Ngày 29 tháng 12
(Trong Tuần Bát Nhật Lễ
Chúa Giáng Sinh)
Bài
Ðọc I: 1 Ga 2, 3-11
"Ai
thương yêu anh em mình thì ở trong sự sáng".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các
con thân mến, chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa
Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ
giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời
Người, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy, và nhờ
điều đó mà chúng ta biết được chúng ta ở trong Người. Ai nói mình ở trong Người,
thì phải sống như Người đã sống.
Các
con thân mến, đây không phải là một giới răn mới mà cha viết cho các con, nhưng
là giới răn cũ các con đã có từ ban đầu. Giới răn cũ đó, là lời các con đã nghe
rồi. Nhưng đây cha lại viết cho các con một điều răn mới, là điều chân thật nơi
Người và nơi các con, vì tối tăm đang qua đi, và sự sáng đã soi đến rồi.
Ai
nói mình ở trong sự sáng, mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong tối tăm.
Ai thương yêu anh em mình, thì ở trong sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp
phạm. Còn ai ghét anh em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không
biết mình đi đâu, vì tối tăm đã làm mù mắt họ.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 5-6
Ðáp: Trời xanh hãy
vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c. 11a).
Xướng:
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa
cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2)
Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa
chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
3)
Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.
Sáng láng và oai nghiêm toả trước thiên nhan, uy hùng và tráng lệ phủ trên ngai
báu. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cư ngụ giữa chúng ta. Những ai
tiếp nhận Người, thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 2, 22-35
"Ánh
sáng đã chiếu soi các lương dân".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành
Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi
con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc
dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ
câu con".
Và
lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có
lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông
được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng
Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ
Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người
trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy
Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt
con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu
soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha
mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai
ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến
cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục
tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà,
để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Niềm
Tin
Theo
một câu chuyện cổ nước Anh, liên tục trong 500 năm liền. Cứ mỗi đêm Giáng Sinh
dân chúng tại một thành phố nọ đều tập trung lại không phải để mừng ngày sinh của
Chúa mà để chờ đợi ngày Ngài trở lại.
Ðúng
nửa đêm, họ đốt đèn, hát Thánh Ca rồi đi kiệu đến một ngôi giáo đường đổ nát. Tại
đây, họ dựng vội lên một hang đá với một máng cỏ bên trong, và với tất cả lòng
thành họ quì gối cầu nguyện. Ánh nến cũng như những bài thánh ca như xua đuổi
được cái lạnh của đêm Giáng Sinh. Trừ những người ốm đau tàn tật, tất cả mọi
người trong thành phố đều có mặt tại đó, ai cũng được thúc đẩy bởi một niềm tin
chắc chắn rằng: nếu tất cả mọi người trong thành phố đều có mặt tại đó trong
đêm Giáng Sinh, và nếu tất cả đều cầu nguyện với lòng thành tín, thì đúng nửa
đêm Chúa Giêsu sẽ trở lại.
Từ
500 năm qua, cứ mỗi đêm Giáng Sinh, mọi người đều đến ngôi thánh đường đổ nát ấy
để cầu nguyện theo ý hướng ấy. Nhưng ngày trở lại của Chúa Giêsu vẫn chưa xảy đến.
Khi được hỏi: bạn có thực sự tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong đêm Giáng
Sinh tại thành phố của bạn không? Một trong những nhân vật chính trong câu chuyện
trả lời như sau:
-
Không, tôi không bao giờ tin như thế.
-
Vậy tại sao bạn lại đến đây mỗi đêm Giáng Sinh?
Nhân
vật này mỉm cười trả lời:
-
Giả như Ngài thực sự trở lại trong đêm đó, và tôi là người duy nhất vắng mặt
thì sao?
*
*
*
Quí
vị và các bạn thân mến,
Nhân
vật chính trong câu chuyện trên đây quả thật không có một niền tin siêu nhiên,
nhưng ít ra người này còn có một niềm tin nào đó. Ðể có thể tiếp tục sống, con
người cần có một niềm tin nào đó. Mới đây một vị mục sư Anh Giáo, tại một nhà
thờ Anh Quốc đã phải công khai xin lỗi các trẻ em vì ông ta quả quyết rằng
không hề có ông già Noel. Ông nói với các em rằng: Người tặng quà cho các em
trong đêm Giáng Sinh không phải là ông già Noel mà chính là cha mẹ các em. Các
em bé đã khóc sướt mướt khiến cho cha mẹ các em đã phải lên tiếng phản đối, và
cuối cùng vị mục sư này đã công khai đính chính. Nếu không có ông già Noel thì
thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?
Ông
già Noel có thật, và ông già Noel cần thiết cho tâm hồn bé thơ trong trắng của
trẻ em cũng như niềm tin cần thiết cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta cần có
niềm tin để tiếp tục sống. Chúng ta cần có niềm tin để vượt qua những nghịch cảnh
và thử thách trong cuộc sống và nhất là chúng ta cần có niềm tin để trở thành
điểm tựa cho không biết bao nhiêu người đang mò mẫm tìm kiếm cũng như tất cả những
ai đang rơi vào chán nản thất vọng.
Lạy
Chúa, niềm tin của chúng con đã có lúc chao đảo vì những khó khăn của cuộc sống.
Chúa đã sinh ra để cho cuộc sống của chúng con có ý nghĩa. Xin soi sáng và hướng
dẫn chúng con những lúc chúng con phải đi qua những tăm tối của cuộc sống.
Xin
hâm nóng niềm tin của chúng con, để tất cả những ai đang lao đao vấp ngã đều gặp
được niềm hy vọng khi nhìn vào chúng con. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 29 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:3-11; Lk
2:22-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết Thiên Chúa là
bước đi trong đường lối của Ngài.
Quan
niệm về “biết” của người Việt-Nam gần gũi với người Do-Thái hơn Hy-Lạp. Người
Hy-Lạp quan niệm biết là họat động của tri thức, trong khi người Do-Thái quan
niệm biết phải ảnh hưởng đến đời sống. Người Việt-Nam chúng ta quan niệm “tri
hành phải đồng nhất” thì mới mang lại kết quả tốt đẹp cho con người, và chúng
ta đặt tầm quan trọng trên việc làm hơn là lời nói: “lời nói mới lung lay,
nhưng gương bày lôi kéo.” Biết mà không làm, có lợi chi đâu?
Các
Bài đọc hôm nay đặt trọng tâm vào việc biết Thiên Chúa là phải bước đi trong đường
lối của Người. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan làm sáng tỏ quan niệm “biết Thiên
Chúa” cho người Hy-Lạp. Theo ngài, biết Thiên Chúa không phải chỉ thuần tri thức,
nhưng liên quan đến đời sống luân lý của người tin. Ngài quả quyết: “Ai nói rằng
mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và
sự thật không ở nơi người ấy.” Trong Phúc Âm, Thánh Luca nêu lên những tấm
gương của những người biết và sống theo đường lối của Thiên Chúa: Thánh Giuse,
Đức Mẹ Maria, và cụ già Simeon.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
1.1/
Hai lối hiểu biết khác nhau: Khi Kitô Giáo vượt qua lãnh thổ Do-Thái tràn vào Hy-Lạp,
Thánh-sử Gioan phải đương đầu với sự hiểu biết và lý luận của người Hy-Lạp; một
trong những điều ngài phải làm sáng tỏ là quan niệm “biết Thiên Chúa.”
(1) Theo Hy-Lạp: Biết Thiên Chúa là
lãnh vực của trí tuệ, chứ không phải là lãnh vực của luân lý; vì thế, một người
có thể nói mình biết Thiên Chúa mà không cần giữ giới răn của Ngài. Đối với người
Hy-Lạp, con người có thể tự mình giải thóat bằng kiến thức và suy luận
(Gnosticism, chủ thuyết thuần tri thức).
(2) Theo Do-Thái: Biết Thiên Chúa là
bước đi theo đường lối của Ngài, là giữ cẩn thận các giới răn của Ngài. Đó là
lý do tại sao ngài cắt nghĩa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng
ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng
mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và
sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu
Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang
ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường
Đức Giêsu đã đi.”
1.2/
Giới răn yêu thương vừa cũ vừa mới: “Anh em thân mến, đây không phải là một điều răn mới
tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ mà anh em đã có ngay từ lúc khởi
đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. Nhưng đó cũng là một điều răn mới
tôi viết cho anh em, điều ấy thật là thế nơi Đức Giêsu và nơi anh em, bởi vì
bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.”
(1) Là giới răn cũ: vì đã được nhắc tới
ngay từ đầu. Sách Levi có giới răn này: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính
mình” (Lev 18:19).
(2) Là giới răn mới: vì được thực hiện bởi
Đức Kitô (Jn 13:34). Có những cái cũ, nhưng trở nên mới vì người thực hành nó;
chẳng hạn, bài nhạc cũ nhưng được trình bày theo lối mới. Cũng vậy, khi Đức
Kitô sống giới răn yêu thương, Ngài mở ra cho con người một chân trời hòan tòan
mới. Ngài mở rộng giới răn yêu thương tới tội nhân và kẻ thù. Ngài dạy: “không
có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người dám thí mạng sống cho người
mình yêu.” Ngài đã đi trước làm gương cho con người bằng cái chết trên Thập
Giá.
1.3/
Ánh sáng và bóng tối: Thánh
Gioan đồng nhất:
-
Ánh sáng là yêu thương: “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và
nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm.”
-
Bóng tối là hận thù: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em
mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối... Ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối
và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người
ấy ra mù quáng.”
2/
Phúc Âm:
Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên Chúa.
2.1/
Gia Đình Thánh tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của
các ngài theo luật Moses, Bà Maria và Ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến
dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải
được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật
Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
2.2/
Ông Simeon tin vào Lời Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1)
Ông Simeon là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của
Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết
là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được
Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
(2)
Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng
Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi
tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn
cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel
Dân Ngài."
2.3/
Ông Simeon nói tiên tri:
(1)
Về con trẻ: “Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng
dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ
thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là
hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của
Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối
không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy
là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi
được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2)
Về Mẹ Maria: “Còn
chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu
là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ
lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải chứng minh việc biết Thiên Chúa bằng đời sống chứng nhân: tuân giữ
những gì Thiên Chúa truyền dạy.
-
Giới răn quan trọng nhất Thiên Chúa dạy chúng ta là “mến Chúa yêu người.” Chúng
ta không chỉ biết giới răn này, nhưng phải mang ra áp dụng trong cuộc đời và với
mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH
(26/12 đến 1/1)
Lc 2,28-35
A. Hạt giống...
Trong dịp đem Đức Giêsu dâng trong Đền thờ, Thánh
Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh Thần soi sáng cho biết trẻ Giêsu chính
là Đấng Messia cho nên toại nguyện vì gặp được Ngài. Cụ nói Chúa Giêsu là “ánh
sáng soi đường cho dân ngoại”
B.... nẩy mầm.
1. Sau cả một đời chờ mong, cụ già Simêon sung
sướng thỏa mãn đến nỗi sẵn sàng chết cũng được, bởi vì cụ đã được thấy Đấng Cứu
thế và biết rằng thời đại cứu thế đã khai mở.
Phần tôi, tôi đang sống trong thời đại cứu thế,
thời Tân Ước. Thế nhưng sao tôi không cảm thấy sung sướng và thỏa mãn. Có lẽ vì
tôi chưa hiểu được những hồng ân của Thiên Chúa.
Xin cho con hiểu được diễm phúc được sống thời
Tân Ước. Xin ban cho con niềm vui và tâm tình tri ân cảm tạ.
2. Theo lời tiên tri của cụ già Simêon, Đức Giêsu
là một dấu gây chia rẻ : kẻ thì theo, người thì chống đối ; kẻ theo
thì đứng lên, người chống thì té ngã.
Cụ đã nói rất đúng. Ngay trong chính bản thân
tôi, có khi tôi theo Chúa và có khi tôi chống Ngài. Lúc theo Ngài tôi được vững
vàng, tôi đứng lên ; khi chống Ngài, tôi ngã lên ngã xuống.
Xin giúp con, trong cuộc chiến đấu nội tâm, biết
chọn theo phía Chúa.
3. Bài ca Nunc dimittis này được Giáo Hội chọn
đọc trong giờ kinh tối mỗi ngày. Ước gì tôi sống làm sao để tối đến, trước lúc
lên giường nằm ngủ, tâm hồn tôi luôn cảm thấy an bình thanh thản, đến nỗi có
thể giã từ cõi thế mà ra đi ngay trong đêm đó cũng được.
4. “Ông Simêon nói với bà Maria : “Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay
được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34)
Những cư dân của ngôi nhà tập thể số 5 đã đánh
mất một điều quý giá của cuộc sống là lòng tốt và người tốt. Họ đã mất Hiệp,
một người thẳng thắn, trung thực, hết lòng yêu thương giúp đỡ mọi người, kiên
quyết chống lại gian trá, xu nịnh, bất công, luôn mời gọi mọi người trở nên tốt
hơn, hoàn thiện hơn. Thế mà họ đã chế diễu, chối từ, bỏ mặc anh vất vưởng giữa
những khó khăn, thất bại, đẩy anh đến chỗ phải ra đi trong cô đơn, tuyệt vọng.
Đức Giêsu cũng đã đến để yêu thương, cứu giúp mọi
người. Ngài vốn là Thiên Chúa cao sang nhưng đã trở nên thấp hèn để nâng đỡ con
người lên. Nhưng cuối cùng Ngài đã bị con người đóng đinh thập giá, bỏ mặc
trong cái chết đau đớn và tủi nhục.
Xin cho con luôn tiếp bước theo Chúa trên con
đường yêu thương, dẫu có bị người đời chống báng hay chối từ. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI
29/12/14 THỨ HAI TRONG
TUẦN BÁT NHẬT GS
Lc 2,22-35
Lc 2,22-35
Suy niệm: Tuân
thủ Luật Mô-sê, Giu-se và Ma-ri-a đem Con lên Đền Thờ dâng lên Thiên Chúa.
Trong Đền Thờ hôm ấy, chắc hẳn cũng có đông dân chúng; và cả những tư tế, những
người Pha-ri-sêu, những thầy thông luật… nữa. Họ cũng đã nhìn thấy Hài Nhi Giê-su trong tay Mẹ Ma-ri-a, nhưng đã chẳng có ai trong số họ nhận ra Giê-su Bé Thơ đó là Ai! Bởi họ sống trong bóng tối! Cần phải có ánh
sáng Đức Tin mới có thể phá tan bóng tối này. Cụ Si-mê-on vì tin nên đã mong
đợi, và cụ đã không mong đợi luống công. Hôm nay, cũng nhờ tin mà niềm mong đợi
trở thành cuộc gặp gỡ kỳ diệu: cụ nhận ra Hài Nhi chính là Giê-su, Đấng Cứu
Thế. Cụ bồng ẵm Hài Nhi trên tay và vui mừng tuyên xưng Đức Tin: “Xin cho tôi tớ được an bình ra đi. Vì chính
mắt tôi đã được thấy ơn Cứu Độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”.
Mời Bạn: Chúng
ta hãy cùng với cụ Si-mê-on vào Đền Thờ để gặp Đức Giê-su Thánh Thể. Chúng ta
đón chào và rước Người ngự vào trong tâm hồn chúng ta. Cũng như Si-mê-on, hãy
ẵm bế Giê-su vào lòng và thân thưa cùng Thiên Chúa: “Xin cho tôi tớ Ngài được an bình ra đi…” Đối với chúng ta, ra đi còn có nghĩa là được thoát khỏi vòng kiềm toả của tội lỗi và
được an bình tránh xa vương quốc của sự Dữ và hân hoan ra đi để loan báo Tin Mừng.
Sống Lời Chúa: Tôi
sống lại tâm tình của ông Si-mê-on mỗi khi rước Chúa Giê-su Thánh Thể.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con được an bình ra đi. Vì chính mắt con đã
được thấy ơn cứu độ.”
Ơn cứu độ cho muôn dân
Để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,
chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon
Suy niệm:
Luật
lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do.
Người
Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê.
Con
trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21).
Con
trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2),
nên
cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế
để chuộc
lại con cho mình (Ds 3,47-48).
Người
phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8),
phải ở
nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ.
Bốn
mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy.
Bà phải
dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu,
và một
con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội.
Nếu
nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.
Giuse
và Maria đã vui vẻ giữ những luật này,
dù ngày
nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận.
Hãy
nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem.
Họ đã
vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi.
Maria
chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh.
Bà đã
dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24).
Dù Luật
không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng.
Họ muốn
con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22).
Ông bà
đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào.
Giữ
Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.
Có ai
nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không?
Có, một
người công chính và sùng đạo tên là Simêon.
Thánh
Thần hằng ngự trên ông (c. 25),
và nói
cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26).
Chính
Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27).
Bỗng
nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng,
nơi Hài
Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo.
Mọi
mong chờ lâu nay của ông được đền đáp.
Các mục
đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ,
còn
Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng.
Ông đã bồng
Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc.
Môi ông
bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi.
Ơn cứu
độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31).
Hài Nhi
bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân,
là Vinh
quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).
Để nhận
ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày,
cần có
sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.
Thánh
Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong.
Thánh
Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy.
Nhưng
để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,
chúng
ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon.
Chẳng
còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho
con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên
con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa
hiện diện lặng lẽ
như tấm
bánh nơi nhà Tạm,
nhưng
Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những
người sống không ra người.
Chúa
hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng
Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ
nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa
hiện diện nơi Giáo Hội
gồm
những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa
cũng ở rất sâu
trong lòng từng kitô hữu.
Lạy
Chúa Giêsu,
xin cho
con thấy Chúa
đang
tạo dựng cả vu trụ
và đang
đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho
con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ
có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
29
THÁNG MƯỜI HAI
Đến
Gần Bởi Đức Tin
Mầu
nhiệm Giáng Sinh soi sáng chúng ta thấy rõ tiếng gọi mời người Kitôhữu yêu
thương anh chị em mình bằng tình yêu huynh đệ. Đến với nguồn suối ân sủng và
yêu thương bất tận này, chúng ta được mời gọi tiến đến cảm nếm bằng con mắt đức
tin và bằng sự khôn ngoan đích thực.
Sự
khôn ngoan cho chúng ta biết bằng cách nào chúng ta có thể sống như anh chị em
của nhau, rút ra nguồn cảm hứng và năng lực từ mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.
Thật vậy, khi chúng ta tiến tới gần Bê-lem hơn, chúng ta thấy Thiên Chúa của
mình bé nhỏ biết bao. Vốn là Đấng cao cả vô hạn, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống
làm một đứa trẻ thấp hèn. Ngài giống chúng ta mọi sự, dù Ngài là Thiên Chúa.
Thiên
Chúa đã tự đồng hóa với chúng ta và đến ở gần chúng ta quá đỗi! Nếu chúng ta đến
với Ngài ở Bê-lem với lòng đơn sơ và với sự khôn ngoan của những người chăn
chiên và những nhà đạo sĩ ấy, Đức Giêsu sẽ dạy cho ta biết cách đến gần gũi mọi
người, bắt đầu từ những người bé nhỏ thấp hèn nhất – để chúng ta có thể giúp mọi
người sống cho Thiên Chúa.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
29-12.
Thánh
Tôma Becket, Giám mục tử đạo
1Ga
2,3-11; Lc 2,22-35.
LỜI
SUY NIỆM: “Muôn lạy Chúa, giờ
đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này ra đi, vì chính mắt con được thấy
ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân.”
Thiên
Chúa hằng yêu thương hết mọi con người, đặc biệt với những người tội lỗi; nhưng
Thiên Chúa lại thường chúc phúc, ân thưởng cho những người công chính đạo đức
kính thờ một mình Ngài; như tiên tri Si-mê-on đã nhận được “Lời Hứa” và Thánh
Thần Thiên Chúa đã hướng dẫn thánh nhân nhận ra Hài Nhi Giêsu chính là Đấng Cứu
độ trần gian, và thánh nhân đã được ẳm bồng trên tay của mình, với sự mãn nguyện.
Lạy
Chúa Giêsu, Mọi ngày Chúa đang hiện diện trong Nhà Tạm và trong Thánh lễ. Xin
cho mọi thành viên trong gia đình chúng con sốt sắng chạy đến với Chúa, để lãnh
nhận thêm sức mạnh thiêng liêng Chúa ban, để được vui sống, và đem lại hạnh
phúc cho gia đình.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
29-12: Thánh TOMA BECKET
Giám
Mục Tử Đạo - (1118 - 1170)
Thánh
Toma Becket sinh ra tại Luân Đôn năm 1118. Cha Ngài, ông Gibert Becket, là một
hiệp sĩ người Normandy, đã trở thành thương gia giàu có ở Luân Đôn. Mẹ Ngài
cũng là người Normandy. Ngài có ít là hai chị em mà một người sau này làm tu viện
trưởng Barking. Ngài thừa hưởng từ người mẹ lòng đạo đức, lòng sùng kính Đức Mẹ
và lòng quảng đại đối với người nghèo khó.
Từ
người cha, Toma Becket thừa hưởng một tính khí kiêu hùng và cương quyết. Dáng
người cao ráo, đẹp trai, hấp dẫn và thông minh. Sau khi theo học tại Oxford, Đức
Tổng giám mục Cantebury là Thaobald đã triệu mời Ngài làm quản trị, lo những
chuyện liên hệ với Roma. Toma Becket đã kể ra đáng kể đến nỗi vua Henri II đã đặt
Ngài làm chưởng ấn của vương quốc. Ngài thường khoe khoang, ngựa giòng chim
ưng, chó quí là bạn thân của Ngài. Bù lại sự xa hoa này, Ngài đã tỏ ra quảng đại
nhiều với những hy sinh thầm kín. Ngài cũng rất hiếu chiến và dùng đến các quyền
hạn của hoàng tử mình, Ngài đã tỏ ra có giá trong một trận chiến gần Toulouse.
Ngài còn tự lượng sức trong một trận chiến đấu đơn với một hiệp sĩ danh tiếng
người Pháp.
Tổng
giám mục Theobald qua đời, và Toma được chọn làm kế vị bất kể sự chống đối Chúa
hàng giáo sĩ khi thấy "một người thế tục và ồn ào như vậy" được đưa
lên tòa giám mục.
Trong
khi đó, Toma Becket đã tiên báo cho nhà vua biết rằng: - "Thưa Ngài, nếu
Chúa cho phép tôi làm Tổng giám mục Canterbury, tôi sẽ hết được Ngài sủng ái.
Ngài sẽ đòi tôi nhiều điều, và Ngài đã làm nhiêu điều chống lại Giáo hội mà tôi
sẽ không thể chịu nổi. Tình cảm của Ngài sẽ sớm đổi thành thù hận không chấm dứt
nổi.
Nhưng
nhà vua vẫn muốn thấy Ngài lên ngai giám mục. Ngày 3 tháng sáu năm 1162, Toma
Becket đã thụ phong linh mục và ngày hôm sau được tấn phong giám mục. Kẻ nô bộc
của các hoàng tử đã trở thành nộ bộc của Giáo hội, và chỉ còn muốn giữ vẻ xa
hoa bên ngoài, Ngài trở nên khiêm tốn hơn, mặc áo nhặm, tha thiết yêu thương kẻ
nghèo và xa cách đối với người giàu. Những nhưng điều lo ngại của thánh nhân
không tự biện minh mãi được.
Vua
Henri II bóp nghẹt sự tự do của các tác viên Giáo hội, muốn bắt chàng giáo sĩ
nước Anh phải phục thẩm quyền các tòa án hoàng gia, tước đoạt kho tàng của dân
nghèo. Trước ý muốn của nhà vua, các vị giám mục ngập ngừng, nhiều vị khứng chịu.
Nhưng Tổng giám mục Canterbury không để mình bị quyến dũ. Tức giận, nhà vua triệu
vời các giám mục vương quốc lại.
Trong
căn phòng tụ họp, hiện ra những con người mang khí giới như s ẵn sàng tiêu diệt
các Ngài. Các giám mục và các lãnh Chúa kinh hoàng khấn nài xin vị giáo chủ nhượng
bộ.
Để
cứu những người chung quanh, Toma Becket như nửa ưng thuận, đã xin hoãn lại để
nghiên cứu vấn đề. Ngài viết thư cho đức Thánh Cha xin phán định. Đức Thánh Cha
đã kết án tất cả những ai đã phát thệ. Thế là Toma Becket đã rút lại lời một
cách cao thượng. Nhà vua bắt bớ Ngài. Đáp lại các lời tố cáo, Ngài tỏ ra cương
quyết và luôn giữ được tâm hồn thanh thản. Thất vọng nhà vua hô hoán: -
"Hoặc là ta mất ngôi, hoặc là con người ấy không còn là tổng giám mục nữa".
Các
hiệp sĩ gọi Ngài là kẻ bội phản. Toma Becket đã trả lời cho một người trong bọn
họ: "Nếu đôi tay này không phải là đôi tay của một linh mục thì ông
phải biết".
Trong
một công đồng ở Nerthampton năm 1164, Ngài lại tỏ ra chống đối và khi bị đe dọa
đếng mạng sống hoặc tù tội. Một đêm kia, Ngài đã tàng hình để thoát thân. Lang
thang nhiều ngày, Ngài tới bờ biển và được một thuyền đánh cá tiếp nhận Ngài
đang lúc mệt nhọc đến đứt hơi và đưa qua Pháp.
Vua
Lu-y VII đã hân hạnh tiếp đón vị tổng giám mục Caterbury, ông nói: - "Nước
Pháp có thói quen nuôi dưỡng vbảo vệ những người chịu đau khổ, nhất là những
người bị lưu đày vì công chính".
Vị
giáo chủ lưu ngụ tại tu viện Pontiguy và tăng gấp nếp sống khắc khổ, đến nỗi có
thể nói được đây là cuộc "Hoán cải thứ nhì, từ đạo đức tới thánh thiện".
Ngài có giờ để cầu nguyện và suy gẫm. Ngài tuân theo luật và nếp sống của tu viện.
Dầy vậy cuộc trả thù của nhà vua vẫn tiếp tục. Cha mẹ và bạn hữu Ngài bị tước hết
tài sản, bị trục xuất tới số 400 người. Họ buộc lòng phải đến với Ngài, làm
thành một đoàn người đáng thương. Toma Becket rất nhiệt thành năng đỡ người
nghèo. Lần này bất lực vì không thể giúp đỡ được những người thân yêu nhất đang
bị khổ cực vì mình. Sau cùng, vua Henri loan báo là sẽ tiêu diệt mọi nhà dòng
Xitô, nếu một nhà dòng Xitô nào còn tiếp tục dung duõng Ngài. Toma Becket liền
đến một nữ tu viện Bênedictô ở Sens. Những năm tháng đau khổ và trơ trọi nối tiếp
nhau.
Trong
khi đó, nhà vua bị Đức Thánh Cha đe dọa, tỏ ra muốn giao hòa với vị Tổng giám mục
vào những tháng cuối cùng năm 1169. Một thứ hòa hoãn chẳng dễ gì. Nhưng vị giáo
chủ đã nói với những người muốn ngăn cuộc hồi hương của mình rằng: -
"Dù có biết chắc mình sẽ bị chặt thành trăm mảnh, tôi vẫn trở về. Đã sáu
năm rồi, đoàn chiên của tôi vắng bóng chủ chăn".
Ngài
tạo thêm nhiều thù địch khi đưa ra những sắc lệnh huyền chức những vị giám mục
muốn chống đối lại Ngài. Khi tới Canterbury, dân chúng chen lẫn nhau giữa những
khúc thánh ca và những hồi chuông đổ dồn để đến lãnh phép lành của Ngài. Những
lời đầu tiên Ngài nói trên tòa giảng là: - "Tôi đã tới để chịu chết giữa
anh em".
Nhà
vua tức giận với cuộc trở về khải hoàn này của Toma Becket, một con người không
thể lay chuyển trong mọi việc bảo vệ những quyền tự do của Giáo hội. Người ta
nghe thấy vua Henri kêu lớn: - "Không có được lấy một người trong số những
kẻ hèn ta nuôi dưỡng đây gỡ cho chúng ta người giáo sĩ ngạo mạn này sao ?"
Khi
ấy có bốn hiệp sĩ đi Canterbury. Họ gặp vị giáo chủ trong căn phòng gần nhà thờ
chính tòa với các linh mục và tu sĩ. Họ nhục mạ Ngài, nhưng Ngài nói: - "Đừng
mất thời gian đe dọa tôi. Để sát cánh chiến đấu, các người sẽ thấy tôi luôn
luôn ở trong trận chiến của Chúa".
Các
hiệp sĩ hùng hổ đi ra. Các giáo sĩ trách Ngài làm cho họ phải chết. Toma Becket
không trốn tránh, Ngài nói với họ: - "Tất cả chúng ta hoặc phải chết. Đừng
để sự sợ hãi làm cho chúng ta xa rời sự công chính. Tôi sẵn sàng chết vì tình
yêu Chúa mà những người này giết tôi không phải vì tình yêu như vậy".
Và
khi nghe bước chân và tiếng kêu của các hiệp sĩ có võ trang, Ngài leo lên thang
nhà thờ chính tòa Ngài nói: - "Tôi ra tiền tuyến".
Trả
lời cho những lăng nhục, Ngài nói: - "Tôi không phải là kẻ phản bội, nhưng
là một linh mục. Tôi sẵn sàng vì Danh đấng đã lấy máu cứ chuộc tôi ... Nhưng vì
Danh Thiên Chúa, đừng động tới những người này của tôi".
Dựa
lưng vào cột, Đức Tổng giám mục chống lại những người muốn đưa Ngài đi, đẩy những
người tấn công ngã soài xuống đất: "Tôi không đi đâu hết, hãy làm việc đó ở
đây đi".
Những
người khác ngập ngừng. Vị tử đạo lớn tiếng phú mình cho Chúa và Giáo hội:
"Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa".
Hai
nhát gươm tiếp liền. Toma Becket ngã xuống miệng còn nói: - "Vì danh Chúa
Giêsu và vì Giáo hội, tôi bằng lòng chịu chết". Và Ngài nằm chết cạnh bàn
thờ.
Cái
chết của Đức tổng giám mục làm chấn động lương tâm toàn thể Chân Au. Các phép lạ
được phổ biến trên mộ Ngài. Đức Alexander III năm 1173 đã phong Ngài làm thánh
tử đạo. Nhà vua đã thống hối công khai bên mộ Ngài và những gì khiến thánh nhân
chịu khổ đã được sua sai nhờ cái chết của Ngài. Canterbury trở thành nơi hành
hương thứ nhì sau Rôma.
(daminhvn.net)
29
Tháng Mười Hai
Hoàng Tử Và Cậu Bé
Nghèo
Văn
hào Anh Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một quyển tiểu thuyết mang tựa đề
"Hoàng tử và cậu bé nghèo". Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống
hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward,
hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé
con nhà nghèo.
Một
ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào
thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình
mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ
bên cạnh những người cùng cực nhất trong xã hội.
Thế
nhưng một lúc nào đó, hai cậu bé cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu
lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ quần áo
rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối
ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế là hoàng tử Edward đành
phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.
Giữa
lúc Tom, cậu bé nghèo, sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất
hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu.
Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường
xó chợ với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và
giàu lòng thương người.
Cũng
giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị
thế với chúng ta. Ngài mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được
mang lấy tước phẩm được làm con Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với
chúng ta sự sống thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy
của kiếp sống khổ đau của con người.
Mang
lấy trong thân xác Ngài khổ đau của nhân loại, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với
từng người, nhất là những người khổ đau. Ðồng hóa mình với những người đau khổ,
Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta con đường để gặp gỡ Ngài: Ngài hiện diện trong
những đau khổ, bé mọn nhất. Tiếp rước những người đó chính là tiếp rước Ngài.
Thiên
Ðàng là một gặp gỡ triền miên với Chúa, nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ được chuẩn bị
bằng những gặp gỡ của chúng ta với tha nhân, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúng
ta khước từ tha nhân, chúng ta cũng khước từ chính Chúa.
Tha nhân là Bí Tích của Thiên Chúa. Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra và yêu mến Chúa.
Tha nhân là Bí Tích của Thiên Chúa. Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra và yêu mến Chúa.
Nơi
bàn thờ, vị linh mục đọc lại lời của Chúa Giêsu: này là Mình Ta, này là Máu
Ta... Khi chỉ cho chúng ta mỗi một con người, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ nói:
"Này là Mình Ta...".
Thánh
lễ là một cuộc gặp gỡ với Chúa. Cuộc gặp gỡ này chỉ có ý nghĩa và giá trị nếu
trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng biết nhận ra Chúa trong từng cuộc gặp
gỡ với tha nhân... Xin Chúa thêm Ðức Tin để chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu
trong tha nhân, nhất là những người cùng khổ, bé mọn trong xã hội.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét