Sư phạm giáo lý trong bối cảnh hiện nay
Thân
tặng các giảng viên giáo lý Sydney
Cùng với sự ra đời của Sách Giáo Lý chính thức của Giáo Hội Công Giáo vào năm 1992, nhiều sách chỉ dẫn giáo lý cũng như sách sư phạm giáo lý đã được phát hành, giúp ích rất nhiều cho các giảng viên giáo lý ngày nay biết cách trình bày giáo lý cho mọi loại đối tượng một cách hợp thời và đúng với ý hướng của Giáo Hội.
Tuy nhiên, kinh nghiệm giảng dạy giáo lý thì cực kỳ đa dạng và phong phú, và do đó, không thể bỏ qua. Tập san Công Giáo The America của các cha Dòng Tên Mỹ gần đây có đăng tải một loạt bài liên quan tới các kinh nghiệm giảng dạy giáo lý hiện nay. Chúng tôi xin phép được lược dịch các bài này.
Cùng với sự ra đời của Sách Giáo Lý chính thức của Giáo Hội Công Giáo vào năm 1992, nhiều sách chỉ dẫn giáo lý cũng như sách sư phạm giáo lý đã được phát hành, giúp ích rất nhiều cho các giảng viên giáo lý ngày nay biết cách trình bày giáo lý cho mọi loại đối tượng một cách hợp thời và đúng với ý hướng của Giáo Hội.
Tuy nhiên, kinh nghiệm giảng dạy giáo lý thì cực kỳ đa dạng và phong phú, và do đó, không thể bỏ qua. Tập san Công Giáo The America của các cha Dòng Tên Mỹ gần đây có đăng tải một loạt bài liên quan tới các kinh nghiệm giảng dạy giáo lý hiện nay. Chúng tôi xin phép được lược dịch các bài này.
I. Thánh Augustinô và Stephen Colbert
Các nhà giáo dục Công Giáo nên học ở Stephen Colbert cách làm thế nào vươn tới người khác. Từ năm 2005, nghĩa là từ lúc bắt đầu chương trình tin hài (satirical news) về đêm của mình, tức “The Colbert Show”, Colbert đã hết sức nổi tiếng. Hàng đêm, chương trình của anh khởi đầu với những tràng pháo tay ròn rã và những tiếng hoan hô vang dội của một cử toạ ngồi chật ních phòng thu hình. Chương trình của anh đã nhận được rất nhiều giải thưởng, trong đó có hai giải Emmy, với nhiều lần khác được đề cử. Nhất là anh có danh dự trở thành người tạo ra tiếng mới cho năm 2006 của Từ Điển Merriam-Webster: đó là chữ “sự tin thật” (truthiness).
Tuy nhiên, ảnh hưởng của Colbert không chỉ là việc tạo ra một ngữ vựng mới cho nền văn hóa Mỹ. Trong một bài đăng trên tờ New York Times năm 2012, Charles McGrath nhận định rằng cá tính bảo thủ, hay nói của Colbert đang bắt đầu vượt quá biên giới phòng thu hình của anh để bước vào thế giới thực. Các người ái mộ chương trình của anh không mở xem anh để cười, không tắt máy truyền hình vào cuối chương trình rồi quên khuấy nó đi. Họ lao vào hành động dựa trên điều họ nghe, và do đó, nền văn hóa của Mỹ thay đổi theo.
Nhận định về hiện tượng này, Patrick R. Manning, trên tập san America số ngày 3 tháng Hai, 2014, cho rằng: là chi thể Giáo Hội có trách nhiệm vào đời để tân phúc âm hóa, các nhà giảng dạy đức tin Công Giáo nên bắt chước cách Colbert làm say mê cử tọa của anh ta. Ta phải làm gì để truyền bá Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô một cách hữu hiệu như Colbert truyền bá tin mừng của anh ta? Thay vì rình mò các lớp giáo lý Chúa Nhật nơi Colbert vốn phục vụ trong tư cách giảng viên giáo lý Công Giáo, Manning đề nghị ta nên tham dự những buổi truyền hình của anh, nơi “thiên tài” của anh xuất đầu lộ diện một cách trọn vẹn hơn cả.
Sự nổi tiếng như cồn của Stephen Colbert đã được thăng tiến nhờ cá tính lôi cuốn của anh, nhờ được huấn luyện về hài kịch và nhờ nhóm văn sĩ có tài. Những lợi điểm này không phải giảng viên giáo lý nào cũng có được. Tuy nhiên, có một điều căn bản và dễ lặp lại hơn nằm phía sau sự thành công của Colbert. Thực vậy, anh đã nhập thân được một công thức giảng dạy giáo lý hết sức hữu hiệu từng được Thánh Augustinô khởi xướng ở thế kỷ thứ tư và thứ năm, đó là: mua vui, giảng giải và thuyết phục.
Người mua vui
Đầu tiên, trong cuốn “Về Tín Lý Kitô Giáo”, Thánh Augustinô nói với các giảng viên giáo lý rằng họ phải làm cho cử tọa mình vui thích: “người nghe phải được vui thích, để họ bị lôi cuốn và lắng nghe”. Vị giáo phụ này biết rõ: dù mình nói sự thật nhưng nếu cử tọa của mình không thích thú đủ để lắng nghe thì có ích gì. Một cuộc trình bày nhàm chán chỉ làm cử tọa không sẵn sàng tiếp thu và khó lòng quay trở lại, trong khi một cuộc trình bày thích thú sẽ làm cử tọa muốn lắng nghe và thậm chí trở lại để nghe tiếp. Tóm lại, văn phong quả có tạo khác biệt.
Thánh Augustinô thực hành điều ngài vừa giảng dạy. Là một diễn giả được huấn luyện theo lối cổ điển, tài ăn nói của ngài được người ta biết: đã khiến cử tọa rơi lệ hay vỗ tay vang trời hoặc cả hai. Người thời nay ít nhất cũng thèm khát được mua vui như người thời Thánh Augustinô. Nhưng với thời gian, người ta đã thay đổi nhiều trong cung cách mua vui. Con người thời nay không còn kéo nhau tới các công trường để nghe các diễn giả vĩ đại nữa, hàng triệu người, thay vào đó, đã mở xem “Chương Trình Colbert” hàng đêm, và dễ hiễu lý do tại sao. Stephen Colbert làm người ta vui thích hoàn toàn.
Với tài dí dỏm và đúng thời đúng lúc, anh diễu cượt các thiếu sót và lầm lỡ của các chính khách, tán dương các đức hạnh của mình và say sưa với những suy đồi của chủ nghĩa duy tiêu thụ và các mốt nhất thời của nền văn hóa bình dân, tất cả với một giọng đùa cợt, những cái nháy mắt khiến khán thính giả cười như điên dại. Nếu những trận cười như pháo nổ không đủ giữ sự chú ý của khán thính giả, Colbert thay đổi cách trình bày bằng một kho bất tận những đoạn lặp lại (recurring segments). Trong số những đoạn này có “ThreatDown” trong đó, anh nhận diện các đe dọa mới nhất đối với công chúng Hoa Kỳ (thường bao gồm gấu và người máy) và “The Word” trong đó, các thảo luận của anh về thời sự được ngắt quãng bằng việc thỉnh thoảng xuất hiện một vài trò chơi chữ riêng trên màn ảnh.
Như trong “The Word” chẳng hạn, có lần đang tường thuật việc một bệnh viện ở Iowa trục xuất hai công nhân di dân đang hôn mê mà không hề có lệnh của chính phủ. Đang theo mẫu tin của địa phương, Colbert bỗng nhiên chua cay nói thêm: “trục xuất thì có hơi quá. Bệnh viện chỉ di chuyển họ tới phòng chúng-tôi-cực-lực-không-lưu-ý chăm sóc” (the intensive we-don’t-care unit, nhại chữ intensive care unit(I.C.U) = phòng điều trị tăng cường). Trong khi ấy hàng chữ “I.Don’t C.U” xuất hiện trên màn ảnh phía sau vai của người điều khiển chương trình.
Colbert tỏ ra đã tìm được những điểm “hảo ngọt” của khán thính giả thời nay qua tài pha trộn hài hước với loạt đạn hỗ trợ của các đoạn truyền thông “cải biến”. Manning cho rằng, rất may ta có thể dùng lối pha trộn tài tình ấy để phục vụ việc phúc âm hóa. Các giảng viên giáo lý nên lợi dụng bất cứ cơ may nào do nền văn hóa đại chúng hiện nay cung cấp để lôi cuốn con người thời nay bước vào đức tin Công Giáo.
Giảng giải là điều quan trọng
Thánh Augustinô nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc huấn giáo cử tọa. Dù văn phong lôi cuốn rất hữu ích trong việc thu hút và duy trì sự chú ý của cử tọa, nhưng mục tiêu hàng đầu của một thầy dạy trong Kitô Giáo không phải là giải khuây mà là truyền đạt chân lý cứu rỗi của Thiên Chúa. Phương pháp giảng dạy tốt nhất không nhất thiết là phương pháp mua vui hơn hết nhưng đúng hơn là phương pháp “nhờ đó, người nghe lắng nghe chân lý và hiểu điều họ lắng nghe”. Về phương diện này, Colbert cũng tự chứng tỏ là một bậc thầy.
Thực vậy, việc tường trình trong chương trình có tính hết sức thông tri. Trong một chương trình, trước ngày bầu cử tổng thống năm 2012, Colbert chào đón Trevor Potter, nguyên chủ tịch Ủy Ban Bầu Cử Liên Bang, tham gia chương trình. Nói qua diễn trình thiết lập công ty vỏ (shell corporation) của chính Colbert theo điều 501 (c) (4), hai người “vô tình” tiết lộ sự kiện này là các công ty có thể tặng các ngân khoản vô giới hạn cho các công ty 501(c)(4), các ngân khoản này sau đó có thể được chuyển cho các ủy ban hành động chính trị nhằm ủng hộ các ứng cử viên chính trị mà không cần tiết lộ người tặng nguyên thủy kia. Colbert hỏi “Có gì khác nhau giữa việc đó với việc rửa tiền?”, Potter trả lời: “khó mà nói được”.
Chúa Giêsu ít khi dạy những điều tầm phào. Người dạy “lời ban sự sống đời đời” (Ga 6:68) nhằm biến đổi môn đệ và dẫn đưa ta tới sự cứu rỗi. Dấu chỉ quan trọng nhất cho thấy tính hữu hiệu của khoa giáo lý Công Giáo hẳn là mức độ các người học của ta không những biết chân lý mạc khải của Thiên Chúa mà còn “thực hiện chân lý trong yêu thương”. Khó có thể trông mong người học ta biết sống thực đức tin của họ nếu họ không biết và không hiểu nội dung đức tin này. Bất cứ giáo lý viên nào sao lãng chân lý mạc khải của Thiên Chúa trong các bài học họ trình bày là đang xây nhà trên cát.
Nghệ thuật thuyết phục
Sau cùng, Thánh Augustinô nhấn mạnh nhu cầu phải thuyết phục cử tọa của mình. Kiến thức dù chủ yếu tới đâu, giáo huấn cũng sẽ thiếu sót nếu sở học của người học không ảnh hưởng gì tới cuộc sống của họ. Điều này hết sức đúng trong trường hợp giáo huấn Công Giáo, vì mục tiêu dứt khoát của giáo huấn này là mối liên hệ sống động với Chúa Kitô. Phát triển mối liên hệ này đòi người học phải nội tâm hóa sự thật họ đã học được và đưa ra quyết định bản thân đối với Chúa Kitô. Vì, như chính Thánh Augustinô từng nhận định, người nào vẫn còn cần được lôi kéo bởi những ngôn từ thú vị mới chịu thi hành các việc đúng là người vẫn chưa nắm trọn được ý nghĩa sự thật của Chúa Kitô.
Điều gây ấn tượng hơn cả và thậm chí còn có chút kỳ lạ nơi Colbert là khả năng của anh trong việc thường xuyên thuyết phục được cử tọa hành động. Bất chấp sự kiện chương trình của Colbert là một chương trình hài kịch, điều hiển nhiên là trong các trao đổi như cuộc trao đổi với Potter trên chương trình, và ngay cả trong chứng từ của anh về quyền lợi của công nhân di dân trước tiểu ban Pháp Chế Hạ Nghị Viện năm 2008, người đứng đầu chương trình giả tin (fake-news) này muốn cử tọa của anh ra tay hành động trong thế giới thực dựa vào các thông tri do anh trình bày. Khi Colbert muốn cử tọa của anh làm một điều gì đó, anh không tự bằng lòng với việc chỉ đưa ra một gợi ý mơ hồ, vô thưởng vô phạt. Anh bảo họ một cách minh nhiên phải làm điều gì… và họ đã làm điều đó.
Năm 2006, chẳng hạn, Colbert tỉ mỉ cho độc giả thấy trên diễn đàn trực tuyến của anh hay: nhờ Wikipedia, nếu có đủ người đồng ý với nhau về một điều gì đó, thì điều ấy trở thành sự thật. Để chứng minh điều này, anh giục khán giả sửa lại bài viết trên Wikipedia về voi như thế này: “dân số voi ở Châu Phi đã gia tăng gấp ba trong vòng sáu tháng qua”. Khán giả đáp ứng ngay lập tức và một cách ồ ạt đến nỗi Wikipedia phải giới hạn việc sửa lại bài viết đó để ngăn ngừa những thay đổi khác nữa.
Giáo lý Công Giáo từ trước tới nay khá kém hữu hiệu về phương diện này, đến nỗi Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, đã than thở về việc “tách biệt đức tin mà nhiều người tuyên xưng khỏi đời sống của họ”, coi việc này như một trong các vấn đề trầm trọng nhất của thời ta. Sẽ không đủ nếu chỉ dạy học sinh những điều Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người truyền dạy hoặc ngay cả việc giáo huấn này có liên hệ ra sao với cuộc sống của chúng. Các giáo lý viên còn cần phải thuyết phục để họ tin rằng Chúa Giêsu đáng được yêu mến và con đường sống mà Người kêu gọi ta bước vào thực đáng để sống. Và không một luận chứng nào thuyết phục hơn là chính chứng tá đức tin sống động của người dạy. Nhờ đưa ra được một mô thức làm môn đệ như thế và đem các vấn đề và quan tâm hiện sinh của học sinh vào cuộc đối thoại với giáo huấn Giáo Hội, các giáo lý viên sẽ cung cấp cho các em một họa đồ đường đi mà họ rất cần để diễn dịch sở học của họ thành cuộc sống hàng ngày.
Như thế, làm thế nào Colbert đã hữu hiệu nắm được cử tọa? Làm thế nào các giáo lý viên cũng làm được như anh? Tắt một lời, nhờ kêu mời được trọn bộ con người. Khi Chúa Giêsu mời gọi ta bước chân theo Người, Người thúc giục ta làm thế với không gì khác ngoài chính trọn bản thân ta. Người bảo ta “Các con phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa các con trọn cả tâm hồn, trọn cả linh hồn, trọn cả trí khôn và trọn sức các con” (Mc 12:30; xem Lc 10:27). Nếu ta muốn các học sinh của ta tìm kiếm Chúa Kitô bằng trọn con người của chúng, ta phải kêu mời họ dấn thân trong sự viên mãn của chính hữu thể họ, với đủ tâm, trí và ý chí.
Thánh Augustinô từ xưa đã đưa ra một công thức để làm được việc đó: làm vui tâm hồn, giáo huấn trí khôn, thuyết phục ý chí. Stephen Colbert đã chứng minh được rằng công thức ấy vẫn còn hữu hiệu thời nay. Nếu các giáo lý viên Công Giáo áp dụng được các bài học thành công của Colbert vào công trình phúc âm hóa của mình, họ sẽ biến các học sinh của họ thành không phải chỉ là những người như Colbert mà là thành dân Thiên Chúa.
II. Kinh nghiệm dạy "Sự Sống Con Người"
Cha James F. Keenan thì trình bày phương thức dạy sinh viên về thông điệp Sự Sống Con Người, ban hành năm 1968. Cha cho hay: cha dạy chủ đề này sau khi nghiên cứu với sinh viên 5 bản văn giá trị khác: 2 trình thuật sáng thế trong Sách Sáng Thế, các giáo huấn về hôn nhân và tính dục của Thánh Phaolô và sau đó của Thánh Augustinô, và cuối cùng là thông điệp “Casti Connubii” (1930).
Cha dạy sinh viên đọc và hiểu “Sự Sống Con Người” như một văn kiện thực sự có thế giá, bằng cách dẫn dắt họ qua từng đoạn từng số của nó.
Trước nhất, cha giải thích cho họ ai viết ra nó và viết nó cho ai. Cha giúp họ thấy thông điệp này được viết cho các giám mục, cho hàng giáo sĩ, giáo dân Công Giáo và mọi người thiện chí. Cha giúp họ hiểu các bình diện phẩm trật khác nhau của độc giả. Cha cũng giải thích cho họ rằng độc giả hoàn vũ phản ảnh niềm xác tín của Đức Giáo Hoàng và của cả truyền thống Công Giáo rằng các giáo huấn dựa vào luật tự nhiên này không phải chỉ dành cho người Công Giáo mà thôi mà dành cho mọi người, vì các giáo huấn này phát xuất từ lý trí đúng đắn.
Rồi Cha giúp họ thấy chính Đức Phaolô VI viết ra nó và trong tư cách một thông điệp, nó nói lên giáo huấn có thế giá của một vị giáo hoàng. Không đi sâu vào việc một thông điệp chuyên biệt có thế giá ra sao, cha chỉ nhấn mạnh rằng trong thời hiện đại, thông điệp là cách thế chính để giảng dạy một cách có thế giá nhằm áp đặt một số đòi hỏi khách quan lên lương tâm mọi người.
Sau đó, Cha cố gắng giải thích rằng “Sự Sống Con Người” là một văn kiện nhằm đáp ứng các dấu chỉ thời đại; nó được viết ra để trả lời một số vấn nạn từng được nêu ra, tiếp theo sau việc sáng chế ra và rao bán trên thị trường thuốc viên ngừa thai. Giống nhiều sáng chế khác, thuốc viên ngừa thai đem lại cho nhân loại cơ hội để họ thống trị và tổ chức hợp lý các sức mạnh của thiên nhiên đến nỗi hiện nay ta có thể “mở rộng việc kiểm soát này ra mọi khía cạnh “ của cuộc sống ta (số 2). Theo một nghĩa nào đó, văn kiện này đặc biệt suy tư về vấn đề kiểm soát sinh đẻ, nhưng theo nghĩa bao quát hơn, Đức Giáo Hoàng muốn đặt ra một câu hỏi căn bản là liệu có phải sáng chế nào cũng tự nó có giá trị hay không.
Khi giảng dạy thông điệp này, Cha James Keenan thường thấy rằng các sinh viên ngày nay không biết đánh giá mối ưu tư chuyên biệt của nó. Họ có khuynh hướng cho rằng nó chỉ đề cập tới thuốc viên ngừa thai mà thôi. Cha phải cho họ hay: thông điệp muốn nói tới các cặp vợ chồng đang thắc mắc về việc sử dụng phương tiện ngừa thai vì mục đích làm cha mẹ có trách nhiệm.
Sau đó, Cha nhắc để họ nhớ rằng giáo huấn của Giáo Hội luôn đề cao hôn nhân như là bối cảnh hợp pháp cho sinh hoạt tính dục giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Nghĩa là Cha nhắc lại cho họ thấy giáo huấn của Giáo Hội về tính đúng đắn của sự khiết tịnh (chastity) và tính sai lầm của việc làm tình bên ngoài hôn nhân. Rồi Cha đi thêm bằng cách nói cho họ hay Giáo Hội không xét xem liệu việc kiểm soát sinh đẻ có hợp pháp trong bất cứ bối cảnh nào không, mà là xét xem liệu các cặp vợ chồng mà thôi có được sử dụng nó hay không. Cha nhắc để họ nhớ: không ai hỏi câu hỏi tổng quát cả (“có ai được sử dụng kiểm soát sinh đẻ không?”) đơn giản chỉ vì ngừa thai vốn được họ coi là hợp pháp về phương diện luân lý trong bối cảnh hôn nhân, nơi mà sự thân mật tính dục là điều được phép. Điều này giúp họ hiểu khá nhiều các điều nói về “tình yêu vợ chồng” trong thông điệp.
Cha James Keenan, sau đó, giới thiệu với họ một luận chứng, đó là nguyên tắc toàn bộ (principle of totality) là nguyên tắc thường được nhắc tới trong thập niên 1960. Nguyên tắc này phát sinh từ một cái nhìn siêu hình học là: toàn bộ lớn hơn tổng số các thành phần của nó, và vì thế, nếu cặp vợ chồng cam kết có con, thì họ không cần phải loại bỏ mỗi một và mọi hành vi sẵn sàng dẫn tới việc sinh sản. Nói cách khác, nguyên tắc toàn bộ khiến cặp vợ chồng tin rằng “cứu cánh sinh sản áp dụng vào toàn bộ cuộc sống vợ chồng chứ không hẳn chỉ vào từng hành vi riêng rẽ một” (số 3). Theo luận chứng này, hôn nhân Kitô Giáo có thể chấp nhận ngừa thai trong một số hoàn cảnh, nhưng không trong chính hôn nhân như một thực tại toàn bộ. Nhưng Cha báo trước cho họ hay: trong thông điệp, Đức Phaolô VI sẽ bác bỏ việc sử dụng nguyên tắc này.
Cha bảo họ: Giáo Hội có năng quyền giảng dạy luật tự nhiên và muốn được cứu rỗi, ta phải tuân theo luật tự nhiên này (số 4). Cha cũng cho họ hay: Ủy Ban do Đức GH Gioan XXIII thiết lập để nghiên cứu các qui luật sinh đẻ đúng đắn đã được Đức Phaolô VI tái xác nhận và mở rộng (số 5). Cha cho rằng đời Cha chịu ảnh hưởng bởi hai thành viên thuộc Ủy Ban này. Đó là Cha John Ford, Dòng Tên, người mà Cha sẽ kế nhiệm chức giáo sư tại Trường Thần Học Weston của Dòng Tên, và Cha Josef Fuchs, cũng thuộc Dòng Tên, người bảo trợ luận văn của Cha. Hai Cha này đóng hai vai trò rất khác nhau tại Ủy Ban.
Thực vậy, phúc trình gọi là đa số của Ủy Ban chịu ảnh hưởng của Cha Fuchs. Phúc trình này gợi ý rằng các cặp vợ chồng có thể điều hoà việc sinh sản con cái qua phương pháp ngừa thai. Còn phúc trình gọi là thiểu số thì chịu ảnh hưởng của Cha Ford. Phúc trình này kết luận ngược với phúc trình đa số. Vì sự bất đồng này, Đức Phaolô VI thấy cần phải đích thân xem xét vấn đề, nhất là dưới ánh sáng “học lý luân lý về hôn nhân luôn được huấn quyền của Giáo Hội giảng dạy” (số 6).
Sau khi đã nói qua về bối cảnh như trên, Cha Keenan mới đi sâu vào các nguyên tắc học lý của thông điệp. Cha đề cập ngay tới một khai triển mới của thông điệp: thông điệp không nói tới sự thân mật tính dục như là một quyền lợi hay một bổn phận, không phải như một điều được phép hay được nhân nhượng, như các thần học gia và các vị giám mục trước đây quen nói. Văn kiện cũng không nói tới sinh sản như là mục đích đệ nhất đẳng của hôn nhân, như thông điệp Casti Connubii vốn nói. Đúng hơn, nó đề cập ngay tới “tình yêu vợ chồng”, một tình yêu vốn dẫn khởi bản chất và sự cao quí từ Thiên Chúa, Đấng vốn là tình yêu (số 8, nhắc lại tại số 11). Cha cho sinh viên nghiên cứu cách thông điệp mô tả tình yêu này: nó là tình bạn, nó trung thành, độc chiếm và giầu hoa trái (số 9). Sau đó, cha giúp họ tìm hiểu vấn đề điều hòa sinh sản một cách có trách nhiệm. Ở đây, họ phải chú ý tới trật tự luân lý khách quan, một quan niệm họ phải nhìn nhận và tôn trọng cách hợp lý (số 10).
Sau đó, họ chuyển qua nghiên cứu số 11. Ở đây, Cha Keenan làm sáng tỏ việc luật tự nhiên nhìn nhận “mối liên hệ nội tại” giữa sinh hoạt tính dục và việc sinh sản. Dù thông điệp nhìn nhận rằng bất cứ tình trạng không sinh nở tự nhiên nào cũng không xâm hại tới tính hợp pháp về luân lý của tình thân mật tính dục trong hôn nhân, nhưng, “mỗi một và mọi hành vi vợ chồng bắt buộc phải duy trì mối liên hệ nội tại của nó với việc sinh sản sự sống nhân bản” (số 11). Ở đây, thông điệp dạy ta về ý nghĩa kép và cố hữu của sinh hoạt tính dục vợ chồng: nó vừa có tính kết hợp vừa có tính sinh sản. Không thể dựa vào bất cứ cơ sở luân lý nào để phá vỡ mối liên kết giữa hai chiều kích này (số 12).
Huấn quyền, sau đó, đã chứng minh tính hữu lý của luận điểm trên. Hành vi làm tình với một người phối ngẫu không thuận tình không phải là một hành vi yêu thương đúng nghĩa thế nào, thì hành vi vợ chồng mà “làm thiệt hại tới khả năng truyền sinh” cũng “làm hỏng” kế sách của Thiên Chúa và “mâu thuẫn với ý muốn của Tác Giả sự sống” (số 13) như vậy. Khi nói rõ các giới hạn luân lý cho các hành động của ta, thông điệp đã trở về với một nhận xét trước đây rằng: ta không có được một thống trị vô giới hạn đối với cuộc sống của ta như thế nào, thì ta cũng không thể tự cho mình là đã thống trị một cách vô giới hạn đối với các cơ năng tính dục của ta như thế.
Văn kiện, sau đó, kể rõ các hoạt động không hề được phép dùng để điều hòa sinh sản. Trước nhất là “trực tiếp ngưng diễn trình sinh sản đã bắt đầu”, mà đứng hàng đầu là “trực tiếp phá thai”; thông điệp cũng chống lại việc trực tiếp triệt sản. Cuối cùng, thông điệp tuyên bố: “cũng phải loại bỏ bất cứ hành vi nào hoặc trước, hoặc trong khi, hoặc sau khi giao hợp tính dục, cố ý chuyên biệt nhằm ngăn ngừa việc sinh sản, bất kể như một mục đích hay như một phương thế”. Rồi văn kiện kể ra một số nguyên tắc giải nghi học (casuistic) không thể nại ra để hợp pháp hóa hành vi ngừa thai vợ chồng; đó là các nguyên tắc sự dữ ít xấu hơn, nguyên tắc toàn bộ và nguyên tắc khoan dung (số 14).
Tuy nhiên, thông điệp thừa nhận rằng nó “không hề coi là trái phép việc sử dụng các phương thế trị liệu cần thiết để chữa một cơn bệnh phần xác, cho dù có thể thấy trước do đó mà phát sinh một trở ngại cho việc sinh sản, miễn là sự trở ngại này không trực tiếp cố ý để xẩy ra vì bất cứ động lực nào”. Đây là một phân biệt rất quan trọng đã được Đức GH Piô XII đưa ra lần đầu tiên.
Cha Keenan vốn là một nhà thần học từng làm việc trong lãnh vực HIV/AIDS, nên cha luôn ủng hộ chiến lược phòng ngừa có tính toàn diện, kể cả sử dụng áo mưa, không phải để ngừa thai, mà là để phòng ngừa. Việc này, theo cha, chắc chắn áp dụng được trong trường hợp một cặp vợ chồng không cùng lây bệnh (tức 1 người mắc HIV, một người không) và vốn không có con, bất kể do bệnh, do tai nạn hay do tuổi già. Những cặp vợ chồng sử dụng áo mưa như thế trong tình thân mật vợ chồng chắc chắn không sử dụng nó như một dụng cụ ngừa thai. Nếu thế, đó không phải là một sinh hoạt vô luân.
Ở đoạn 16, thông điệp nói rõ rằng không cặp vợ chồng nào cần phải hạn chế sự thân mật tính dục lúc không thể thụ thai (infertility). Nó tương phản các cặp vợ chồng được phép sinh hoạt tính dục lúc không thể có thai với những cặp “ngăn cản việc khai triển diễn trình sinh sản tự nhiên”.
Văn kiện chuyển qua phần kết luận với các lời cảnh cáo về hậu quả xã hội của việc hợp pháp hóa sinh hoạt ngừa thai; nó nhắc độc giả nhớ tới các giới hạn của quyền lực con người (số 17). Nó cũng nhìn nhận rằng chủ trương của nó đối với luật tự nhiên: không coi luật tự nhiên là trọng tài mà đúng hơn là “người bảo vệ và giải thích” (số 18).
Trong phần cuối cùng nói về các chỉ dẫn mục vụ, thông điệp thúc giục mọi người biết đánh giá lề luật của Chúa (số 20), giá trị của việc tự ra kỷ luật cho chính mình (số 21) và việc cần phải cổ vũ đức khiết tịnh. Nó kêu gọi nhà cầm quyền công cộng tìm ra các giải pháp chân thực để giải quyết nạn thặng dư dân số và kêu gọi các khoa học gia nghiên cứu thêm “các nhịp (rhythms) tự nhiên” để “thành công trong việc xác định được một căn bản đủ vững chắc cho việc giới hạn số con một cách trong trắng” (số 24). Nó tích cực khuyên răn các cặp đang cố gắng đương đầu với vấn đề (số 25) và khuyên các linh mục (số 28) và các giám mục (số 30) hãy thừa tác tốt và duy trì giáo huấn thường hằng của Giáo Hội.
Cha Keenan nghĩ rằng phương thức theo sát bản văn này đã giúp các sinh viên của Cha đánh giá được trọn vẹn giáo huấn và học lý của “Sự Sống Con Người”.
Phương pháp học
Linh mục J. Michael Byron, giáo sư phụ giảng về thần học hệ thống tại Trường Thần Học Thánh Gioan ở Collegeville, Minnesota, thì thuật lại việc phương pháp học đã lên khuôn thừa tác vụ của ngài ra sao.
Cha kể rằng tại lễ tang của thân phụ, một linh mục tới gần để lớn tiếng cho hay ngài rất ngạc nhiên khi nhờ chuyện trò mà khám phá ra rằng thân phụ của cha, một ông lão 80 tuổi, cả đời thực hành đức tin Công Giáo, lại là một người “cấp tiến” (liberal). Cha cho rằng nhãn hiệu này khó có thể áp dụng vào thân phụ mình. Cả nhãn hiệu “bảo thủ” cũng thế. Thân phụ ngài đơn giản tiếp nhận nền giáo dục chính thức tại các trường Công Giáo trong các thập niên 1930 và 1940. Cụ chưa hề ba hoa về các ơn phúc hay các tệ hại của Vatican II, về các vị giáo hoàng hay về phụng vụ. Cụ chỉ cầu nguyện theo lối hoàn toàn Công Giáo, đi lễ mỗi Chúa Nhật, phục vụ giáo xứ và tổng giáo phận trong một vài chức vụ lãnh đạo nào đó và lo lắng sao cho các con được dưỡng dục và được giáo dục trong đức tin. Có gì mà “cấp tiến” hay “bảo thủ” trong đó? Thuần túy chỉ là Công Giáo.
Tuy nhiên, theo cha Byron, vẫn có một thứ phương pháp thần học nằm dưới cái bề ngoài ấy, dù thân phụ cha, một người suy nghĩ sáng chói cha từng biết được, chưa bao giờ có khả năng thuyết trình chính thức về nó. Mà không phải chỉ riêng thân phụ cha, mọi giáo sĩ, mọi thừa tác viên mục vụ, và thực ra mọi Kitô hữu Công Giáo dấn thân, đều đã tiếp cận các tình thế mục vụ với một phương pháp thần học hữu hiệu nào đó. Hầu hết rất có thể không biết cách nhận diện ra phương pháp ấy và do đó, không có khả năng phát biểu nó ra và lượng giávề nó. Ấy thế nhưng, kiểu loại của phương pháp thần học có lẽ là định mức căn bản nhất cho thấy người ta sống ơn gọi của mình ra sao, bất luận là giáo sĩ hay giáo dân.
Người Công Giáo ngày nay phải tự hỏi liệu một phương pháp thần học đặc thù nào đó có giải thích được cách thỏa đáng các dữ kiện của kinh nghiệm hay, nói cách khác, liệu kinh nghiệm có tương quan gì hay không. Nói cách khác nữa, trách vụ đức tin và thừa tác vụ hiện nay có giải đáp các nan đề tri thức hay chỉ là một cái gì khác thế? Người ta có đối diện với các tình huống mục vụ ngõ hầu giải thích “cái tại sao” của các biến cố, hay chỉ hiện diện một cách mục vụ đối với “cái gì” của các biến cố ấy, mà không có bất cứ một học lý tức khắc nào? Việc người ta trả lời các câu hỏi này ra sao sẽ cho ta thấy phương pháp thần học hay “các nguyên tắc đệ nhất” của họ là gì.
Ta lượng giá ra sao?
Nói tới phương pháp thần học, nhiều người cho là chuyện trừu tượng và chẳng đáng lưu ý chút nào. Nhưng thực ra, đây là một việc tìm hiểu khá cụ thể và nhiều thông tri. Có lẽ từ ngữ “phương pháp” làm ta hiểu lầm chăng, vì dường như nó muốn gợi ý rằng thừa tác viên cố tình suy tư về các nguyên tắc đệ nhất của mình và đã cố ý chọn cho mình nguyên tắc này hay nguyên tắc nọ. Thực ra không phải thế. Một phương pháp học được suy tư cách có phê phán rất có thể bị coi như có thiên kiến, thậm chí như một ý thức hệ nữa vì nó đưa ra một loạt các giả thuyết bất biến cố tình được chọn lựa, được định sẵn trước về việc phải đưa ra quyết định như thế nào trong thừa tác vụ, phải đánh giá các ưu tiên ra sao và phải lượng định những dữ kiện nào và tại sao. Một phương pháp thần học, bất kể hữu thức hay không, chủ yếu là một phán đoán về các xác tín và thiên hướng nền tảng mà người ta phải có khi bước vào hoạt động mục vụ.
Không ai trong chúng ta tránh được việc phải sử dụng một phương pháp nào đó, mà chúng ta cũng không nên tránh việc này; thứ phương pháp tồi tệ nhất đương nhiên là phương pháp thiếu phê phán bởi không ai chọn thứ phương pháp này. Thí dụ, bất kể người ta nghĩ gì về những thứ thần học giải phóng khác nhau đang có mặt trong Giáo Hội, một trong các đóng góp của chúng đối với việc suy tư có phê phán là ai cũng sẵn sàng xông tới (up-front) để nói ra hàng loạt các nguyên tắc đệ nhất đẳng vốn hướng dẫn các suy tư và các thảo luận của họ. Thường thường các nguyên tắc này có bổn phận giải quyết các đau khổ hay áp bức hiện nay trong lịch sử. Một phương pháp nào đó có thể bị coi là thiếu thỏa đáng, nhưng phán đoán này đòi người phê phán phải nói rõ phương pháp của mình và tại sao phương pháp của mình hay hơn.
Ngày nay, một số người sử dụng một trong các phương pháp học thường được gọi là “siêu việt” (“transcendental”). Những phương pháp loại này dựa vào một loạt xác tín trong phạm vi nhân chủng học và chúng thuộc nhiều loại khác nhau: hữu thể học về con người nhân bản, cấu trúc phổ quát của nhận thức và trí hiểu nhân bản, v.v… Những nhà thần học lớn như Karl Rahner S.J., Bernard Lonergan S.J., đã nhận diện được các xác tín này ngay từ đầu, nhưng rất nhiều thừa tác viên mục vụ sử dụng các giả thuyết này mà không bao giờ nghĩ tới lý do tại sao chúng thỏa đáng hay liệu chúng có thỏa đáng hay không.
Nhiều hình thức bảo thủ cực đoan (fundamentalisms) cũng đưa ra một phương pháp học khác, càng ngày càng hiện diện nhiều hơn trong mọi tôn giáo ngày nay. Xét chung, các thuyết này bênh vực một nguồn thẩm quyền duy nhất mà không xem xét thẩm quyền này dưới cái nhìn phê phán. Nguồn này có thể là Thánh Kinh, là Kinh Kôrăng, là giáo hoàng, là Bộ Giáo Luật hay một nguồn chân lý không bị tra hỏi khác được chọn lựa. Với chủ thuyết cực đoan, chỉ cần nại tới một bản văn hay một giáo huấn nào đó là có thể giải quyết được các vấn đề thuộc thừa tác vụ.
Như ta biết, Chúa Giêsu chưa bao giờ cung cấp cho các môn đệ của Người một khóa hội học nào về phương pháp thần học và nếu trung thực đọc các bản văn Tân Ước, ta sẽ thấy chúng trình bày một loạt nhiều phương pháp khác nhau. Thí dụ, đôi lúc Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ đừng nại vào lề luật và thay vào đó, thúc giục họ phải có lòng cảm thương. Đó thẩy đều là những phương pháp hành động khác nhau. Các thần học gia mục vụ cần phải biết đưa ra các phán đoán trong các phạm vi này. Thực vậy, suốt trong lịch sử Công Giáo, một loạt các phương pháp học khác nhau đã được sử dụng, dù cố ý hay không, bởi truyền thống thần học và huấn quyền.
Thí dụ, nhiều thần học gia giáo phụ tin rằng chỉ cần trích dẫn lời lẽ của các bậc anh thư tiên khởi của Kitô Giáo cũng đủ để giải quyết các cuộc tranh cãi. Thánh Tôma Aquinô ít làm việc này nhưng đã tạo ra việc kinh viện thích nại tới luật tự nhiên và triết học Aristốt. Ngài quả có nại tới một số cơ sở khác cho thẩm quyền thần học, và ngài chú ý tới một số vấn nạn nhiều hơn các thần học gia khác. Các phát biểu khả tín nhất về tín lý, luật lệ và ý kiến thần học đều tự biết rằng có một phương pháp đứng đàng sau mình. Phần lớn các ác ý hiện nay trong các cuộc tranh cãi của Công Giáo về tín lý và thực hành mục vụ không hẳn là vì đức tin vào Chúa Kitô hay vào Giáo Hội, cho bằng vì phương pháp học.
Xét trong yếu tính, nói tới phương pháp trong thừa tác vụ là đặt ra câu hỏi này: Thông tri, dữ kiện và thẩm quyền nào có tính thuyết phục nhất trong việc nêu ra các phán đoán mục vụ, và tại sao? Chú ý tới phương pháp có thể giúp ta tránh được những phản xạ không thể giải quyết, hoàn toàn vô nghĩa và đôi lúc thiếu bác ái của rất nhiều người trong hai thế hệ vừa qua: đó là đặt người Công Giáo “cấp tiến” chống lại người Công Giáo “bảo thủ” hay “chính thống”, bất luận là giáo sĩ hay giáo dân. Những nhãn hiệu này không bao giờ nên dùng trong thừa tác vụ vì chúng không đóng góp được gì cho việc hiểu biết. Chúng là những nhãn hiệu chính trị, mà thừa tác vụ thì trong căn bản đâu có gì là chính trị, theo nghĩa đang được tranh cãi hiện nay.
Trình thuật bị thách thức
Thân phụ Cha Byron được dưỡng dục trong một gia đình và một hệ thống học đường Công Giáo truyền thống của tiền bán thế kỷ 20. Truyền thống ấy là truyền thống trong đó các giả thuyết không bị ai thách thức, truyền thống ấy tin rằng tín lý Công Giáo có khả năng giải thích được siêu trình thuật (metanarrative) về thế giới, về văn hóa và về con người khắp mọi nơi. Nói cách khác, các kinh nghiệm đôi khi rối mù và mơ hồ trong cuộc sống của người “sống trên mặt đất” được coi như không đặt ra bất cứ thách thức nào đối với câu truyện thịnh hành của Công Giáo; chúng không phải là các vấn đề cần được câu truyện Công Giáo, vốn được các định chế và huấn quyền phát biểu ra, phân xử.
Điều ấy không ngạc nhiên chút nào. Phối cảnh thần học và phương pháp học lúc đó được kiểm soát, giống như hàng bao thế ký trước đó, bởi một phương thức mà ngày nay ta gọi là “Tân Tôma” (neo-Thomism), một phương pháp không được Thánh Kinh chúc lành hay kết án, vì nó xuất hiện mãi hơn một nghìn năm sau khi Chúa Giêsu qua đời và sống lại. Trong thời kỳ tiếp theo sau Cách Mạng Pháp và Phong Trào Ánh Sáng, thuyết Tôma được nhiều vị giáo hoàng và giám mục ủng hộ, nhất là Đức Piô IX. Nhưng cũng như bất cứ phương pháp nào trước đó và kể từ đó, thuyết Tôma không phải là Tin Mừng. Nó chỉ là một trong những cách người ta cố gắng hiểu nghĩa của Tin Mừng nhờ một số lựa chọn có tính giải thích mà thôi. Thuyết Tôma (và cả thuyết Tân Tôma) rất nổi về trừu tượng. Nó theo luận lý học của các đề xuất tri thức (intellectual propositions), giống như trong tác phẩm Summa Theologiae (Tổng Lược Thần Học) của Thánh Tôma, và do đó đạt tới các phân biệt rõ ràng trong quan niệm về tín lý sau khi nghiên cứu một số câu hỏi, như “Sự hiện hữu của Thiên Chúa có tự hiển nhiên hay không?”
Đối với thân phụ của Cha Byron, khúc rẽ quan trọng xẩy ra khi cụ cảm thấy có sự bất tương hợp giữa siêu trình thuật Công Giáo và kinh nghiệm sống của cụ, nhất là khi một số con cháu của bạn bè cụ tiết lộ: chúng bị lôi cuốn bởi người cùng phái tính. Điều này gây trở ngại cho thế giới quan thần học của chủ thuyết Tân Tôma mà trước đây cụ thường giả dụ. Một thí dụ khác: cụ gặp nhiều người Do Thái Giáo và một số người vô thần trong vòng nghề nghiệp của cụ, và cụ phải xác định xem mình nên trả lời những người này ra sao. Lúc cụ đương đầu với tình thế này, thì cụ vào khoảng 50 hay 60 gì đó, và lúc này là lúc cụ buộc phải có một quyết định về phương pháp, dù cụ không nhận diện nó như thế. Cụ phải quyết định: kinh nghiệm, cả kinh nghiệm xúc cảm nữa, quan trọng tới mức nào khi suy nghĩ về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về ơn cứu rỗi và về việc hiện diện với người ta? Theo nền đào tạo và các thiên hướng Tân Tôma, thì cụ sẽ được dẫn tới một cách trả lời. Còn nếu chú ý tới kinh nghiệm, tới xúc cảm và chủ trương của bạn bè và đồng nghiệp cụ sẽ được dẫn tới một hướng khác. Điểm quan trọng ở đây không phải là xác định xem chọn lựa nào tốt hơn, mà là làm sáng tỏ điều này: đây là một chọn lựa không thể tránh được, dựa trên các tiêu chuẩn khác, để có được một phương pháp thần học mục vụ thỏa đáng.
Cha mẹ Cha Byron đã quyết định để các quan điểm của bạn bè và con cháu họ giúp lên khuôn các quan điểm của các ngài về Thiên Chúa và thánh ý Người. Các ngài để các kinh nghiệm cụ thể đối thoại với và thậm chí tương đối hóa các trừu tượng của nền thần học Tôma. Đây là một quyết định, dù không có chủ đề, về phương pháp thần học. Nó là một quyết định nhằm tra vấn các giả định của siêu trình thuật. Cha Byron cho rằng khi vị linh mục bạn nói rằng thân phụ ngài “cấp tiến” chắc hẳn vì cụ cung kính lắng nghe người khác, tiếp nhận các viễn tượng của họ cách nghiêm túc và có lẽ để các viễn tượng này lên khuôn các niềm tin của mình. Đó không hẳn là “cấp tiến”. Mà chỉ là dành chỗ ưu tiên cho đối thoại khi khai triển thần học.
Nói một cách phổ quát hơn, các xúc cảm, các tâm cảm, các kinh nghiệm bản thân, ngữ cảnh hay các chủ trương bất đồng về tôn giáo của người khác quan trọng tới mức nào trong việc lên khuôn hay thiết lập ra “các nguyên tắc đệ nhất đẳng” của ta để thực hiện các phán đoán thần học và mục vụ? Theo qui luật của thuyết Tôma, không một điều nào trong số này quan trọng cả, và có lẽ chúng không nên quan trọng gì hết. Đây không phải là cuộc bàn luận về thiên hướng “cấp tiến” chống lại thiên hướng “bảo thủ” trong thần học mục vụ. Mà là về vấn đề dữ kiện nào nên là đệ nhất đẳng, và lý do tại sao, để xác định được thực hành mục vụ thỏa đáng nhất. Câu hỏi này giúp ta có được cuộc bàn luận chừng mực, thông minh và vô tư dựa trên các điểm mạnh yếu của từng chủ trương, một thứ bàn luận giúp ta tiến lên phía trước.
Những cái nhìn thông sáng bất ngờ
Đức Cha Robert F. Morneau, giám mục phụ tá đã về hưu của giáo phận Green Bay, Wisconsin, thì cho hay đã tìm thấy nơi William James nhiều cái nhìn thông sáng bất ngờ trong tác phẩm “The Varieties of Religious Experience: A Study in Human Nature” tức loạt 20 bài thuyết trình của triết gia này tại Edinburgh năm 1901-1902. Ai cũng biết William James là cha đẻ của nền luân lý thực dụng Mỹ, một thứ triết lý cho rằng muốn biết một ý tưởng đúng hay sai phải dựa vào kết quả thực nghiệm của nó. Thứ triết lý này chắc chắn nằm trong quĩ đạo của cây dù tương đối thuyết, không thể được Giáo Hội Công Giáo ủng hộ.
Nhưng điều ấy vẫn không ngăn cản Đức Cha Morneau tìm thấy trong tác phẩm này nhiều cái nhìn sáng suốt về các chủ đề như thánh thiện, huyền nhiệm và hồi hướng (conversion). Ngài đặc biệt lưu ý tới việc James sử dụng các đoạn văn nhiều khi cực đoan và kỳ dị của những người có trải nghiệm tôn giáo để phân tích cách tinh thần con người cố gắng đi vào mầu nhiệm của tính siêu việt thần linh. Sau đây, là một số cái nhìn thông sáng đó (những chữ in nghiêng là lời của chính William James).
1. Thân phận con người không trừ ai
Những người tỉnh trí và thông minh nhất trong chúng ta cũng từ một chất đất sét với người mất trí và người trong tù, và sự chết cuối cùng sẽ hạ bệ những người khỏe mạnh nhất trong chúng ta.
Ở trên đời này, có một phổ quát tính; tất cả chúng ta đều ở trên cùng một con thuyền. Không ai được miễn trừ khỏi mỏi mệt, khỏi thất bại luân lý (tội lỗi), khỏi buồn bực tâm lý, khỏi acedia (trầm cảm), khỏi các giới hạn thể lý, tri thức và tâm linh. Tất cả chúng ta cùng từ một chất đất sét mà ra. Thứ đất sét ấy được tạo khuôn nên tốt nên xấu thế nào là tùy cách ta sử dụng tự do nhân bản và các hoàn cảnh đời sống và văn hóa. Nhưng ở thẳm sâu, tất cả chúng ta, dù tỉnh trí hay mất trí, dù tự do hay đang bị cầm tù, cũng đều sẽ đối diện với xuống dốc và chết chóc. Do đó, cảm thương hẳn phải là lệnh sống ở trên đời.
2. Cảm quan ảnh hưởng tới cá tính
Cả tư tưởng lẫn cảm quan đều xác định ra tác phong, và cùng một tác phong có thể được xác định hoặc bởi cảm quan hoặc bởi tư tưởng. Khi chúng tôi khảo sát toàn bộ lãnh vực tôn giáo, chúng tôi thấy tính đa dạng rất lớn về tư tưởng; nhưng các cảm quan một bên và bên kia là tác phong thì gần như giống hệt nhau, vì các bậc thánh nhân của Khắc Kỷ, của Kitô Giáo hay của Phật Giáo đều khó phân biệt nhau trong lối sống thực tế của họ.
Dĩ nhiên cần phải bênh vực tính chính thống, sự suy nghĩ đúng đắn. Nhà phê bình kịch nghệ Walter Kerr nhắc nhở ta rằng “sự lây nhiễm khởi sự từ tâm trí sẽ lan tới mọi tứ chi”. Và đúng như thế. Nhưng quan điểm của James đáng lưu ý ở chỗ cho rằng nơi những người thực sự tốt lành trong lịch sử (các thánh nhân), cảm quan của họ và tác phong của họ chủ yếu giống nhau: đời sống yêu thương, cảm thương và tha thứ chắc chắn mô tả được một phần cuộc hiện sinh của họ. Còn về suy nghĩ, các tín hữu và triết gia quan niệm khác nhau xiết bao về thế giới, và do đó, về sự thật. Nói như thế để thấy rằng tư tưởng cực kỳ quan trọng, và cả các cảm quan nữa, trong việc lên khuôn tác phong của ta. Cộng vào đó, ta nên thêm ý nghĩa của hình ảnh và của các câu truyện vào việc lên khuôn đời sống nội tâm và tác phong ta.
3. Chủ nghĩa duy tự nhiên không đủ
Với chủ nghĩa duy tự nhiên, được gầy dựng dựa trên các suy đoán vũ trụ học gần đây, nhân loại hiện đang ở một tình huống tương tự như tình huống của loại người đang sống trên một hồ nước đông đá bao quanh bởi các vách núi đá dựng đứng không hề có lối thoát qua, ấy thế nhưng họ biết rằng đá sẽ từ từ tan đi, và cái ngày không thể tránh được đang tới gần lúc mà lớp đá cuối cùng sẽ biến mất, thì chết đuối một cách nhục nhã chắc chắn sẽ là phần số của tạo vật nhân sinh. Trượt băng càng vui vẻ, mặt trời ban ngày càng nóng hơn và càng chói lọi hơn, lửa trại về đêm càng hồng, nỗi buồn càng thấm thía khi con người xét tới ý nghĩa của toàn bộ tình thế.
Trong Inferno của Dante, hỏa ngục không phải là lửa mà là đá băng; băng làm cho mọi phát triển đều bất khả. Đối với người duy tự nhiên, thế giới chúng ta giống hồ nước đóng băng, đôi lúc đem lại nhiều trải nghiệm vui chơi, nhưng kết cục sẽ chỉ đem đến hủy diệt, đem đến hư vô. Không lạ gì trong truyền thống cổ xưa, u sầu là mối tội đầu thứ tám. Chủ nghĩa duy tự nhiên loại bỏ viễn kiến về một sự sống tương lai hay bất cứ thực tại vô hình nào vốn là đối tượng của đức tin và thờ phượng. Ở đây, James đã nắm được một cách sáng suốt và một cách đầy xúc cảm số phận của nhân loại khi họ bị tước mất bất cứ thực tại nào bên ngoài thời gian và không gian.
4. Thánh nhân là người mang đuốc sáng, người truyền sức sống và là người lên sinh lực
Thánh nhân, với sự tràn trề tình âu yếm nhân bản, là những người mang đuốc sáng vĩ đại của niềm tin vào tính thánh thiêng của mọi người, là đầu chiếc nêm, là người xua tan bóng tối. Giống những giọt nước đơn độc sáng lên dưới ánh mặt trời khi được tóe ra từ đầu một ngọn sóng lớn hay một trận lụt đang xấn tới, họ chỉ đường và là những nhà tiền hô. Thế giới chưa theo kịp họ, nên đôi khi họ bị coi như ngược đời giữa cảnh ngược xuôi của thế giới. Ấy thế nhưng họ là người làm mầu mỡ thế giới, người truyền sức sống và người lên sinh lực cho mọi khả thể tốt lành là những khả thể nếu không có họ sẽ mãi mãi ngủ mê. Khi họ đã đi qua trước chúng ta, ta không thể còn hèn hạ như ta tự nhiên vốn là. Ngọn lửa này cháy sáng ngọn lửa kia; và nếu không có cái lòng quá tin vào giá trị nhân bản mà họ vốn biểu lộ, tất cả chúng ta sẽ mãi mãi ở trong trạng thái đình đốn tâm linh.
Một số cá nhân, được ơn biết quên mình và dấn thân làm điều tốt, đã được nhìn nhận như là người thánh hiện hay thánh nhân. Đam mê của họ là phát biểu tình yêu, là rõi sáng thế giới tối tăm, là đem sự sống đến những người chung quanh. James nói tới các thánh như là “những tác giả, những người sản sinh ra, những người làm gia tăng sự tốt lành”. Niềm xác tín căn để của họ là: mọi con người đều thánh thiêng và xứng đáng không những được ta tôn trọng mà còn được ta tích cực quan tâm. Vì cuộc đời họ có đặc điểm trách nhiệm và đại lượng, nên họ chiếu tỏa một niềm vui và một niềm an bình sâu xa. Chính vì thế, tất cả chúng ta nên có cái lòng “quá tin” của các thánh.
5. Ta cần giải quyết vấn đề lớn
Đâu là quan tâm chính của đời người?
Cuối cùng, điều gì thực sự quan trọng trong cuộc hành trình đầy phức tạp và rối mù này? Triết gia Paul Tillich sử dụng kiểu nói “quan tâm tối hậu”. William James giúp ta chỉ đơn giản bằng các đặt ra một câu hỏi ngắn gọn và trực tiếp. Các quan tâm của ta ở trên đời thì nhiều lắm: an vui thể lý, ổn định chính trị, bảo đảm kinh tế, cơ hội giáo dục, các mối liên hệ bền bỉ và thân ái v.v… Nhưng vì phải đặt điều trước nhất lên trước nhất, nên điều gì đứng đầu trong nghị trình của ta? Trong truyền thống Kitô Giáo, quan tâm chính là kết hợp với Thiên Chúa và hợp nhất giữa mọi người. Chính sự hợp nhất và kết hợp này đem lại một chút an bình và hân hoan.
6. Mọi người chúng ta đều phải chịu một điều gì đó
Nhân loại chịu ảnh hưởng và gây ảnh hưởng theo các chiều đối nghịch nhau, và sự tranh chấp giữa các ảnh hưởng là điều không bao giờ ngưng.
Một số cá nhân dễ bị mắc lừa, sẵn sàng chấp nhận bất cứ ý tưởng nào hay tác phong sống nào. Điều chắc chắn là: ai cũng chịu ảnh hưởng tới mức nào đó và ai cũng gây ảnh hưởng tới một độ nào đó. Ta chú ý tới điều gì, điều ấy sẽ lên khuôn ngày sống của ta. Điều khiến cuộc sống và diễn trình đưa ra quyết định thành khó khăn là do ta bị bủa vây bởi hàng ngàn ảnh hưởng khác nhau, bất luận là từ các phương tiện truyền thông xã hội hay từ hệ thống gia đình, từ thầy cô lớp ba hay từ một giáo sư đại học, từ cuốn sách ta mới đọc nhất hay từ một bài xã luận của tờ báo buổi sáng. Và dĩ nhiên, những tiếng nói man vàn này thường trái ngược nhau. Ta phải làm gì? Ở đây, ta thấy rõ nghệ thuật biện phân, phải lọc lựa xem sự thật nằm ở chỗ nào.
7. Ta phải biến Thiên Chúa thành việc bận bịu của ta
Chúng ta và Thiên Chúa có nhiều việc bận bịu (business) đối với nhau; và nếu chịu mở lòng ra đón nhận ảnh hưởng của Người, cùng đích sâu xa nhất của ta sẽ thành toàn.
Nói tới các ảnh hưởng, tinh thần con người mở ra chào đón Đấng Thần Linh ra sao mà với Người nó vốn có việc phải bận bịu? Thiên Chúa có nói với nhân loại không và nói cách nào? Có người cho rằng ta gặp gỡ Đấng Thần Linh trong các bản văn thánh (Thánh Kinh), người khác lại cho rằng Thiên Chúa nói qua cộng đoàn và kinh nghiệm hàng ngày. Lại có người bảo rằng chính trong cõi sâu thẳm của bản ngã ta, tức lãnh vực vô thức (mơ…), Thiên Chúa sẽ làm ta cảm nhận được sự hiện diện của Người. James quan tâm tới “cùng đích sâu xa nhất” của ta. Nếu không có những giao tiếp qua lại giữa Thiên Chúa và tinh thần con người, thì mọi chuyện đều sẽ không còn.
8. Vẻ bề ngoài có thể lừa dối
Gốc rễ nhân đức của một người là điều ta không thể nắm được. Không dáng vẻ bề ngoài nào là bằng chứng bất khả ngộ của ơn thánh cả. Việc thực hành của ta là chứng cớ chắc chắn duy nhất, ngay cả với chính chúng ta, cho thấy ta thực sự là các Kitô hữu thực sự.
Một trong các đặc tính của tinh thần con người là việc không ai nắm được nó cả. Ta cười mỉm khi nhìn trở lui cuốn phim trinh thám “The Shadow” của thập niên 1930. “Ai biết sự dữ nào lấp ló trong trái tim con người ta? The Shadow biết!” Người anh hùng vô hình chiến đấu với tội ác này đã tự hào làm được những điều mà ít có nhà tâm lý hay triết lý nào dám có hoài mong làm. Vẻ bề ngoài không tiết lộ mọi việc; các nhân đức và thói hư nội tâm của ta được chôn rất sâu. Trong xác tín của ông, James cho rằng sự thật được tìm thấy trong tính thực dụng của nó, nghĩa là theo ông, các việc ta làm cũng như tác phong của ta mới chứng minh được là liệu ta có phải là người Kitô hữu thật hay không. Thực thế, đó là ý nghĩa của cảnh Phán Xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu. Chiên và dê được tách biệt theo điều họ đã làm hoặc đã không làm cho người khác.
9. Ta phải chọn điều then chốt cho đời ta
Không sự kiện nào trong bản chất con người có đặc điểm nhiều hơn là sự sẵn sàng của nó sống theo cơ hội. Như Edmund Gurney từng nói, sự hiện hữu của cơ hội tạo ra sự khác biệt giữa một cuộc đời trong đó điều then chốt là nhẫn nhục và một cuộc đời trong đó điều then chốt là hy vọng.
Môsê từng đặt trước dân của ông sự lựa chọn này: sống hay chết. Trước mặt ta là nhẫn nhục hay hy vọng, yêu thương hay giận ghét, hân hoan hay sầu thảm. Người hy vọng nhìn tương lai với cảm thức có thể. Họ sẵn sàng liều mình và chấp nhận may rủi dù không biết chắc điều gì đang chờ đợi họ. Người hy vọng có cảm thức tín thác lâu bền và có khả năng chấp nhận hứa hẹn. Giải pháp ngược lại không lôi cuốn bao nhiêu: tối mặt nhẫn nhục. Điều gì xẩy tới hẳn sẽ xẩy tới. Emily Dickinson nói rằng hy vọng là coi sự vật như lông tơ. Cuốn Without Feathers của Woody Allen kêu gọi người nhẫn nhục, không kêu gọi người hy vọng.
10. Tiếng cười mở rộng linh hồn
Ngay một mở rộng linh hồn trong giây lát nhờ tiếng cười, dù đến một mức nhỏ nhoi, cũng là một thực hành tôn giáo.
Trong cuốn tự thuật của mình tựa là “Truyện Một Linh Hồn”, Thánh Têrêxa thành Lidiơ nói tới việc co thắt và dãn nở của con người nội tâm. Đối với bà, ơn thánh của Thiên Chúa tạo ra sự dãn nở và một sinh lực lớn lao, trong khi đó, sự co thắt làm cuộc sống nhỏ hẹp lại và đó không phải là dấu chỉ của Chúa Thánh Thần. Nếu thực sự tiếng cười làm linh hồn dãn nở và đem tới sự giải thoát, thì ta có quyền coi nó như một trải nghiệm tôn giáo. Dù chỉ mỉm cười mà thôi, ta cũng có thể liệt nó vào cùng một phạm trù và là một dụng cụ của ơn thánh. G. K. Chesterton viết trong The Everlasting Man rằng: “giữa muôn vật, chỉ có con người là lắc lư với cái điên dại đẹp đẽ có tên là tiếng cười; như thể họ thoáng thấy một chút huyền nhiệm gì đó trong chính khuôn hình vũ trụ bị dấu kín đến chính vũ trụ cũng không thấy”.
William James suy tư không những về mầu nhiệm con người nhân bản mà còn cả về khả thể có một Thiên Chúa biết lắng lo cho một tạo vật đã được tạo nên cách diệu kỳ đến thế. Suy nghĩ về những suy nghĩ này sẽ giúp ta có được một chút thông sáng nào đó về bản chất nhân loại của chính chúng ta và về cách Thiên Chúa can thiệp ra sao vào sự việc của con người.
Học phụng vụ nơi người khác
Ta đang sống trong một thế giới đa nguyên. Dù gì, niềm tin ngay trong một gia đình đã không còn nhất thống như ngày trước. Người theo hệ phái này, kẻ theo hệ phái khác. Laurie Ziliak, một giảng sư thần học tại Đại Học St Mary ở Minnesota và là giám đốc phụng vụ tại Giáo Xứ St Mary ở Winona, Minnesota, tìm được nét tích cực trong tính đa nguyên này.
Em ông hiện được mệnh danh là Người Công Giáo cao chạy xa bay (fallen-away). Sau nhiều năm tìm tòi, anh đã kiếm được một mái nhà Giáo Hội tạm gọi là đem lại sự sống cho mình. Anh hiện là thành viên của một siêu nhà thờ (megachurch) tin lành thuộc một khu ngoại ô Chicago, nơi mỗi cuối tuần, người ta chào đón hơn 24,000 người thờ phượng. Nhà thờ này được thiết lập năm 1975 tại Willow Creek, nay cẫn còn được coi như mô thức của phong trào tin lành hiện đại.
Đối với gia đình Ziliak, việc người em của ông chọn lựa hệ phái chẳng phải là một bi kịch gì so với điều xẩy ra lúc người em gái của bà nội ông kết hôn với một người thuộc giáo phái Luthêrô vào thập niên 1940. Bà nội ông và các anh em bà không ai được phép tham dự lễ cưới của người em gái út và cũng không được liên lạc gì với cô ta. Với “Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội”, Công Đồng Vatican II đã mở cửa đối với những người ngoài Giáo Hội Công Giáo. Công Đồng này dạy rằng “Nhiều yếu tố thánh hóa và chân lý đã được tìm thấy ở bên ngoài biên giới hữu hình của Giáo Hội” (số 8). Ông nhớ như in niềm vui của bà nội khi nói tới cuộc trùng phùng với người em gái mình gần 40 sau lễ cưới của cô.
Thành thử việc người em ông tiếp nhận một truyền thống khác không tạo ra bất cứ thách thức nào như trước đây nữa. Chỉ có điều: mái nhà Giáo Hội mới của anh là mục tiêu của nhiều đàm tiếu và riễu cượt trong cộng đoàn Công Giáo buổi thiếu thời của ông. Họ chỉ trích nhà thờ này ở chỗ sử dụng ban nhạc rock và lối thờ phượng kiểu mua vui. Phải một thời gian lâu, người em của ông mới quen với lối thờ phượng này và không bao lâu đã có thể lên tiếng bênh vực nó.
Gia đình Ziliak muốn hỗ trợ anh ta, nên đôi lúc đã tham dự buổi phụng vụ tại nhà thờ Willow Creek vào chiều thứ Bẩy để sáng Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ Công Giáo như thường lệ. Khi tham dự những buổi phụng vụ ấy, Ziliak cho hay ông tham dự bằng thái độ của một người chịu ảnh hưởng sâu xa của truyền thống Công Giáo suốt những năm qua. Ông thấy phụng vụ tại Willow Creek thiếu nghi thức, thiếu tính bí tích, và có nhiều dị biệt về thần học. Mà nét đáng lưu ý nhất là vị trí và cái hiểu cộng đoàn trong việc thờ phượng. Tại Willow Creek, người ta thiếu vắng nghi thức hoàn toàn. Không như truyền thống Công Giáo, ở đây thiếu hẳn cái hiểu chung hay thực hành nhất quán về việc lúc nào cộng đoàn đứng hay ngồi. Cấu trúc thờ phượng thay đổi rất nhiều từ tuần này qua tuần nọ. Dù nhiều người tụ họp tại đại thính đường, nhưng các lời cầu nguyện và âm nhạc lại tập chú vào mối liên hệ của cá nhân đối với Thiên Chúa. Khi tham dự loại phụng vụ này, Ziliak không khỏi có dịp suy nghĩ về bản chất hết sức cộng đoàn của phụng vụ Công Giáo.
Bất chấp các dị biệt lớn lao này, Ziliak càng ngày càng thưởng ngoạn các thực hành phụng vụ tại các siêu thánh đường như Willow Creek. Ông cho rằng dù không thay đổi truyền thống hay nền thần học của ta, người Công Giáo vẫn có thể học hỏi được nhiều từ các siêu thánh đường tin lành, nhất là liên quan tới việc thực hành phụng vụ.
Suy nghĩ lại việc tham dự
Những người Công Giáo chú ý tới phụng vụ hẳn biết rõ lời kêu gọi của “Hiến Chế Phụng Vụ Thánh” rằng “mọi tín hữu nên được hướng dẫn để tham dự trọn vẹn, có hiểu biết và tích cực vào các cử hành phụng vụ, một sự tham dự được chính bản chất của phụng vụ đòi hỏi” (số 14). Thực vậy, chúng ta không nên làm người quan sát, mà phải tham dự vào việc phụng thờ do chính phép rửa của ta đòi hỏi. Là “đỉnh cao” và là “nguồn suối” mọi sinh hoạt của Giáo Hội, phụng vụ là con đường trên đó “mọi người đến với nhau để ca ngợi Thiên Chúa” (số 10). Tham dự là điều chính yếu đối với mọi cử hành phụng vụ.
“Sing to the Lord: Music in Divine Worship” (Hãy Hát Mừng Chúa: Âm Nhạc Trong Việc Thờ Lạy Thiên Chúa), một văn kiện do Hội Đồng GM Hoa Kỳ ban hành năm 2007 giải thích thêm bản chất của việc tham dự này, bằng cách nhấn mạnh rằng nó phải có tính cả bề ngoài lẫn bề trong nữa. Dựa vào Chỉ Thị hậu Công Đồng về Âm Nhạc Trong Phụng Vụ, các giám mục Hoa Kỳ viết rằng tham dự bề trong bao gồm việc chăm chú lắng nghe để mọi người “kết hợp bề trong” với các hành động, các công bố hay âm nhạc hầu suy niệm về cõi thần linh. Như thế, tham dự bề trong thực tế là “lắng nghe bề trong” hay “thầm lặng suy niệm”.
Nhưng theo Ziliak, ta có nên hiểu việc tham dự bề trong hơi khác đi một chút chăng? Hãy để ý một cảnh đặc trưng tại Willow Creek. Đại thính đường đầy ắp hàng ngàn người. Nhiều người giơ tay lên không khí và lắc lư theo điệu nhạc, ngôn ngữ thân xác của họ rõ ràng muốn nói: họ đang cảm kích. Nhiều người khác ôm lưng người thân yêu một cách thân thiết như muốn nói đây là khoảnh khắc mạnh mẽ, đầy hiệp thông. Lại có những người ngồi yên tại chỗ, nhắm mắt, mất hút trong cầu nguyện. Sự tham dự bề trong quả là hiển hiện đối với con mắt trần và mang thật nhiều vóc dáng. Ziliak tự hỏi: người Công Giáo có nên được phép tham dự bề trong một cách đa dạng như thế chăng? Ít nhất thì cộng đoàn cũng nên được biểu lộ sự tham dự bề trong qua các chuyển động thân xác. Không gì chứng tỏ có sự biến đổi bề trong nhờ tham dự bằng việc chuyển động như một đáp ứng.
Theo Ziliak, ta cũng có thể học cách thế tham dự bề ngoài ở Willow Creek. Lấy thánh ca cổ truyền làm thí dụ. Lời lẽ của họ rất thích hợp với Tin Mừng và tùy mỗi Chúa Nhật, họ chọn các thánh ca thích ứng. Còn đệm cho cộng đoàn thì sao? Bằng dương cầm? Đàn organ? Hay kèn đồng? Có lẽ ta nên thử nghiệm một cách khác chăng, một ban nhạc như Ban Ngợi Khen (Praise Band) của Anh chẳng hạn? Ban nhạc này sử dụng các nhạc cụ hiện đại như guita điện, đàn trầm (bass), bàn phím (keyboard) và trống làm nhạc dẫn phụng vụ.
Một thánh ca cổ truyền được chuyển tải bởi Ban Nhạc Ngợi Khen kiểu trên là những khoảnh khắc cầu nguyện rất mạnh mẽ. Ban nhạc ấy duy trì nét tinh tuyền của thánh ca nhưng đem lại cho nó một âm thanh khác hẳn, tròn đầy hơn và hiện đại hơn. Dĩ nhiên, muốn thành công ta cần nhiều kỹ năng và tập luyện, nhưng nếu thực hiện đúng đắn, nó sẽ thực sự cổ vũ cho việc tham dự mà ta vốn cố gắng thực hiện cho bằng được hàng tuần. Tại Willow Creek, người ta hát một thánh ca Thệ Phản (“Take my life and let it be consecrated Lord to Thee...”) và cộng đoàn được yêu cầu hát một câu không có đàn đệm. Trong một đại thính đường với hàng ngàn tiếng ca, ta quả gặp được một thể hiện của việc “tham dự trọn vẹn, có ý thứ và tích cực”.
Âm nhạc hàng ngày
Âm nhạc hiện đại cũng được lồng vào các buổi phụng vụ tại Willow Creek. Sau một buổi phụng vụ, người em của Ziliak hỏi ông “anh hát ra sao bài Hosanna hôm nay?”. Ông trả lời: “phải một lúc lâu anh mới hát được, nhưng cuối cùng cũng hát được thôi”. Người em cho hay: “Tất cả mọi người chúng em đều hát được vì bài ấy luôn được hát trên đài phát thanh”.
Phải một lúc lâu Ziliak mới hát được vì giai điệu bài hát thuộc loại nhấn lệch (syncopated), với rất ít nốt dài. Giai điệu này gồm một loạt các nốt ngắn tới lui theo điệu nhạc jazz (off beats). Ấy thế nhưng cộng đoàn này hát với một giọng duy nhất rất khỏe. Rõ ràng họ thuộc lòng bài ca và sức mạnh tham dự của họ giúp gia đình Ziliak học được điệu nhạc và hát theo.
Cộng đoàn Công Giáo của Ziliak vẫn còn vật lộn với bài ca “My Soul Is Thirsting” của Steve Angrisano vì giai điệu quá nhấn lệch của nó. Cộng đoàn bỏ rơi giọng ca chính (cantor) bằng cách hát thẳng vào điệp khúc trong khi giọng ca chính cứ hát theo nhịp nguyên thủy; nên thay vì công bố Tin Mừng, họ tạo nên một khoảnh khắc bát nháo.
Ziliak, nhân dịp này, tự hỏi có đài phát thanh nào (Công Giáo, dĩ nhiên) chơi các bài hát của David Haas hay Marty Haugen không? Âm nhạc ta dùng trong phụng vụ có bao giờ được liên kết với cuộc sống hàng ngày hay không? Phải chăng ta chỉ hát chúng vào các Chúa Nhật? Trải nghiệm phụng vụ của ta sẽ khác xiết bao nếu nó trở thành một phần trong trải nghiệm hàng ngày của ta!
Mui vui hay cầu nguyện?
Môi trường vật lý của Willow Creek cũng giúp làm dễ một cách đầy ngạc nhiên việc tham dự phụng vụ. Nhà thờ gồm một thính đường (họ gọi như thế) mênh mông, có thể chứa hàng ngàn người. Trước và giữa thính đường là một khán đài lớn trên có các dụng cụ của ban nhạc rock và một bục giảng với nhiều “cảnh phông” khác ở phía sau, những cảnh phông này thay đổi định kỳ để phù hợp với ngày lễ. Một màn ảnh cao 25 feet được đặt chính giữa khán đài, hai bên có hai màn ảnh khác cùng cỡ, khiến ta nhớ tới khung cảnh một buổi hòa nhạc rock. Phía trên khán đài chính, đối diện với bancông có ghế ngồi, là bốn màn ảnh nhỏ hơn.
Khi người thờ phượng lục tục kéo nhau tới, các màn ảnh cho thấy hàng loạt các hình ảnh khác nhau thay đổi giữa các thông báo của cộng đoàn và các câu trích dẫn, hoặc từ Thánh Kinh hoặc từ các nguồn khác (Ziliak nhiều lần được thấy các câu trích dẫn lời Thánh Phanxicô Assidi), lập tức kéo chú ý của cộng đoàn và mời gọi người thờ phượng bước vào. Khi buổi phụng vụ bắt đầu, thì việc phát hình trực tiếp cũng bắt đầu, và dù ngồi ở đâu, người thờ phượng cũng cảm thấy mình ở giữa cuộc cử hành. Nét mặt của ban nhạc cũng như của các diễn giả đều rõ mồn một. Các màn ảnh vĩ đại giúp lôi kéo từng cá nhân và làm cho ngôi nhà thờ vĩ đại trở thành nơi thân mật ấm cúng.
Các màn ảnh cũng cung cấp thông tri giúp các người thờ phượng tham dự. Khi trực tiếp truyền hình ban nhạc sống người ta cũng truyền hình luôn lời ca, giúp mọi người cùng hát. Khi diễn giả trích dẫn một câu Thánh Kinh, bản văn Thánh Kinh có lời trích dẫn ấy xuất hiện trên màn ảnh, giúp cộng đoàn vừa nghe vừa thẩm thấu được bản văn. Không cần phải có những lời nhắc gây trở ngại về việc phải tìm bài hát ở chỗ nào. Không cần sách hát hay sách hướng dẫn thờ phượng nào để mà lần rở cả. Mọi sự đều có sẵn ở trước mặt cộng đoàn và các màn ảnh giúp làm dễ việc chuyển tiếp trơn tru giữa các phần khác nhau của buổi phụng vụ.
Hệ thống âm thanh cũng giúp làm dễ việc cầu nguyện. Lời và nhạc hết sức rõ ràng, nhưng không tràn ngập. Theo tài liệu quảng bá của Willow Creek, hệ thống âm thanh được “thiết kế để dội lại tiếng hát của cộng đoàn trong khi hấp thụ các âm thanh khác của hệ thống âm thanh, tạo nên một cách âm và một trải nghiệm thờ phượng tốt hơn”
Thoạt nhìn, siêu thánh đường giống như một nơi siêu giải trí, nhưng quả Willow Creek vừa có các lợi ích và khả thể của kỹ thuật học hiện đại vừa sử dụng được chúng cho các buổi cầu nguyện. Thay vì bác bỏ các cải tiến kỹ thuật, Willow Creek đã sử dụng các phương tiện hiện đại để làm dễ sinh hoạt và việc tham dự của cộng đoàn tụ họp. Người thờ phượng ở đó ít khi bị chia trí bởi các sự cố kỹ thuật.
Cộng đoàn Công Giáo có thể học hỏi kinh nghiệm thành công của nhiều siêu thánh đường. Bất cứ cộng đoàn nào thu hút được cả 24,000 người thờ phượng trong một cuối tuần mà thôi chắc chắn đã làm một việc đúng đắn. Tuy nhiên, vẫn có nhiều dị biệt đáng kể về thần học và phụng vụ không thể không xét tới.
Các suy tư trên, dĩ nhiên, chỉ có giá trị đối với môi trường Tây Phương. Môi trường Á Châu có thể khiến ta phải đi tìm những bối cảnh khác để học hỏi. Dù sao, Giáo Hội vẫn đã dạy ta rằng trong các truyền thống tôn giáo khác, luôn có các hạt giống sự thiện, sự mỹ, sự chân mà ta có thể học hỏi được.
Làm chứng hơn là biện luận
Tiến sĩ Edward Mulholland, trên Zenit ngày 2 tháng Hai, 2014, có nhắc tới việc Michael Voris của Chương Trình Truyền Hình Giáo Hội Chiến Đấu, một chương trình phỏng vấn các thiếu niên tham dự Cuộc Diễn Hành Phò Sự Sống. Điều khiến Voris giật mình đến sửng sốt là khi khám phá ra: các thiếu niên này không thích quả quyết rằng Giáo Hội Công Giáo “cao hơn mọi tôn giáo khác”. Ông cho rằng các em làm thế vì sợ đụng chạm tới cảm quan người khác.
Theo Voris, một thái độ như thế chỉ đem lại thất bại cho việc Tân Phúc Âm Hóa, vì khi phúc âm hóa, thế nào người ta cũng phải nói ra một điều gì đó đụng tới cảm quan người khác như đồng tính luyến ái là một điều xấu xa hoặc sống chung với bạn trai hay bạn gái là “một điều xỉ nhục đối với Thiên Chúa”. Cố tìm ra một cách không xúc phạm để nói lên những điều như thế, tất ta phải thay đổi một cách có hại cho sứ điệp.
Voris cho rằng nếu không chịu nói một cách thẳng thắn, bạn chỉ là một người hèn nhát, tức chỉ biết quan tâm tới cảm quan của riêng mình, chứ không hẳn cảm quan người khác. Chỉ là vì bạn không muốn người khác nghĩ xấu về bạn mà thôi. Bạn thực sự không lo lắng gì tới việc “ngươi phải yêu người lân cận ngươi”. Ông kết luận: giới trẻ hiện nay chỉ học để biết vị kỷ và hoàn toàn chỉ biết bám lấy cảm quan của mình. Những kẻ hèn nhát thiếu suy nghĩ như thế đều vô dụng đối với Đạo Công Giáo, vốn là “tôn giáo của người có suy nghĩ”.
Ông nói với các thiếu niên trên đây rằng “Đây là thời gian để lớn lên, hãy để đồ chơi qua một bên”. Cuộc Diễn Hành Phò Sư Sống không phải là một cuộc đi du ngoạn ngoài trời mà là một sứ mệnh cứu vớt linh hồn người ta. “Hết phân nửa thiếu niên Công Giáo không có một chút ý niệm gì về việc làm người Công Giáo thực gì có nghĩa gì”.
Quả Voris có hơi nặng lời. Phần lớn thiếu niên Công Giáo có thể đang ngả về phía nền văn hóa vụ cảm quan kiểu phụ nữ. Nhưng theo tiến sĩ Mulholland, Voris hình như chỉ đúng về phía nhận ra vấn đề, chứ không hẳn đúng trong cách giải quyết. Ta có quyền tự hỏi: phải chăng ý muốn không xúc phạm tới người khác nhất thiết là hèn nhát dưới lốt khôn ngoan? Liệu có chăng một cách nào đó biện luận cho đức tin mà mạnh mẽ hơn ý muốn không xúc phạm hay không?
Trong luận điểm của Voris, ẩn hiện đâu đó là ý niệm cho rằng phúc âm hóa, ở một điểm nào đó, nhất thiết phải tiêu cực. Vì nhiên hậu, thế nào ta cũng phải lên án tác phong của người khác.
Nhưng một sự thật sâu sắc hơn là; Đức Tin của ta không bao giờ đòi hỏi một “lời không” mà lại không phải để phục vụ một “lời có” lớn hơn. Xét về mặt lý tưởng, điều tôi làm khi chia sẻ đức tin của mình không phải là biện luận về điều đúng hay điều sai. Điều tôi làm là làm chứng cho sự thành toàn, cho sự kiện này: sự sống trong Chúa Kitô đem lại hân hoan và thành toàn cho đời sống tôi. Và không có biện luận nào chống lại những sự kiện như thế. Câu “Giáo Hội nói đúng về ngừa thai, do đó, bạn sẽ phạm tội trọng khi chống lại giáo huấn ấy” kém lôi cuốn hơn câu “tuân theo giáo huấn của Giáo Hội về ngừa thai sẽ đem lại niềm vui và niềm thỏa mãn vô biên cho cuộc hôn nhân của tôi”.
Điều các thiếu niên cần làm không phải là thức dậy rồi mặc ngay lấy chiếc quần dài người lớn như Voris đề nghị. Không phải là tự tin vào việc hiểu biết những điều trong ngoài hay những cú gạt đỡ, né tránh của khoa hộ giáo. Điều các em, và những người Công Giáo nói chung, cần làm là sống thực, rồi làm chứng cho đức tin của mình một cách nào đó khiến những thành toàn thẳm sâu của mình tự hiển hiện thành những luận điểm hiện sinh.
Tiến sĩ Mulholland cho rằng kinh nghiệm bản thân ông cho thấy ý muốn không xúc phạm một ai đó thường không phát xuất từ sự hèn nhát, mà từ ý muốn giữ cho cuộc đàm thoại với họ được tiếp diễn, để xây dựng được mối liên hệ bản thân với người này. Nếu muốn lôi cuốn ai đó tới gần đức tin hơn, thì chính là mối liên hệ bản thân với Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải là gì khác, là điều tôi cần phải dẫn họ vào. Điều này không phải là hèn nhát mà là tình bạn. Thắng được một linh hồn không giống như thắng được một cuộc tranh luận.
Có phải vì vậy mà ta nhẹ nhàng với tội lỗi chăng? Tiến Sĩ Mulholland không nghĩ thế. Mọi tội lỗi đều là kẻ thù của thành tòan bản thân, và mọi tội lỗi đều chặn đứng hạnh phúc mà Thiên Chúa muốn mọi người chúng ta được hưởng. Tình yêu cứng rắn (tough love) chỉ hũu hiệu khi người ta biết ta yêu họ. Điều này cần nhiều thời gian. Những lời “có”, tích cực, phải được thiết lập vững vàng trước khi đưa ra các lời “không”, tiêu cực.
Chúa Giêsu chưa bao giờ quở mắng Giuđa. Thậm chí, Người không bao giờ lột mặt nạ hắn. Người biết hắn đang bán đứng Người, nhưng Người vẫn tế vi thương yêu hắn đến nỗi các môn đệ khác không hay biết gì. Người giữ cho mối liên hệ cứ tiếp tục cho tới lúc kết thúc, khi Người để mình bị phản bội bằng một cái hôn.
Tiến sĩ nghĩ rằng điều còn tốt đẹp hơn nữa là để các thiếu niên sống cuộc sống đức tin của họ một cách thoải mái đến có thể thành thực nói, không phải từ một sách giáo khoa hộ giáo, rằng “tuân theo các giáo huấn của Giáo Hội đem lại cho tôi sự thỏa mãn đích thực, sâu sắc và bền lâu. Tôi muốn bạn cũng được hưởng một thỏa mãn như thế. Chúa Kitô và Giáo Hội chỉ muốn điều tốt nhất cho chúng ta, còn x, y hay z chỉ khóa kín con đường dẫn ta tới hạnh phúc. Mà dù bạn nghĩ bạn đang hạnh phúc đi chăng nữa, vẫn còn một bình diện thỏa mãn hết sức lạ lùng hơn nữa mà bạn chưa cảm nghiệm được”. Đây là một phương cách có tính thách thức hơn nhiều và đòi hỏi nhiều can đảm hơn là chỉ nói sự thật. Vì nó đòi ta phải sống Đức Tin đến có thể biến đổi được cuộc sống hàng ngày.
Thành thử Voris đúng khi chỉ trích các thiếu niên yếu ớt, nhưng không ai muốn họ dạn dĩ đến trở thành một thế hệ Công Giáo chủ trương rằng rao giảng chân lý bằng cách chỉ trích tác phong của người khác là cách phúc âm hóa duy nhất hoặc hay nhất.
Khi phúc âm hóa, ta luôn mong cho người khác được hạnh phúc bao nhiêu có thể. Đó là động cơ của ta. Nhưng, người ta không bao giờ chấp nhận một điều “không”, một điều tiêu cực, cho tới khi họ hiểu điều “có”, điều tích cực, mà vì nó bán mọi sự để mua lấy cũng đáng.
Phúc Âm hóa bằng tình yêu
Đài Phát Thanh Vatican thì thuật lại buổi yết kiến Đức Phanxicô của khoảng 8,000 thành viên của Neocatechumenal Way (Con Đường Tân Dự Tòng) trong những ngày vừa qua. Với những lời cầu nguyện và chúc lành sốt sắng, Đức Thánh Cha đã sai họ ra đi tới mọi quốc gia trên thế giới “để công bố và làm chứng cho Tin Mừng”. Ngài dặn dò họ: “trước hết, hãy hết sức quan tâm tới việc xây dựng và duy trì hiệp thông trong các Giáo Hội đặc thù nơi các con sẽ làm việc… Điều này có nghĩa phải lưu ý tới sinh hoạt của các Giáo Hội này, thăng tiến các phong phú của họ, chịu đựng các yếu đuối khi cần, và cùng tiến bước với họ, như một đàn chiên, dưới sự hướng dẫn của các mục tử địa phương…”
Thứ hai, “bất cứ các con đi đâu, cũng nên nghĩ rằng Chúa Thánh Thần luôn đi trước chúng ta… Dù là ở chỗ xa xôi nhất, trong các nền văn hóa đa dạng nhất, Thiên Chúa gieo vãi ở mọi nơi các hạt giống của Lời Người. Thành thử, điều cần là phải lưu tâm đặc biệt tới ngữ cảnh văn hóa trong đó các con sẽ làm việc…”
Thứ ba, “Cha khuyên các con hãy âu yếm chăm sóc cho nhau, nhất là đối với những người yếu ớt nhất… Thực hành đức nhẫn nại và lòng từ tâm là dấu chỉ sự trưởng thành trong đức tin”. Phải tôn trọng những người đi tìm các hình thức sống Kitô Giáo khác với các hình thức của tổ chức mình, miễn nó giúp họ lớn mạnh trong ơn gọi của Chúa.
Đức Thánh Cha kết luận bằng cách kêu gọi các thành viên của Con Đường Tân Dự Tòng rằng “Hãy phúc âm hóa bằng tình yêu, đem mọi người tới tình yêu Thiên Chúa. Hãy nói cho mọi người các con sẽ gặp trên đường sứ vụ rằng con người có ra sao Thiên Chúa vẫn yêu thương họ như vậy, dù họ có giới hạn, có lỗi lầm, có tội lỗi bao nhiêu. Chính vì thế, Thiên Chúa đã sai Con của Người xuống, để Người Con này gánh lấy hết các tội lỗi của ta trên vai. Hãy là các sứ giả, các chứng nhân của lòng tốt vô biên và lòng nhân hậu khôn tả của Chúa Cha”.
Vũ Văn An5/13/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét