêu
thương mọi người. Không có một của lễ nào đẹp lòng Thiên Chúa hơn hy lễ của Đức
Kitô vì bao gồm cả hai yếu tố này.
3/ Phúc Âm: Tôi là bánh
hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
3.1/ Thái độ nghi ngờ
của con người về "lương thực mới" mà Chúa Giêsu mặc khải:
(1) Phản ứng của con
người:
Con người xầm xì phản đối vì con người không hiểu việc Thiên Chúa làm. Người
Do-thái xầm xì phản đối, vì Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời
xuống." Họ nói với nhau: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông
Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói:
"Tôi từ trời xuống?"
(2) Phản ứng của Chúa
Giêsu:
Đức Giêsu muốn nói cho con người hiểu ngay cả việc con người có đức tin là do
sự giúp đỡ của Thiên Chúa: "Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến
với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi,
tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết." Làm sao chúng ta hiểu
động từ lôi kéo ở đây?
- Bằng cách
dùng sức mạnh như người chăn lôi kéo con bò? Thiên Chúa chắc chắn không làm
điều này vì nó xâm phạm tự do của con người, và con người sẽ chẳng có công ích
gì cả.
- Bằng cách
vạch ra cho con người thấy đâu là sự thật và những ích lợi của việc sống theo
sự thật (Augustine). Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài dùng đường lối này khi
rao giảng Tin Mừng, và chỉ có đường lối này mới có kết quả lâu dài.
Kinh Thánh đã
mặc khải cho con người biết về sự xuất hiện của Đức Kitô: Chúa Giêsu nói:
"Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa
dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với
tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên
Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha."
Cả hai tiên-tri, Isaiah và Jeremiah, đều tiên đoán sự xuất hiện
của Đấng Thiên Sai và sự dạy dỗ dân chúng của Ngài (x/c Isa 54:13, Jer
31:33-34).
3.2/ Chúa Giêsu
phân biệt cho con người hai loại bánh khác nhau tùy vào hiệu quả:
(1) Hiệu quả của
lương thực phần xác:
+ Mau hư nát như
manna:
Chúa Giêsu nói: "Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã
chết." Manna hay lương thực phần xác chỉ có thể làm cho no bụng và đem lại
sự sống thể lý; nhưng không đem lại sự sống tinh thần và sự sống trường sinh
cho con người.
+ Khi con người dùng đúng lương thực phần xác, chúng sẽ làm con
người mạnh khỏe; nhưng nếu dùng không đúng, chúng sẽ gây thiệt hại nhiều cho
con người.
+ Không mang lại sự
sống tinh thần: Thực tế chứng minh có những người giầu có, ăn ngon mặc đẹp, mà
vẫn không muốn sống; trong khi có những người tuy nghèo khó thiếu thốn, nhưng
vẫn sống và sống cách dồi dào.
(2) Hiệu quả của
lương thực thần linh:
+ Mang lại sự sống
muôn đời:
Chúa Giêsu mặc khải: "Tôi là bánh trường sinh ... là bánh từ trời xuống,
để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh
này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để
cho thế gian được sống."
+ Làm cho con
người kết hiệp với Thiên Chúa qua Đức Kitô: Sự sống thần linh được thông hiệp cho con
người qua bí-tích Thánh Thể. Lãnh nhận Bí-Tích này thường xuyên sẽ gia tăng đức
tin và đức ái cho con người, để họ càng ngày càng biết yêu mến Thiên Chúa hơn.
+ Làm cho con người
kết hiệp với Giáo Hội và với nhau: Thánh Phaolô ví mỗi tín hữu như một chi thể
trong một thân thể là Giáo Hội. Bí-tích Thánh Thể liên kết các chi thể với
nhau.
+ Thánh hóa con người: Bí-tích Thánh Thể tha
các tội nhẹ; giúp tránh các tội nặng trong tương lai; hướng lòng con người về
Thiên Chúa, và không về những lôi cuốn của thế gian. Con người là hậu quả của
những gì họ ăn uống: nếu năng lãnh nhận BT Thánh Thể, họ sẽ càng ngày càng nên
giống Thiên Chúa; đến độ họ có thể thốt lên như Phaolô: "Tôi sống, nhưng
không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi."
+ Giúp sinh
hoa kết trái tốt lành: Chúa Giêsu ví Ngài như cây nho và chúng ta là cành. Nếu chúng
ta kết hiệp với Ngài, chúng ta mới có thể sinh hoa trái là nhân đức và các việc
lành. Năng lãnh nhận bí-tích Thánh Thể sẽ giúp chúng ta có sức mạnh để sống
theo lối sống của Thánh Thần như đã đề cập đến trong Bài Đọc II.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta là
sự kết hiệp của thể xác lẫn tinh thần: như thân xác cần của ăn uống để sống
cách thể lý, tinh thần chúng ta cũng cần lương thực thần linh để sống vui vẻ và
hạnh phúc.
- Bí-tích
Thánh Thể là chính Đức Kitô. Khi lãnh nhận Mình Thánh Chúa, chúng ta được thông
phần với đời sống thần linh của Thiên Chúa, và nhận được bao nhiêu kết quả tốt
đẹp từ cuộc sống thần linh này.
- Chúng ta cần
biết thu xếp thời gian để tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày. Sức mạnh của
Thánh Thể sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả khó khăn trong cuộc sống.
Linh mục
Anthony Đinh Minh Tiên OP
Chúa Nhật 19 thường niên, năm B
Suy niệm: Dân Do thái xưa lang thang trong sa mạc, đã được
Thiên Chúa ban Manna hằng ngày để nuôi sống họ. Khi nhắc đến Manna, người Do
thái rất hãnh diện. Vì đó là dấu chứng Giavê Thiên Chúa yêu họ. Họ là dân riêng
của Ngài.
Ðức Giêsu cũng tự ví Ngài là bánh nuôi dân Do
thái mới là Giáo Hội - là chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên đã ban
Ðức Giêsu cho chúng ta. Ðức Giêsu đến để đem sự sống cho chúng ta. Sự sống Ðức
Giêsu ban không chỉ như Manna xưa, mà là sự sống vĩnh cửu. Ðến với Ðức
Giêsu, chúng ta sẽ được hạnh phúc muôn đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Manna đã làm cho dân Do thái xưa được sức
mạnh để tiếp tục hành trình trong sa mạc gian khổ. Ngày nay trong sa mạc cuộc
đời. Chúng con cũng gặp nhiều khó khăn thử thách: bị đói khát, mệt mỏi vì chiến
đấu với nghịch cảnh.
Xin Chúa cho chúng con biết đến với Chúa là sinh
lực của chúng con. Xin cho chúng con biết hoàn toàn phó thác trong tình yêu của
Chúa. Chỉ trong Chúa, chúng con mới được hạnh phúc muôn đời. Amen.
Ghi nhớ : "Ta là bánh hằng sống bởi trời mà
xuống".
12/08/12
CHÚA NHẬT TUẦN 19 TN – B
Ga 6,41-51
Ga 6,41-51
BÁNH
LÀ ĐỂ ĐƯỢC ĂN!
“Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51)
Suy niệm: Phần đầu của diễn từ, Chúa Giêsu nói Người là bánh trường sinh, ai đến với Người sẽ không phải đói nữa. Thế nhưng tới đây, Người nói trắng ra bánh ấy chính là thịt của Người. Rõ ràng đây là lời tiên báo về Bí Tích Thánh Thể. Bánh rượu trở thành Thịt Máu Chúa; ta ăn chính Người. Đức Giêsu hiện diện trong bánh và rượu như thế nào, đó quả là vượt quá trí hiểu con người. Nhưng trước hết, ta nên tự hỏi: Người cứ khăng khăng phải hiện diện như thế là để làm gì? Nếu Người có lý do chính đáng để hiện diện trong bánh rượu của Bí tích Thánh Thể, thì việc hiện diện như thế nào sẽ không còn là vấn đề nữa - (vì chẳng lẽ Chúa không làm được điều mà Ngài cảm thấy cần làm hay sao?). Cả bài diễn từ này nói rõ lý do chính đáng ấy: Đức Giêsu hiện diện trong bánh rượu để cho ta ăn uống, nhờ đó ta được sống muôn đời, nói cách khác, Người hiện diện trong Bi Tích Thánh Thể để diễn tả tình yêu hiến thân cứu độ con người.
Mời Bạn: Chẳng ai nhìn bánh bày trong tủ kiếng mà no. Tiên vàn, bánh là để ăn! Bánh không được ăn là bánh thừa, nó ‘vô duyên’, nó không phát huy hết yếu tính của nó. Bí Tích Thánh Thể có trở thành ‘vô duyên’ đối với bạn không?
Sống Lời Chúa: Bạn tham dự Thánh Lễ và rước lễ cách sốt sắng và nhờ đó bạn biến ngày sống của bạn thành một Thánh lễ kéo dài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì yêu thương, Chúa đã trở thành tấm bánh cho con. Xin cho con biết khát khao đón nhận Chúa, và đến lượt con trở thành tấm bánh cho đời. Amen.
BÁNH
TRƯỜNG SINH
Lời Chúa cũng là thức ăn khó nuốt, vì là một lời mời gọi tôi
ra khỏi mình, bỏ lại những tính toán khôn ngoan và hợp lý.
Suy niệm:
Một ngôn sứ dũng cảm như Êlia trên núi Cácmen
cũng có lúc chán nản, thất vọng, chỉ
muốn xin được chết.
Giữa sa mạc, Êlia nằm ngủ dưới gốc
cây.
Ông không còn đủ sức tiếp tục cuộc
hành trình.
Một thiên thần đã đem đến cho ông
bánh và nước,
nhờ đó ông có sức đi đến núi của
Thiên Chúa.
Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc
cuộc đời,
với bao thách đố, ngờ vực, hiểm
nguy...
Chúng ta cần được dưỡng nuôi, nâng
đỡ,
để có sức đi hết cuộc hành trình về
quê thật.
Có thiên thần nào hiện ra đem bánh
cho ta không?
Có thứ manna nào từ trời rơi xuống?
Thiên Chúa Cha muốn ban cho ta tấm
bánh từ trời,
đó là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa (Ga
6,32-33).
Ðức Giêsu là Tấm Bánh Cha ban cho
nhân loại,
và chính Ngài cũng muốn tặng bản
thân mình cho ta:
“Tôi là Bánh trường sinh” (c.48).
“Tôi là Bánh hằng sống từ trời
xuống” (c.51).
Khi nói đến Bánh hằng sống, Bánh trường sinh,
chúng ta thường nghĩ ngay đến bí
tích Thánh Thể
và ít khi nghĩ đến Tấm Bánh Lời
Chúa.
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc.
Chúng ta được mời đến dự bàn tiệc
Lời Chúa
trước khi dự bàn tiệc Thánh Thể.
Cả hai đều là lương thực cần thiết
cho tín hữu.
Công đồng Vaticanô (PV 7) khẳng định
rằng
khi chúng ta nghe đọc Lời Chúa trong
Phụng Vụ
thì Chúa Giêsu “hiện diện trong Lời
của Người,
vì chính
Người nói khi ta đọc Kinh
Thánh trong Giáo Hội”.
Như thế Chúa Giêsu vẫn loan báo Tin
Mừng
trong từng thánh lễ (PV 33).
Ngài vẫn trao cho ta Tấm Bánh là Lời
của Ngài.
Con người sống đâu chỉ nhờ cơm bánh
vật chất,
mà còn nhờ mọi lời do miệng Thiên
Chúa phán ra.
Ðức Giêsu là Lời viết hoa của Thiên
Chúa.
“Thầy có những lời ban sự sống đời
đời” (Ga 6,68).
Lời Chúa là thức ăn khó nuốt.
Cuốn Tân Ước tôi cầm trên tay là một
bản văn cổ,
thuộc nền văn hóa xứ Palestin cách
đây hơn 2000 năm.
Phải học hỏi, đào sâu mới hiểu đúng
và hiểu đủ.
Lời Chúa cũng là thức ăn khó nuốt,
vì là một lời mời gọi tôi ra khỏi
mình,
bỏ lại những tính toán khôn ngoan và
hợp lý.
Tiếng Chúa đụng đến con người tôi, ở
đây, bây giờ,
và mời tôi dấn thân vào một cuộc mạo
hiểm.
Nhưng Lời Chúa sẽ là tấm bánh thơm
ngon
nếu tôi biết lắng nghe và đem ra
thực hành.
Càng sống Lời Chúa,
tôi càng gặp được ánh sáng và sức
mạnh,
nhất là được hiệp thông với con
người Ðức Giêsu.
Hãy hưởng dùng Tấm Bánh Chúa trao
cho bạn,
và hãy chia sẻ cho nhau kho tàng Lời
Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ
như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa
đang tạo dựng cả vu trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang
hẹn gặp con
nơi mọi
biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì
con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu
đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì
con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước
đường đời của con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Ta
là bánh hằng sống bởi trời mà xuống".
Tôi là Bánh Từ Trời Xuống
Chúa
nhật trước, Đức Giêsu kêu gọi dân chúng : “Hãy ra công làm việc không phải vì
lương thực hư nát, nhưng để có lương thực trường sinh”. Chúa nhật hôm nay, Đức
Giêsu nhấn mạnh đến thứ lương thực đó là bánh từ trời xuống “Tôi là bánh từ
trời xuống”.
Rất
nhiều dân tộc trên thế giới chủ trương tổ tiên của họ là người từ trời xuống.
Đoạn văn về Sáng Thế trong kinh Digha Nykaya của Phật giáo viết như sau : Có ít
dân trời hết nghiệp tốt, phải bỏ trời xuống mặt đất. Họ vẫn sáng láng thanh
tịnh. Nhưng xảy ra có mấy người tò mò lấy ngón tay động vào vỏ đất rồi đưa lên
lưỡi nếm thấy mùi mật ong. Lòng tham thúc đẩy họ bắt đầu ăn vỏ đất. Những người
khác thấy vậy cũng ăn vào, nên thân xác trở nên dầy đặc và nặng nề.
Platon,
ông tổ triết học Tây phương, cũng cho con người từ trên lý giới sa đọa xuống hạ
giới này.
Con
người luôn mơ ước được về trời vì họ tưởng tổ tiên họ đã từ trời xuống. Nhưng
khi nghe Đức Giêsu nói : “Tôi là bánh từ trời xuống”, người ta lại kêu ca phản
đối : “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng
ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói : Tôi từ trời xuống”. Họ phản đối
Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ
giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày
12 tháng 04 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố : “Tôi không thấy thiên
đàng đâu cả”. Cũng như bác sĩ giải phẫu bệnh nhân, chỉ thấy ruột, tim, gan,
phổi mà không thấy tâm tình, ý chí, trí khôn, lương tri, trí thức và nhất là
linh hồn đâu cả.
Lối
nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, nghĩa là chỉ thấy cái nhìn thí nghiệm,
cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra, không thấy gì
khác nữa, nên cho là không có.
Người
Do thái cũng biết Đức Giêsu theo lối nhìn xác thịt. Họ chỉ thấy Người là con
ông Giuse và bà Maria, sống ở thôn ấp nhỏ bé. Nếu họ thấy hơn chút nữa, thì họ
cũng chỉ ngạc nhiên thấy Người làm cho kẻ què được đi, kẻ mù thấy được, kẻ câm
nói được, kẻ điếc nghe được, kẻ chết sống lại và chính họ là kẻ đói được ăn no
nê. Có thế thôi. Họ không thể thấy gì thiêng liêng, cao siêu qua những việc lạ
lùng đó. Cùng lắm, họ coi Người là một tiên tri như Êlia được thiên thần đưa
bánh cho ăn, hay là kẻ chết sống lại mới làm được những sự lạ ấy.
Họ
không thể thấy Người từ trời xuống, thấy Người được Chúa Cha sai đến, thấy
Người là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Maria bởi phép Chúa Thánh
Thần, thấy các thiên thần hát mừng Người lúc sinh ra trong hang lừa, thấy được
tiếng Đức Chúa Cha phán : Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, khi Đức
Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan tẩy giả.
Họ
không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm
động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Chúa Cha dạy dỗ
dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách các Ngôn sứ đã chép. Thiên
Chúa lôi kéo, Thiên Chúa dạy dỗ, Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe,
không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của
họ đã chiều theo cái bụng, cái mắt, cái tai, cái dục. Chừng nào họ diệt được
tham, sân, si thì lòng mới trong sạch, mắt mới sáng lên, tai mới thính ra, lúc
đó, họ mới sống đức tin, mới thấy được bánh từ trời xuống, họ mới rước được
bánh trường sinh và được sống đời đời.
Mỗi
Thánh lễ đều nói với chúng ta : “Tôi là bánh từ trời xuống” “Này là Mình Thầy,
này là chén Máu Thầy”. Thánh lễ chẳng có gì hấp dẫn những con mắt no nê phim
ảnh, những cái bụng say sưa ăn nhậu. Thánh lễ chẳng có gì làm hồi hộp rung động
những con tim mê đắm xác thịt, những lòng trí miệt mài tiền của, danh vọng.
Thánh
lễ chỉ cảm hóa những con người chân thành, những tấm lòng khao khát lương thực
trường sinh. Thánh lễ chỉ hấp dẫn những ý chí quyết tin theo lời Thiên Chúa,
những tình yêu sốt sắng hy sinh lấy thịt mình cho người khác ăn.
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho con đôi mắt sáng để nhìn thấy bánh từ trời xuống. Xin cho
con đôi tai tinh tường để lắng nghe lời hằng sống. Xin cho con một ý chí mạnh
mẽ để ra sức làm việc của Thiên Chúa và một trái tim nhạy cảm trước tình thương
lấy thịt mình nuôi sống chúng con đời đời.
(Trích
trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
Sống chết ở trong tay mình
Nói thế, tưởng
đúng, mà lại sai. Vì có ai biết được, mình sẽ sống tới bao nhiêu tuổi rồi chết
đâu. Khối gì người đau lâu ốm dài, ước mong được chết, mà cứ sống hoài; trong
khi, có những người tuổi xuân phơi phới, béo tốt khỏe mạnh, bỗng lăn đùng ra
chết. Rõ ràng, sự sống có ở trong tay mình đâu. Đấy là ở góc độ thân xác. Còn ở
góc độ tâm linh, thì lại khác: Sự sống chết là ở trong tay mình.
Ta xác quyết
thế, không phải là tự bịa ra, mà là dựa vào những lời dạy của Thầy Giêsu dấu ái
của ta. Ngài nói: Ai tin thì được sự sống đời đời. Một chân lý mới mở ra: Sự
sống của linh hồn là sự sống vĩnh cửu. Được sự sống đời đời, có nghĩa là được
tháp nhập vào nguồn cội của sự sống, đó chính là sự sống của Thiên Chúa. Mất sự
sống đời đời, không có nghĩa là phải chết như thân xác, mà là bị tách rời với
Thiên Chúa, là chính sự sống, đồng thời cũng là sự sáng. Và chân lý thứ hai mở
ra: Muốn có được sự sống đời đời ấy, chỉ có một điều kiện duy nhất: là Tin.
Nhưng là niềm
tin nào? Không phải là một niềm tin vu vơ, mà là một niềm tin son sắt vào Chúa
Giêsu Kitô. Chúa Giêsu, là trụ cột, và là con đường duy nhất để có được sự sống
vĩnh cửu.
Nhưng thế nào
là tin vào Đức Giêsu? Tin là tuyệt đối tin tưởng, và hoàn toàn phó thác đời
mình vào trong tay Chúa Giêsu. Chấp nhận một cách vững chắc những lời dạy của
Ngài. Và trong chữ Tin ấy, nó có hòa lẫn một tình yêu mến thực sự và chân
thành. Vừa tin, vừa yêu. Và vì vừa yêu như thế, cho nên ta luôn cố gắng, tìm
thánh ý của Ngài để thi hành; thi hành một cách tự nguyện, vui vẻ và hạnh phúc.
Và cái đỉnh cao nhất của niềm tin nơi Đức Kitô, là tin vào sự hiện diện của
Ngài nơi Bí tích Thánh Thể. Phải có một niềm tin tuyệt đối, mới có thể chấp
nhận được sự hiện diện mầu nhiệm này. Và khi đã đón nhận Chúa Kitô trong bí
tích này rồi, đức tin của ta, sẽ được đẩy lên cao hơn, và sâu xa hơn: Ta được
kết hiệp mật thiết với Ngài. Và nhờ sự kết hiệp này, sự sống vĩnh cửu nơi Chúa
Giêsu, sẽ ở lại trong ta, để dần dần mỗi ngày, ta trở nên đồng hình đồng dạng
với Ngài.
Nhưng, đây chỉ
là một lời mời chân thành. Chúa luôn tôn trọng tự do và quyết định của ta;
không hề ép buộc. Ta có thể từ chối. Nhưng khi làm thế, ta phải chấp nhận những
hệ lụy đi theo. Không phải Chúa phạt, mà là chính ta chọn lựa cho mình. Vì: ai
không ăn bánh này, sẽ phải chết đời đời. Chính ta chọn cái chết cho ta, đừng đổ
oan cho Chúa.
Câu hỏi:
1- Trong cuộc
đời, ai là người mà bạn tin tưởng nhất để đồng hành với bạn trong những tình
huống của cuộc đời.
2- Xin bạn nhìn
lại, trong linh hồn bạn, đã có mầm sống vĩnh cửu cắm rễ chưa?
(Suy niệm của
Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm - Trích trong ‘Tập San Tĩnh Tâm Giáo Phận Long Xuyên số
08/2012’)
"Ta là bánh ban
sự sống"
(Suy niệm của
Lm Jos. Tạ duy Tuyền)
Mỗi ngày Việt
nam đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành. Những cái chết của phi nhân
bất nghĩa, của tình người băng giá, của đạo đức suy đồi, của tham lam bất
chính. Ðây phải là lúc chúng ta nhìn lại nhân sinh quan cuộc sống, tại sao giữa
nền văn minh nhân loại lại đổ vỡ tình người, lại tan nát tất cả những luân
thường đạo lý mà bốn ngàn năm văn hiến của cha ông đã gầy dựng? Chúng ta thử
nhìn lại thống kê của trang điện tử www.tin247.com/ mỗi ngày Việt Nam có:
Phá thai hơn
500,000 ca phá thai một năm, trung bình mỗi ngày có hơn 1,300 thai nhi bị giết
hại.
Mỗi tháng có
gần 1,100 người chết vì tai nạn giao thông, trung bình mỗi ngày hơn 35 người
chết vì tai nạn giao thông.
Trung bình mỗi
ngày lại có thêm 50 - 100 người nhiễm AIDS.
Mỗi một ngày
tứ Bắc chí Nam
có hàng ngàn cô gái đem thân xác đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn.
Mỗi ngày những
vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn.
Ðạo lý làm
người nay ở đâu? Con người có còn là "nhân chi sơ tính bản thiện" hay
đã bị thoái hóa mất tính người? Con người biết thiện và ác, có khả năng tự chủ
bản thân hơn loài vật, sao lại dễ dàng làm điều xấu, điều hại người hơn là làm
điều tốt, điều cứu sống anh em?
Là người ky-tô
hữu, ai trong chúng ta cũng tự hào vì mình là hình ảnh Thiên Chúa. Ai trong
chúng ta cũng tự hào mình vượt lên trên muôn loài muôn vật vì "nhân linh ư
vạn vật". Ai trong chúng ta cũng hiểu rằng con người có tương giao với
Thiên Chúa, với thần linh. Con người đến từ Thiên Chúa. Con người thuộc về
Thiên Chúa, vì con người bởi Thiên Chúa mà ra. Nhưng liệu rằng, khi nhìn vào
cuộc sống của chúng ta người ta có nhận ra chúng ta là con cái Thiên Chúa hay
người ta sẽ ngán ngẩm bảo rằng: cuộc sống của anh, suy nghĩ độc ác, ích kỷ,
những ước muốn tầm thường, những lời nói giết người không dao của anh làm tan
nát tâm hồn bao người, ...tất cả chúng tôi nào có lạ gì, sao anh bảo anh đến từ
Thiên Chúa tình thương và nhân lành? "Người ta cứ dấu này, mà nhận biết
các con là môn đệ Thầy: là các con yêu thương nhau". Liệu rằng dấu hiệu ấy
có được tỏ hiện qua lời nói việc làm của chúng ta hay không?
Cuộc đời dương
thế của Chúa Giê-su là chứng minh Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Ngài đến để giới
thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết
tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát
không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập.
Ngài không kết án ai. Ngài luôn bao dung tha thứ. Ngài đã từng tha thứ cho cả
kẻ gây nên nhục hình cho Ngài. Ðỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho
người mình thương.
Cuộc đời Ngài
ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều
người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho
muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho
mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì "bánh
ngọt bẻ đôi" sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm
bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào.
"Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ". Ðó là tấm bánh phục
sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.
Phải chăng
Ngài cũng mời gọi chúng ta đón nhận tấm bánh đời Ngài để sức sống, ân sủng,
tình thương của Ngài thẩm thấu trong cuộc đời chúng ta, để chính chúng ta cũng
trở thành tấm bánh trao ban bình an và hạnh phúc cho tha nhân?
Phải chăng
Ngài cũng đang mời gọi chúng ta, không chỉ nhận ra mình mang nguồn gốc từ trời,
mà phải sống và hành động như con cái của Chúa. Sống hoàn thiện mình mỗi ngày
như cha chúng ta ở trên trời là Ðấng hoàn thiện. Mỗi ngày chúng ta phải thanh
tẩy mình khỏi mọi điều gian ác, khỏi những ước muốn tầm thường và mặc lấy tâm
tình từ bi nhân hậu như Ðức Ky-tô để dung nhan Thiên Chúa được tỏ hiện trong
đời sống hằng ngày của chúng ta.
Ước gì trong
mỗi lời nói hành động đầy yêu thương bác ái của chúng ta mà các anh chị em
chung quanh sẽ ngợi ca Cha chúng ta là Ðấng ngự trên trời. Ứơc gì khi chúng ta
nhận ra tình thương của Chúa dành cho mình, thì mỗi người hãy biết sống tâm
tình tạ ơn Chúa, đồng thời biết noi gương Chúa sống yêu thương anh em đồng loại
của mình.
Nguyện xin
Chúa Giê-su Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho muôn người nâng đỡ và giúp chúng ta
biết sống cao thượng, sống đúng với phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
12 THÁNG TÁM
Đưa Vũ Trụ Về Với Thiên Chúa
Trong thế giới hữu hình,
nguyên động lực chính của lịch sử và văn hóa là con người. Con người được tạo
dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài và được Ngài bảo vệ để hiện
hữu. Con người được Thiên Chúa hướng dẫn trong tình từ phụ để thực hiện vai trò
làm chủ trên các tạo vật khác. Như chúng ta nhớ lại, một cách nào đó, con người
là một “sự quan phòng của Thiên Chúa”.
Công Đồng Vatican II
diễn tả điều này một cách chính xác như sau: “Đối với các tín hữu, chắc chắn
hoạt động cá nhân cũng như tập thể của nhân loại, hoặc nỗ lực vĩ đại của con
người vất vả qua các thế kỷ nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống, tự nó vốn phù
hợp với ý định của Thiên Chúa. Thực vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên
Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phuc trái đất cùng tất cả những gì chứa
đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện – và khi nhìn
nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn loài, họ qui hướng về Ngài chính bản thân
mình cũng như muôn vật: như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa
được tôn vinh khắp cả địa cầu” (MV 34).
Cũng trong Hiến Chế
trên, Công Đồng tuyên bố: “Thật vậy, con người không lầm lẫn khi họ nhận biết
mình cao cả hơn vũ trụ vật chất và không coi mình chỉ như một mảnh vụn của
thiên nhiên hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài người. Bởi vì nhờ có
nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi con người quay về với lòng mình tức
là họ trở về với nội giới thâm sâu này, ở đó, Thiên Chúa Đấng thấu suốt tâm
hồn, đang chờ đợi họ, và cũng nơi đó chính con người tự định đoạt về vận mệnh
riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (MV 14).
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 12-8
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN;
1V 19,4-8; Ep 4,30-5,2; Ga 6,41-51.
LỜI SUY NIỆM: Người
Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời
xuống.” (Ga 6,41)
Con người sống trên trần gian này luôn mong muốn được sống và được trường sinh.
Thiên Chúa rất yêu thương con người, và Ngài tìm mọi cách để cứu con người khỏi
phải chết đời đời. Nên đã ban Con Một của Ngài đến trên trần gian này, để thực
hiện Thánh Ý của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố công khai: Ngài là bánh từ trời
xuống, nhưng vì con người đang ở dưới đất nên chỉ hiểu biết những gì thuộc về
đất, họ chỉ biết Chúa Giêsu là con bác thợ mộc và bà Maria xóm giềng của họ
thôi, mặc dầu người ta xầm xì phản đối nhưng Chúa Giêsu đã không hòa hoãng.
Ngài còn nhấn mạnh một cách dứt khoát: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các
ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời
xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.” (Ga 6,48-49).
Trong hiện tại, ai khước từ lương thực, là phần thiết yếu cho đời sống, thì sẽ
chết; mất luôn sự sống đời này lẫn đời sau.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
12 Tháng Tám
Món Quà Vô Giá
Một người đàn bà giàu
có đang hấp hối trên giường bệnh. Trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất
cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà. Tuyệt nhiên, bà
không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà từng giây từng phút.
Quà tặng duy nhất mà bà tặng cho cô đó là một thánh giá được bọc thạch cao.
Cô gái nhận lấy món
quà nhưng lòng cô đầy cay đắng buồn phiền. Cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục
vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được món quà không ra gì.
Không còn đủ bình tĩnh
để nuốt lấy từng giọt cay đắng, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném tung
trên nền nhà. Cây thập giá vỡ tung và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả
những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng
ánh...
Cô gái chỉ có thể hiểu
được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà... Lắm khi Thiên
Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của
thập giá. Sự sần sù và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm ta không thể hiểu được
lòng tốt của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa không bao
giờ muốn điều dữ cho chúng ta. Tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn
đưa chúng ta đến nguồn hạnh phúc cao cả hơn.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 12
CHÚA NHẬT XIX
MÙA THƯỜNG NIÊN
Thánh Nữ
Gioanna Chantal, nữ tu
Khi suy gẫm Tin Mừng, chúng ta phải đặt
mình vào vị trí những người mà Đức Giêsu gặp gỡ: ngưòi mù được Chúa chữa lành,
chính là bạn, chính là tôi, mà Ngài đang muốn làm cho sáng mắt; người bệnh cùi
đến gặp Ngài, chính là bạn, chính là tôi, mà Ngài muốn cho lành sạch và lại có
được niềm vui sống; ông Gia Kêu, người đã tiếp đón Chúa vào nhà và tái khám phá
ơn thứ tha cùng niềm vui được chia sẻ của cải, cũng chính là mỗi một người
trong chúng ta. "Anh em là muối cho đời, đừng để cho mình ra phai nhạt!
Anh em là ánh sáng cho trần gian, đừng co rúm người lại! Hãy trở nên nhân chứng
của Thầy, bất cứ nơi đâu anh em đi qua..."
Đức Giêsu đang nói như vậy với chúng ta là những môn đệ của Ngài
ngày hôm nay. Và không phải chỉ đơn giản chúng ta cần để cho Lời của Ngài nuôi
dưỡng, nhưng mà cả các thái độ của Ngài, cách hành xử của Ngài, toàn bộ cuộc
đời Ngài, bởi Ngài là Ngôi Lời, là Lời hằng sống của Thiên Chúa. Qua hành vi cử
chỉ của mình, Ngài mặc khải Chúa Cha cho chúng ta, và nói cho chúng ta hay
những ý định của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu nói với chúng ta ngày hôm nay:
"Ta là bánh hằng sống", thì trước tiên chính là Ngài đang nuôi dưỡng
chúng ta bằng Lời và cách sống của Ngài.
Bernard
Prévost
Thánh nữ Janes Frances de Chantal. |
Ngày
12 tháng 8
THÁNH GIOANA PHANXICA CHANTAL
SÁNG LẬP DÒNG THĂM VIẾNG
Gioana
chào đời ngày thứ ba, 23.01.1572, trong một lâu đài tráng lệ nguy nga thuộc
tỉnh Dijon nước
Pháp. Ai cũng tưởng cô bé sẽ được hưởng những năm thơ ấu sung sướng bên một
người mẹ đạo đức. Nhưng chào đời vừa được 18 tháng, Gioana đã phải mồ côi mẹ.
Tuy nhiên, Gioana vẫn được hưởng thụ một nền giáo dục của nhà quý phái. Gioana
lớn lên với tinh thần minh mẫn và linh lợi, tính tình vui vẻ, hoạt bát. Thêm vào
đó một tâm hồn quảng đại, nét mặt duyên dáng đượm vẻ thơ ngây như chất chứa
nhiều ân sủng.
Năm
20 tuổi, Gioana đẹp duyên với bá tước Chantal. Đây thật là một cuộc hôn nhân
xứng đôi vừa lứa. Tuy nhiên, Gioana vẫn cảm thấy lòng còn trống trải và cần
phải làm một việc gì đặc biệt hơn. Là bá tước phu nhân, nhưng Gioana không màng
gì đến những chức quyền danh vọng ấy, và coi những vẻ hào nhoáng bên ngoài như
những chướng ngại của tâm hồn đơn sơ, trong trắng. Bà ăn vận rất đơn sơ nhã
nhặn, tự tay đảm đang những công việc vặt vãnh trong nhà như quét nhà, rửa
chén, vì bá tước phu nhân nghĩ rằng: làm việc là định luật của Tạo hóa, không
ai được phép chước chuẩn. Sự có mặt của Gioana trong gia đình đã gây được một
bầu khí phấn khởi, đầm ấm, và vui tươi.
Đời
sống an vui và hạnh phúc của gia đình bá tước ngày thêm sắc, thêm hương. Sau
tám năm đoàn tụ, nào ai biết có gì thay đổi lớn! Bỗng nhiên một biến cố xảy đến
làm đảo lộn tất cả gia đình bá tước và, như muốn biến đổi Gioana thành một con
người mới. Số là bá tước Chantal đã qua đời vì một tai nạn trong lúc đi săn. Ý
Chúa nhiệm mầu như đã muốn dùng cơ hội đau thương này trao cho Gioana một sứ
mệnh đầy cam go nhưng cao quý hơn. Bá tước qua đi để lại cho Gioana bốn người
con non dại. Bà có đủ điều kiện để tái lập gia đình thứ hai, nhưng bà đã từ
chối và nguyện trung thành với người chồng đã quá cố để nuôi nấng, dạy dỗ con
cái và làm một cái gì cho Giáo hội. Gioana cảm thấy như cần phải đứng lên thiết
lập một gia đình thiêng liêng, để quy tụ những thiếu nữ muốn tận hiến cho tình
yêu Chúa và chuyên cần cầu nguyện cho nhân loại. Càng ngày, Gioana càng cảm
thấy như có tiếng thôi thúc từ trời cao, bảo bà phải can đảm hiên ngang để làm
của lễ cho tình thương lân tuất vô biên của Chúa. Bá tước ngày đêm những băn
khoăn thổn thức, không biết phải làm sao để đáp lại tiếng kêu gọi ấy. Ngài đã
mải miết xin Chúa ban cho một vị hướng dẫn tinh thần. Sau nhiều ngày nguyện
cầu, Chúa đã cho ngài gặp một vị linh hướng đúng như ý nguyện, thánh Phanxicô
Salê. Một hôm, khi nghe thánh Phanxicô giảng, tâm hồn Gioana thấy xúc động lạ
thường và nghĩ rằng chỉ có thánh nhân mới có thể giúp mình thi hành ý định cao
quý kia. Sau bài giảng, bá tước nóng lòng muốn gặp thánh nhân để giãi bày tâm
sự. Gioana mạnh bạo đến xin Đức Tổng Giám mục giới thiệu mình với thánh
Phanxicô. Đức Tổng Giám mục là anh của Gioana và là bạn thân của thánh
Phanxicô, nên bà Gioana đã được gặp ngài cách dễ dàng. Vừa gặp thánh nhân, bà
quá xúc động, chưa kịp nói được lời gì thì thánh nhân đã nhận được bà là một
quả phụ qua bộ y phục riêng biệt, ngài liền gợi truyện để xem Gioana muốn ngài
giúp gì:
“Này
con, con có ý định gì về tương lai không, con còn muốn tái giá không?” Hỏi thế
thì hỏi, chứ thánh nhân đoán chắc Gioana không còn nghĩ đến chuyện đó nữa, vì
hình như thánh nhân đã linh cảm thấy nơi bà có một ơn kêu gọi đặc biệt khác.
Quả thực, như sự ước đoán của thánh nhân, Gioana đã thưa lại:
“Thưa
cha, con chả nghĩ gì đến chuyện ấy, con chỉ muốn thi hành trọn ý Chúa”. Thế rồi
sau mấy hồi tâm sự, bà đã xin thánh Phanxicô dẫn dắt linh hồn cho. Theo lời
khuyên của cha linh hướng, Gioana sống gần như quên mình hoàn toàn để phụng sự
tình yêu Chúa, và phát triển đức bác ái đối với hết mọi người. Thánh nữ bán tất
cả đồ nữ trang, cũng như những quần áo quý giá để làm phúc cho những người nghèo
đói. Ngài ăn mặc đơn giản như thường dân để dễ bề len lỏi vào đám quần chúng
làm việc từ thiện. Những người xa gần đều cảm phục đức nhẫn nại, hy sinh của
thánh nữ. Ngày ngày thánh nữ xông pha vào những viện tế bần, những nhà dưỡng
lão để thu lượm những quần áo rách rưới, hôi thối của những người tàn phế, bệnh
tật, đem về giặt giũ sạch sẽ và khâu vá lại cho họ.
Nhận
thấy Gioana hầu như đã cởi bỏ được con người trần tục và đã đủ khả năng để làm
một việc gì cho Giáo hội, thánh Phanxicô đã vời ngài đến Annecy để tìm hiểu
cuộc đời chiêm niệm tu thân khắc khổ. Ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống
năm 1607, thánh Phanxicô cho Gioana một tia hy vọng: “Này con, điều con phải
làm cha đã quyết định rồi”. Thánh nữ trả lời: “Còn con, thưa cha, con cũng đã
quyết định vâng lời cha”. Nói xong, thánh nữ quỳ xụp xuống, cha linh hướng đến
gần bảo: “Đúng thế, cha thấy con cần phải vào dòng bà thánh Clara”. Ngài tươi
cười thưa lại: “Lạy cha, con đã sẵn sàng cả rồi”. Nhưng để thử đức vâng phục
của thánh nữ, cha linh hướng đã vịn trăm ngàn lẽ để làm cho tâm hồn Gioana phải
rối lên như nắm tơ vò, ngài tiếp: “Nhưng không, con chưa đủ sức đâu con ạ, có
lẽ con sẽ phải là một nữ tu giúp việc bệnh viện thì hơn” - “Cha muốn thế nào
thì con cũng vâng” - “À nhưng, đấy cũng chưa phải là điều cha mong muốn con ạ,
con phải làm một nữ tu dòng kín thì mới phải”- “Con cũng sẵn sàng vâng lời
cha”. Thấy tâm hồn thánh nữ mềm như miếng sáp và sẵn sàng để ơn Chúa uốn nắn,
thánh Phanxicô đã trao cho ngài sứ mệnh thiết lập dòng THĂM VIẾNG. Sau khi biết
rõ ý định của cha linh hướng, ngài thú nhận với những bà con xung quanh: “Nghe
lời đề nghị của cha, tôi cảm thấy quyết định ấy thật quá xứng hợp với tâm hồn
tôi”.
Nhưng
Gioana chưa thể thực hiện ngay được sứ mệnh ấy, vì các con còn dại. Từ đó, ngài
đành sống âm thầm trong cầu nguyện để xin Chúa lo liệu. Ngày tháng trôi qua, cô
con gái cả đã đi gánh vác gia đình, cô thứ hai đã theo cha về đời sau. Bà trối
cậu con trai cho ông nội và dẫn Phanxica, cô bé út đi với mình. Ngày 29.3.1610,
thánh nữ từ giã cha già để lên đường theo tiếng gọi của Chúa. Cảnh chia ly cảm
động biết bao, đau đớn biết mấy! Cậu con trai buồn rầu khóc lóc, nằm vật vã
dưới chân mẹ ngăn không cho mẹ bước đi. Ngày lễ Chúa Ba Ngôi năm ấy, sau khi
lĩnh phép lành của cha linh hướng, Gioana cùng với hai thiếu nữ khác đến trú
trong một căn nhà nhỏ hẹp ở ngoại ô tỉnh Annecy .
Tuy mới có ba người, nhưng cũng đã có hình thức của một nhà dòng có tổ chức.
Hai chị kia bầu Gioana làm chị cả. Ba chị em bắt đầu sống những chuỗi ngày đầy
hy sinh gian khổ. Dưới sự chỉ dẫn và giáo huấn của thánh Phanxicô, căn nhà nhỏ
bé ấy đã nên như một thửa ruộng mầu mỡ Chúa dùng để vun trồng những ơn kêu gọi
cho dòng Thăm viếng. Thực thế, như nắm men ủ trong thúng bột, chả mấy chốc đời
sống tận hiến hy sinh của thánh nữ Gioana đã lan toả khắp đó đây và dòng Thăm
Viếng càng ngày càng vươn lên cao. Thánh nữ đã phải bôn ba nhiều tỉnh để lập
những nhà dòng mới như ở Lyon, Moulins, Grenoble .
Năm 1621, thánh nữ đến Paris
với cha linh hướng và tiếp xúc với các nhà tu đức thời danh bấy giờ. Năm 1622,
Chúa đã dồn dập gửi đến cho ngài bao nhiêu thử thách và thánh giá. Nỗi buồn khi
nghe tin thân phụ qua đời chưa tan, một mối sầu man mác khác lại xâm chiếm lòng
thánh nữ khi hay tin cha linh hướng đã được Chúa cất về. Thánh nữ buồn, vì từ
đây không còn người dìu dắt linh hồn trong những lúc gặp sóng gió bão táp. Tuy
nhiên, ngài vẫn luôn trung thành với sứ mệnh: hoàn toàn phó thác trong tay
Chúa. Thế rồi, nay được tin con gái cả chết, mai được tin con trai mất; nhưng
thánh nữ lúc nào cũng chỉ thốt ra một lời: “Con xin vâng thánh ý Chúa”.
Gặp
nhiều đau khổ thì thánh nữ lại càng can đảm nhẫn nại, hăm hở sống những năm
cuối đời để củng cố tu viện, tổ chức việc coi sóc các nhà dòng mới lập và tô
điểm thêm cho bộ luật của dòng. Lúc này sự hiện diện của thánh nữ đã đem lại
nhiều yên ủi cho hết thảy mọi chị em trong dòng và gây được nhiều thiện cảm đối
với những người sống chung quanh. Quả như lời của một người thời ấy đã nói: “Từ
23 năm nay, tôi hằng cảm phục con người ấy, nơi ngài có một tâm hồn trong sáng,
đẹp hơn ánh pha lê”.
Sau
khi đã lập các chi nhánh khắp nước Pháp, thánh nữ xin thôi chức bề trên. Nhưng
không được bao lâu, chị em lại yêu cầu ngài lên điều khiển nhà dòng ở Moulins.
Và ở đây, ngài đã từ biệt cõi trần để về lĩnh phần thưởng Chúa hứa. Thi hài
ngài được đưa về Annecy ,
táng trong nhà nguyện của nhà dòng mẹ. Thánh nữ qua đi, nhưng những công lao
vất vả của ngài đã trổ sinh sự ngọt ngào của tình yêu Chúa trong đời sống chiêm
niệm mến yêu.
Đức
Giáo Hoàng Bênêđictô XIV đã phong chân phước cho Gioana Chantal ngày
21.11.1751, và Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII đã nâng mẹ bề trên sáng lập dòng
Thăm Viếng lên bậc hiển thánh năm 1767.
Thánh Antôn Nguyễn Đích, Trùm họ (1769 - 1838) - Ngày 12 Tháng 8
Gia trưởng một gia đình tử đạo.
An-tôn Nguyễn Đích. |
Thánh Antôn
Nguyễn Đích, một mẫu gương sáng ngời cho những người gia trưởng, đặc biệt trong
việc giáo dục hướng dẫn đức tin cho con cái. Không kể thánh Lý Mỹ, người con rể
chí hiếu, đã cùng tử đạo một ngày, gia đình ông đã cống hiến hai chứng nhân đức
tin khác (hai vị này không có trong số 117): ông Lý Thi, bị xử giảo năm 1858
thời vua Tự Đức (con thứ hai ông Trùm Đích), và ông phó Nhâm, người con thứ tư,
cương quyết không bước qua Thập Giá, bị đầy lên Cao Bằng và qua đời tại đó.
Thánh nhân đã giáo dục con cái không chỉ bằng lời nói. Mà bằng chính mẫu gương
chứng tá đức tin sống động của mình.
Lý lịch thân phụ tôi
Muốn biết lý lịch của
thánh Antôn Nguyễn Đích, không gì bằng nghe chính lời con cái ngài là cô Maria
Mến (Miều), góa phụ của thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, cung khai trước tòa điều tra
phong Chân Phước: "Bố tôi là Nguyễn Đích, quê ở Chi Long, huyện Nam Sang,
tỉnh Nam Định. Oâng bà nội tôi vốn có lòng đạo đức, thấy xa nhà thờ có linh mục
thì lấy làm tiếc, nên dọn đến làng Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị), rồi bố tôi lập gia đình
ở đó.
"Hồi đó bố tôi
tên là Khiêm, khi sinh con đầu lòng đặt tên là Hiếu, người ta gọi bố tôi là
Hiếu, đến khi sinh người con thứ hai đặt tên là Đích, bố tôi lại mang tên là
Đích và giữ tên đó mãi.
"Gia đình chúng
tôi làm nghề nông rất cần cù, nhưng không vì thế mà sao lãng việc đạo đức, trái
lại vẫn siêng năng xưng tội, rước lễ. Bố tôi luôn quan tâm đến đời sống đạo đức
của mười người con và của những gia nhân giúp việc. Mỗi ngày, ông chỉ định một
hay hai người coi nhà, còn những người khác đi lễ. Tôi thấy bố tôi làm tròn các
nghĩa vụ trong đạo. Ngài rất chăm sóc việc giáo dục con cái, mời thày đồ đến
nhà dạy chữ Nho cho con trai, từ chối gả con gái cho những thanh niên gia đình
giàu có mà không giữ đạo sốt sắng".
Bốn vị tử đạo đạo
trong một gia đình, thật là kết quả hết sức lớn lao của nền giáo dục đạo đức
đó.
Một lòng vì Giáo Hội
Đặc biệt quan tâm đến
tương lai của Giáo Hội, ông Trùm Đích rất yêu quý các giáo sĩ và chủng sinh,
quảng đại tiếp đón và giúp đỡ về vật chất. Thời gian chủng viện Kẻ Vĩnh bị nạn
dịch tả, nhiều chủng sinh ly trần, các bề trên quyết
định phân tán các chú.
Ông trùm Đích tình nguyện nhận một số, vừa nuôi dưỡng, vừa săn sóc chữa bệnh
cho đến khi hoàn toàn bình phục, không xá kể lao nhọc tốn phí.
Đức bác ái của ông còn
tỏ ra qua lòng thương người nghèo, và việc thường xuyên thăm viếng an ủi những
người mắc bệnh phong cùi. Chính thế giá và nhân đức của ông mà người ta gọi ông
là "Trùm", mặc dù ông không giữ nhiệm vụ ấy.
Gặp thời cấm đạo ngặt
nghèo, ông cho trú ẩn tại nhà và nuôi dưỡng trong hai năm một lớp chủng viện.
Đức cha Havard Du, Giám mục giáo phận, cũng đã trú ẩn tại nhà ông trong thời kỳ
cấm đạo triều vua Minh Mạng.
Vị gia trưởng đáng
kính
Quan Tổng đốc Trịnh
Quang Khanh dùng mọi phương thế, từ thuyết phục đến tra tấn, để bắt ông trùm
Đích bỏ đạo: "Ông đã cao niên, các con đã trưởng thành, các cháu chắt đông
đảo, có nhà cửa phong lưu, ông hãy quá khóa để vui hưởng tuổi già với đàn con
cháu có hơn không?". Ông Đích trả lời với giọng vững vàng: "Thưa
quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo liệu cho chúng. Tôi có bổn phận tôn thờ
Thiên Chúa, quan tha hoặc kết tội thì tùy, chứ đừng ép tôi bỏ đạo".
Quan truyền khiêng ông
qua Thánh Giá nhưng ông co hai chân lên, tức giận quan truyền đánh đòn ông. vì
phải mang gông xiềng, bị tra tấn lại thấy mình già nua yếu đuối, có lúc ông
tưởng không chịu nổi gian truân thử thách đến cùng, nhưng may mắn ông vẫn kiên
trung tới ngày tử đạo, nhờ ơn Chúa giúp, nhờ sự khuyên nhủ của cha Năm, nhờ lời
khích lệ của các bạn tù, nhất là nhờ tấm lòng hy sinh cao cả của con rể chí
hiếu, Micae Lý Mỹ. Oâng Lý mỹ sau khi lãnh phần mình xong, ba lần chịu đòn thay
cho nhạc phụ, ông trùm Đích được mang gông nhẹ hơn.
Ít phải chịu cực hình
thân thể, ông gia tăng công nghiệp bề trong bằng việc bác ái và đạo đức. Thực
phẩm, tiền bạc cho gia đình tiếp tế, ông chia sẻ cho các bạn tù ngoại giáo. Ông
chuyên chú đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ sốt sắng ngay trong nhà giam.
Thấy không thể khuyên
dụ ông trùm Đích bỏ đạo, quan làm sới tâu về kinh. Đây là nội dung sớ tâu luận
tội: "Tên Đích tin theo và thực hành tà đạo, dù đã bị cấm. Đã không nộp
đạo trưởng Mai Năm cho quan, alị còn chứa chấp, không nghe lời khuyên cáo dạy
bảo, nhất là không chịu quá khóa, thật là người cố chấp, bất tuân luật nước.
Chúng thần đã nhiều lần truyền buộc y quá khóa trước công đường, nhưng y trả
lời: 'Tôi giữ đạo từ nhỏ, tôi sẵn sáng thà chết chẳng thà bỏ đạo'. Vậy xin luận
xử trảm quyết làm gương cho kẻ khác".
Bản án được vua Minh
Mạng châu phê chấp thuận ngày 12.08.1838, ông trùm Antôn Nguyễn Đích cùng với
linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm và người con rể Micae Nguyễn Huy Mỹ bị điệu ra pháp
trường Bảy Mẫu, Nam Định. Sau khi hành quyết linh mục Mai Năm, lý hình chém đầu
ông trùm Nguyễn Đích, rồi mới xữ tử ông Lý Mỹ.
Thi hài ông Antôn
Nguyễn Đích, 69 tuổi thọ, được rước về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. dân làng
tổ chức lễ qui lăng rất trọng thể, rồi an táng trước nhà ông, nơi ông đã để lại
bao gương sáng của một chức sắc và một gia trưởng đáng kính.
Cùng với linh mục Mai
Năm và ông Lý Mỹ, ông trùm Antôn Nguyễn Đích, được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy
tôn Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn
các ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP
Thánh Giacôbê ĐỖ MAI NĂM, Linh mục (1781-1838) - Ngày 12 tháng 8
Lm.Gia-cô-bê Đỗ Mai Năm. |
Nghe tin quan Tuần phủ đến làng, cha Đỗ Mai Năm thắt lưng, xắn quần định trà trộn vào đám dân chúng đi làm cơm cho quan ăn. Nhưng chựa kịp ra khỏi nhà thì quân lính đến. Khi thấy ông cụ trắng trẻo, râu dài, họ chặn lại hỏi: “Ông là ai ?” Cha năm vui vẻ trả lời: “Tôi là người nhà này”. Ngay lúc ấy hai người tên Tỷ và Xuân được quan thuê đi dò thám nơi ở của các đạo trưởng, trước đã giả xin làm việc trong nhà ông Lý Mỹ, liền đến chỉ vào cha và kêu lên: “Đúng đạo trưởng ở nhà này đây”. Vẫn cũng giọng điềm tĩnh như mọi khi, cha Năm khẳng khái trả lời: “Phải chính tôi đây”.
Thế là cha bị bắt. Bị
bắt một cách bình thản như cuộc đời cha vốn bình thản. Hay có thể nói, cha bị
bắt một cách vui vẻ, tự nhiên như công việc vẫn xảy ra thường ngày trong đời
sống của cha vậy.
Bình dân và nhân ái
Giacôbê Đỗ Văn
Năm, tên trong sổ là Mai Ngũ, sinh năm 1781, tại làng Đông Biên, Huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Cậu Ngũ vào nhà Đức Chúa Trời từ nhỏ, sau đó học
tiếng Latinh ở chủng viện Vĩnh trị, khi thành thày giảng thì ở lại giúp chủng
viện luôn. Thày Năm hiền hòa, vui vẻ nên trẻ em rất mến và thích thày. Sau đó
ít năm, thày được đi học thêm thần học và thụ phong linh mục năm 32 tuổi. Cha
Năm đi giúp các xứ đạo đây đó, sau lại về giúp nhà trường Vĩnh Trị khoảng năm
1830.
Từ khi vua Minh Mạng
cấm đạo toàn quốc, chủng viện bị giải tán, cha Năm phải đi ẩn trốn ở nhà các
tín hữu. Cha ở nhà ông Trùm Tôn ba năm, họ Kẻ Nguồi, lần khác tại nhà ông Trùm
Đích làng Vĩnh Trị. Trong thời gian ẩn trú như thế, cha Năm đã sống rất hòa
mình vui vẻ với mọi người. Cha hay kể truyện cho trẻ em hoặc cùng với các chủng
sinh giúp nhổ cỏ ruộng cho chủ nhà, cha làm các việc nhỏ mọn chẳng phiền hà bao
giờ. Đặc biệt, cha yêu thương săn sóc những người nghèo. Tất cả những gì nhận
được, cha thường dành dụm cho họ.
Có người báo cáo làng
Vĩnh Trị chứa chấp đạo trưởng. Quan cho lính đến vây làng, bắt được cha Năm
cùng với ông Trùm Đích, và con rể ông là ông Lý Mỹ. Cha bị tống giam vào ngục
Nam Định.
Gan vàng dạ sắt
Trước mặt quan, khi
được khuyên nhủ bỏ đạo, cha Năm khẳng khái thưa: “Tôi là đạo trưởng làm sao dám
bỏ đạo hay đạp ảnh tượng tôi tôn kính được. Tôi vốn khuyên dạy người ta phải
giữ đạo vững vàng, thà chết không bỏ đạo thì tôi phải giữ lời tôi đã khuyên dạy
kẻ khác chứ. Nếu đạo trưởng mà không dám chịu chết vì đạo thì còn ai chịu chết
vì đạo nữa”.
Sau nhiều lần khuyên
dụ, biết không làm cha đổi ý được, các quan không tra khảo gì thêm nữa, để cho
cha được dễ dàng đi lại, gặp gỡ các bạn tù, nhờ đó cha an ủi, khuyến khích được
người trong tù, ban phát bí tích cho họ. Nhất là động viên ông Trùm Đích bị bắt
cùng với cha, ông đã luống tuổi và rất sợ hãi khổ hình, cha nói: “Nhờ ơn Chúa
giúp sức thì các khổ hình đau đớn thế nào, chúng ta cũng chịu được”. cha nhắc
đến gương thánh Laurensô bị nung trên giường sắt, mà vẫn vững tin đến cùng.
Án xử được châu phê.
Ngày 22.08 cha Giacôbê Năm cùng với ông Trùm Antôn Đích, ông Micae Lý Mỹ được
phúc tử đạo tại pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Cha Giacôbê Năm khi đó được 77
tuổi, thi hành tác vụ linh mục được 25 năm.
Như ngọn đèn luôn tỏa
sáng
Suốt cuộc đời, cha Năm
luôn sống hiền hòa, bình dị, thoải mái như cái tên Năm bình dị. Cuộc đời thày
giảng Năm đầy vui vẻ, và cuộc đời linh mục Năm hoàn toàn giản đơn. Sự đơn
giản thoải mái đó, không do hoàn cảnh may mắn dễ dàng, không do điều kiện bên
ngoài, nhưng do chính tâm hồn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa của cha. Cuộc
đời xuề xòa vui vẻ của cha đã tỏa trên những người xung quanh cha thứ ánh sáng
tuyệt vời của Đức Kitô, Đấng cao cả như thế, mà khi đến trần gian đã luôn sống
hiền hòa khiêm tốn, vui với trẻ thơ và vui sống với người cùng khổ.
Trong tình huống “dầu
sôi lửa bỏng” lúc đó, chắc chắn lễ mừng ngân khánh linh mục của cha nếu
có, cũng chỉ thật âm thầm lặng lẽ. Nhưng diễn phúc cha, vì Thiên Chúa đã đưa
người tôi tớ chung tín về nước Trời. Và khỏi phải nói, không
một ngân khánh của ai
trên trần gian có thể huy hoàng, long trọng để so sánh được với lễ ngân khánh
của cha trên Thiên Quốc.
Thi hài ba vị tử đạo
được đưa về an táng tại Vĩnh Trị, dân làng kéo chuông, đốt đuốc, đón rước cách
long trọng. Sau được đưa về nhà chung ở xứ Kẻ Sở.
Đức Thánh Cha Lêo XIII
suy tôn Chân Phước cho cha Giacôbê Đỗ Văn Năm ngày 27.05.1900. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP
Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, Lý trưởng (1804 - 1838) - Ngày 12 tháng 8
Micae Nguyễn Huy Mỹ. |
Người con chí hiếu
Gông đóng xiềng mang, dạ nguyệt kinh
Những say vì đạo hả vì
tình
Vai mang bốn điệp
(gông) tai thêm ấm
Xổng xểnh ba vòng
(xích sắt) cổ lại thanh
Phép nước đành lòng
không oán thán
Nghĩa thày để dạ vẫn
đinh ninh
Khiến sao nên vậy nào
lo nghĩ Phó
mặc Hoàng Thiên sự tử sinh.
Qua những vần thơ của
thánh Micae Mỹ trên đây: Gông xiềng, đòn đánh là những hình phạt dành cho phạm
nhân, làm thân thể con người phải đau đớn, suy giảm sức khỏe thể xác thì đối
với ngài, người tín hữu trung kiên “say về đạo” Chúa Kitô, gông xiềng đã trở
lên hành trang qúi báu vô cùng. Chính bản thân ông đã tự nguyện lãnh đòn thay
cho nhạc phụ tuổi già sức yếu (ông trùm Antôn Nguyễn Đích) để rồi trở lên người
đồng hành làm chứng cho Đức Kitô, cùng lãnh phần thưởng cành lá vạn tuế tử đạo,
và cũng được tôn phong lên bậc hiển thánh. Ông Micae Lý Mỹ quả thực là người
con chí hiếu, một môn đệ trung kiên, đã thực hiện trọn hảo lời Thày Chí Thánh:
“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mà theo” (Mt. 16,24).
Tốt đời đẹp đạo
Thân phụ cậu Mỹ nguyên
quán ở Đại Đăng, tỉnh Ninh Bình, đến lập nghiệp và kết hôn tại làng Kẻ Vĩnh, Nam
Định. Micae Nguyễn Huy Mỹ sinh năm 1804, mồ côi cha năm lên mười, rồi hai năm
sau mồ côi mẹ. Được người thân tận tâm nuôi dưỡng giáo dục, cậu tỏ ra rất thông
minh và đạo đức: thông thạo chữ Hán và nghề thuốc, siêng năng đọc kinh sáng
tối, tham dự và lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Cậu thường
tìm nơi thanh vắng yên tĩnh trong vườn để đọc kinh Mân Côi và cầu nguyện.
Năm 20 tuổi, anh Mỹ
kết duyên với cô Maria Mến (Miều), con gái ông trùm Antôn Nguyễn Đích. Cuộc
sống gia đình đầm ấm với tám người con đạo hạnh, khiến hết thảy dân làng đều
mến phục kính nể. Họ đồng thanh thỉnh ông làm chánh tổng, nhưng ông từ chối.
Sau cùng vì vâng lời Đức cha Havard Du, để trợ giúp chủng viện và giúp đỡ giáo
dân trong thời cấm đạo, ông nhận chức Lý Trưởng.
Dù đời sống gia đình
và xã hội nhiều phức tạp, ông luôn sống xứng đáng là một gia trưởng đạo đức
gương mẫu. Bà Lý Mỹ kể rằng: “Gia đình tôi sống trong hòa thuận yêu thương. Ông
Micae chuyên chăm đạo đức, dự lễ hằng ngày, nếu vợ con hay người giúp việc bận
rộn không đi lễ được, ông bắt phải đọc kinh chung và nghe sách thiêng liêng để
suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm, mỗi lần ông kỹ lưỡng xét mình hai
ngày trước. Mùa chay, ông giữ chay các ngày thứ tư và thứ sáu. Ông không uống
rượu, không đánh bạc hay to tiếng với ai bai giờ”.
Làm Lý trưởng, ông Mỹ
tỏ ra là người liêm khiết, không nhận tiền hay quà hối lộ. Khi phân xử, ông rất
công bằng chính trực, không thiên vị bên nào. Với những người vướng mắc tệ đoan
xã hội, ông khuyên răn, sửa trị nghiêm minh. Lo cho gia đình thế nào, ông Lý
cũng chăm sóc làng xã như vậy: Mỗi tối, ông thường đọc kinh chung với phu tuần
trước khi thi hành công tác. Ông khuyên nhủ người khô đạo, giúp đỡ người nghèo
khổ, tạo điều kiện cho họ năng nhận các bí tích, tu thân sửa lỗi, để họ trở
thành người giáo hữu tốt lành và người công dân lương thiện. Hàng tổng vẫn lấy
làng Kẻ Vĩnh ra làm gương cho các làng khác.
Phép nước đành lòng
không oán thán
Như các làng khác ở
Miền Bắc trong những năm cấm đạo (1833-1938), dưới triều vua Minh Mạng, vì quan
quân không ráo riết chấp hành, nên Kẻ Vĩnh được tạm yên trong mấy năm.
Nhưng năm 1837, Tuần
Phủ Hưng Yên bị cách chức, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh bị triệu về kinh quở
trách nặng lời, nhà vua chao cho Tổng đốc 40 Thánh Giá, truyền phải triệt để áp
dụng chiếu chỉ cấm đạo. Từ đó, quan Tổng đốc trở thành con người tàn bạo, người
ta gọi ông là “hùm xám tỉnh Nam ”.
Hai giáo phận Đàng Ngoài vào cuối triều Minh Mạng phải chịu những cơn bão táp
dữ dội. Quan quân từng đội, từng đoàn đi khắp nơi, bao vây từng làng, khám xét
từng nhà, chủng viện Kẻ Vĩnh hai lần giải tán chủng sinh sang các miền xung
quanh.
Một lần, quan quân bao
vây làng Kẻ Vĩnh đúng lúc Đức giám mục và một số linh mục đang trú ẩn tại đó.
Ông Lý Mỹ can đảm và khôn khéo, đánh lạc hướng, dẫn quan quân đi khám xét từng
nhà mà không bắt được vị nào. Ông thường nói với các giáo hữu: “Việc nhà vua
cấm đạo ví như thử thách Thiên Chúa gởi đến, ta phải kiên tâm trung thành với
đạo”. Khi nghe tin Tổng đốc bắt các lính Công Giáo phải quá khóa, ông Lý vì ở
xa, nên gởi thư khuyên bốn người thuộc làng Kẻ Vĩnh: “Xin anh em giữ vững
đức tin, mấy ngày nữa tôi sẽ đến với các anh em”.
Ngày 02.07.1838, quan
Tổng đốc chỉ huy cuộc bao vây làng Kẻ Vĩnh, ông Lý Mỹ thưa với nhạc phụ: “Cha
con ta đồng sinh tử với nhau, việc Chúa quan phòng đã đến rồi, xin cha đừng hãi
sợ chi”. Nói xong, ông ra đón quan Tổng đốc tại đình làng, quan truyền các giáo
hữu và linh mục phải ra trình diện, nếu không Lý trưởng phải làm tờ cam
đoan. Ông viết: Lý trưởng Nguyễn Huy Mỹ làm tờ cam đoan: làng chúng tôi không
có đạo trưởng, cùng các đồ quốc cấm, nếu khai man tôi xin nộp mạng cả gia đình
tôi”.
Tờ cam đoan chưa ráo
mực thì quân lính đã dẫn linh mục Giacôbê Mai Năm đến. Quan ngạc nhiên
hỏi phải xử thế nào ? Ông thưa: “Thưa quan lớn, quan thương thì chúng tôi xin
tạ ơn, bằng không tôi xin nộp đầu chịu tội”. Bấy giờ quan truyền đánh ông Lý 40
roi, rồi đóng gông giải ra tỉnh cùng với linh mục Mai Năm và ông trùm
Nguyễn Đích.
Gông đóng, xiềng mang,
dạ nguyện kinh
Trên đường ra tỉnh Nam
Định, một kỳ mục trong làng bàn luận với ông Lý xin nộp tiền chuộc để ông được
về, ông Lý từ chối: “Xin cám ơn lòng tốt của dân làng, nên để tiền đó giúp vợ
con tôi và mở tiệc mừng khi đưa thi hài tôi về”. Trong ba người bị bắt, vì biết
không thể dùng áp lực lay chuyển đức tin của cha Mai Năm, nên quan không thúc
ép nhiều. Với ông trùm Đích đã 70 tuổi già sức yếu thì quan cũng nương tay.
Riêng ông Lý Mỹ, đang tuổi cường tráng, lại nói năng lưu loát, nên quan dùng đủ
các phương thế dụ ông chối đạo:
- Anh còn trẻ trung,
thông minh sắc sảo, dân chúng đều quý sao anh lại dại khờ không bước qua Thập
Tự ?
Ông Lý đáp:
- Trước khi tôi
sinh ra, đã có dân chúng. Vậy khi đó, ai lãnh đạo ? Nên tôi không vì thế mà làm
theo lời quan được.
- Anh không thương
người vợ hiền với đàn con sao ?
- Thiên Chúa chao phó
người vợ và con cái cho tôi săn sóc khi tôi có thể, nên tôi không thể chối bỏ.
Giá như có ai nói quan lớn đạp đầu Đức Vua đã ban chức trọng cho quan, ắt hẳn
quan chẳng dám làm, thì tôi đây lẽ nào giám cả gan đạp ảnh Chúa tôi thờ kính.
Quan Tổng đốc nổi giận
truyền đánh đòn ông Lý nhiều lần, tính tổng cộng trong suốt thời gian bị giam
giữ, ông Lý phải chịu đến 500 roi, kể cả ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ.
Nhìn ông trùm Đích tuổi già, sức yếu, ông Lý ngày đên lo lắng, thiết tha cầu
khẩn Thiên Chúa trợ giúp ban ơn cho nhạc phụ vững tin cho đến giờ phút cuối
cùng. Ông Lý thường khuyến khích nhạc phụ: “Cha đã tuổi cao sức yếu, chẳng sống
được bao lâu nữa, nếu không chết vì đạo thì cũng chết vì bệnh, nhưng nếu tử
đạo, sẽ làm vinh danh Thiên Chúa và được hạnh phúc Thiên Đàng. Cha đừng luyến
tiếc sống thêm ít ngày, con đây còn khỏe mạnh, đời còn dài, vợ trẻ với đàn con
thơ dại thật đáng yêu đáng quý, nhưng con tin Thiên Chúa sẽ lo liệu thật tốt
đẹp cho chúng. Hơn nữa khi cha con ta được lên Thiên Đàng, sẽ cầu bầu trước
nhan Thiên Chúa thì có ích hơn cho cả gia đình dòng tộc. Cha đừng lo về những
hình khổ phải chịu, con sẽ chịu đòn thay cho cha hết thảy. Cha hãy can đảm làm
chứng và sẵn lòng chết vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết vì
chúng ta.”
Quả thực, mỗi lần quan
truyền đánh đòn ông trùm Đích thì ông Lý Mỹ đứng lên thưa: “Cha tôi đã già nua
tuổi tác, xin quan lớn tha cho, tôi xin chịu đòn thay”. Quan lớn thấy ông có
lòng hiếu kính, nên chấp thuận đề nghị ấy. Ông Lý chịu đòn gấp hai lần nê y
phục rách nát, thân mình đầm đìa những máu, tứ chi bầm tím khắp nơi. Ông còn
phải mang gông xiềng nặng hơn, bị cùm xiết chặt hơn, khiến càng thêm đau
đớn khủng khiếp, nhưng vị chứng nhân Chúa Kitô luôn tỏ ra hân hoan vui mừng,
không một lời oán thán:
Vai mang bốn điệp, tai
thêm ấm, xổng xểnh ba vòng, cổ lại thanh.
Cuộc giã từ rơi lệ
Người con gái ông Lý,
cô Mỹ tuy mới 12 tuổi, cũng lén mẹ ra tỉnh tìm cách qua ba lần cửa có lính gác,
vào thưa với cha: “Xin cha cam đảm chịu chết vì Chúa”. Cậu Tường mới 9 tuổi,
con trai ông Lý Mỹ, không đi xa được, cậu cũng cố gắng nài nỉ dân làng đi thăm
chuyển lời đến ông: “Cha đừng lo cho chúng con, cha hãy an tâm vững lòng xưng
đạo và chịu chết vì đạo”. Bà Lý bồng con mới sinh được mấy thàng ra thăm chồng,
trao con cho chồng ẵm một lúc, bà thấy những cực hình chồng phải chịu, bà không
cầm được nước mắt, bà nói trong nghẹn ngào: “Vợ con ai mà chẳng thương chẳng
tiếc, nhưng ông hãy hy sinh vác Thánh Giá rất nặng vì Chúa, hãy trung thành với
Chúa cho đến cùng, đừng lo nghĩ về mẹ con tôi. Thiên Chúa sẽ quan phòng tất cả.
Đến thăm ông lần này có lẽ là lần sau hết, cầu xin Chúa cho ông vâng theo thánh
ý Chúa”.
Ông Lý Mỹ lòng đau như
cắt. Ông biết rằng sự ra đi của ông sẽ là nỗi thương đau vô cùng cho vợ con,
nhưng vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, ông bình tĩnh an
ủi vợ: “Lời bà khuyên nhủ đốt thêm lửa kính mến Chúa trong lòng tôi, bà đem con
về săn sóc chúng thay tôi, sớm tối cầu nguyện ngày sau gặp bà và các con chung
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi quê thật là nước Thiên Đàng”.
Nhờ lời khích lệ của
vợ con, ông Lý như được tăng thêm sức mạnh, nên càng vững lòng tin hơn, sẵn
sàng hy sinh tính mạng vì đạo Chúa. Có lần một vài phu tuần làng Kẻ Vĩnh vì mộ
mến ông, khuyên ông qúa khóa để trở về coi sóc dân làng như trước, ông liền
mắng họ: “Ai bảo các anh đến thăm tôi và nói những lời sai trái như vậy, bây
giờ tôi về thì các anh sẽ khóc, nhưng khi đưa thi hài tôi về làng thì các anh
sẽ ăn mừng”.
Say vì đạo, hả vì tình
Suốt một tháng trời,
quan vừa hành hạ vừa khuyên dụ ông Lý Mỹ bước qua Thánh Giá không thành công,
dù phải những trận đòn tan xương nát thịt, dù gông cùm, xiềng xích nặng nề đau
buốt thịt xương, vị chứng nhân Chúa Kitô vẫn một lòng kiên trung với đức tin.
Quan làm án tâu về kinh: “Nguyễn Huy Mỹ, làm Lý trưởng làng Kẻ Vĩnh, can tôi
theo đạo Gia Tô triều đình nghiêm cấm, cùng với Nguyễn Đích là nhạc phụ, chứa
chấp đạp trưởng Mai Năm trong nhà. Đã khuyên dụ nhiều lần chối đạo nhưng chúng
không chịu quá khóa, nên luận phải xử trảm ba người đó để làm gương cho dân
chúng”.
Ngày 12,08.1838, được
tin vua Minh Mạng đã châu phê y như án nghị, cả ba tông đồ Chúa vui mừng hớn hở
chuẩn bị tâm hồn lãnh bí tích giải tội và rước Mình Thánh Chúa cách sốt sáng.
Các ông hân hoan bước đến nơi xử, vừa đi vừa hát kinh tạ ơn Chúa. Dọc đường ông
Cả Tú (là anh em thúc bá với ông Lý Mỹ) khích lệ: Anh Lý ! Hãy vững tâm nhé”.
Ông Lý Mỹ đáp lại: “Anh cả yên chí, đừng lo, tôi không sợ đâu”.
Đến pháp trường Bảy
Mẫu, ba vị chứng nhân quỳ xuống cầu nguyện một lúc. Ông Lý Mỹ xin xử cha
Giacôbê Mai Năm và ông Antôn Nguyễn Đích trước, quan chấp thuận. Ông Lý Mỹ bị
chém sau cùng.
Thi hài của ba vị tử
đạo được rước về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. dân chúng vui mừng đốt đèn
đuốc đón rước cách trọng thể, đúng như lời tiên báo của ông Lý Mỹ.
Ông Micae Lý Mỹ lãnh
phúc tử đạo, chiến thắng tất cả những thử thách cực hình nhờ tình yêu tuyệt đối
vào Chúa Giêsu Kitô và với tinh thần đạo đức say mê giáo lý tin mừng của Ngài.
Tình yêu và tinh thần được vun trồng ngay từ thời niên thiếu phát triển theo
thời gian đến tuổi trưởng thành, và cho đến giờ phút quyết liệt nhất của cuộc
đời, bằng một tình yêu tuyệt đỉnh, ông Lý Mỹ xứng đánh lãnh nhận phần thưởng
trọng hậu Thiên Chúa trao ban: Khải hoàn Thiên Quốc với cành lá tử đạo.
Ông Micae Lý Mỹ thực
là con người chí hiếu của người cha dưới thế cũng như Cha trên trời.
Đức Giáo Hoàng Lêo
XIII suy tôn lên hàng Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan
Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét