Ngày 22 tháng 12
Mùa Vọng
Bài
Ðọc I: 1 Sm 1, 24-28
"Bà
Anna tạ ơn Chúa vì được sinh Samuel".
Trích
sách Samuel quyển thứ nhất.
Ngày
ấy, sau khi đã cho Samuel dứt sữa, bà Anna liền bắt một con bò ba tuổi, lấy ba
cân bột, một vò rượu, và dẫn con đến nhà Chúa ở Silô. Con trẻ lúc đó còn nhỏ
bé. Họ tế lễ con bò và dâng con trẻ cho ông Hêli. Anna thưa: "Kính lạy
ngài, chúc ngài khang an! Tôi là người đàn bà nọ đã đứng cầu xin Chúa nơi đây
trước mặt ngài. Tôi đã cầu xin vì trẻ này, và Chúa đã cho tôi được như tôi xin.
Vậy tôi xin dâng lại cho Chúa, trót mọi ngày nó thuộc về Chúa". Và họ thờ
lạy Chúa ngay ở đó.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8abcd
Ðáp: Lòng tôi nhảy
mừng trong Chúa cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng:
1) Lòng tôi nhảy mừng trong Chúa, khí phách tôi hướng lên Thiên Chúa của tôi,
miệng tôi rộng mở chống quân thù, tôi vui mừng vì Chúa cứu độ tôi. - Ðáp.
2)
Cung nỏ người hùng bị bẻ tan, người kiệt sức lại nai nịt dũng khí; kẻ no đầy
nay làm thuê vì miếng bánh, người đói lả nay lại được no nê. Người son sẻ lại
con đàn cháu đống, kẻ nhiều con lại trở nên héo tàn. - Ðáp.
3)
Chúa cho chết và Chúa làm cho sống, cho đi xuống mồ rồi lại đem lên, làm cho
nghèo rồi cho nên giàu có, hạ xuống thấp rồi lại nhắc lên cao. - Ðáp.
4)
Cho kẻ bần cùng đứng dậy khỏi bụi tro, nâng cao kẻ nghèo khỏi phân nhơ rác rến,
cho ngồi chung với vua quan tướng lãnh, đặt cho họ một ngai báu vinh quang. -
Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Lạy Vua muôn dân và Ðá Góc toà nhà Hội thánh, xin hãy đến cứu độ
con người mà Chúa đã tạo dựng bằng bùn đất! - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 1, 46-56
"Ðấng
Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Maria nói rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ
trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của
Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi
những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ
đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực,
dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi
ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy
ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ
Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ
chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Maria
ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Mùa
Vọng Là Mùa Chờ Ðợi
Mùa
Vọng là mùa hy vọng, là ước mong, là đợi chờ. Mùa nắng hạn đã qua, mùa mưa bão
cũng chấm dứt, chúng ta đang hy vọng có được một mùa Giáng Sinh tươi đẹp.
Sống
là hy vọng, là ước mơ, là đợi chờ. Cuộc sống con người từ lúc mở mắt chào đời
cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay được dệt bằng những chờ đợi triền miên. Trước năm
1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết trong một khúc ca nào đó như sau: Nơi đây
tôi đợi. Nơi kia anh chờ. Có đợi chờ là có ước mơ.
Cách
đây trên 25 thế kỷ, vào giữa lúc dân Do Thái đang phải sống kiếp đọa đày nơi đất
khách quê người, thì Tiên Tri Isaia đã nói như sau: "Ngày đó họ sẽ lấy
gươm mà rèn lưỡi cày. Lấy giáo mà rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt
gươm ra đánh nước kia nữa. Người ta cũng không còn thao luyện để chiến đấu nữa".
Giấc
mơ của Tiên Tri Isaia ngày nay đã trở thành giấc mơ của toàn thể nhân loại bởi
vì những lời này đã được ghi trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York bên Hoa Kỳ.
Tại Hoa Kỳ, vào khoảng cuối thập niên 1960. Chứng kiến không biết bao nhiêu ngược
đãi mà cộng đồng người da đen phải chịu qua hằng bao thế kỷ. Cố mục sư Martin
Luther King đã nói lên giấc mơ của mình như sau:
"Tôi
mơ ước một ngày nào đó: những đứa con của những người da đen sẽ được ngồi ăn đồng
bàn với những đứa con của những chủ nhân da trắng". Năm 1968, mục sư đã bị
mưu sát, nhưng cái chết của ông đã biến giấc mơ của ông đã thành hiện thực.
Ngày nay, con cái của những người nô lệ da đen đã hoàn toàn bình đẳng với con
cái của những chủ nhân da trắng. Không có gì đẹp cho bằng giấc mơ trên đây. Thế
nhưng lịch sử nhân loại chúng ta chưa được viết bằng những giấc mơ này. Lịch sử
nhân loại còn đầy những ác mộng và hy vọng hảo huyền.
*
*
*
Quí
vị và các bạn thân mến,
Chờ
đợi, ước mơ, hy vọng. Ðó là hạt giống của bất tử mà Thiên Chúa đã đặt để trong
trái tim của con người. Thánh Augustinô đã diễn tả một cách tuyệt mỹ niềm mơ ước
và hy vọng ấy khi Ngài thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con
vì Chúa, cho nên hồn con sẽ mãi mãi mòn mỏi xao xuyến cho đến khi nào được nghỉ
an trong Chúa". Quả thực, chỉ trong Thiên Chúa là cùng đích của mọi khát vọng,
con người mới hết chờ đợi, hết ước mơ và hết hy vọng. Bao lâu còn sống là còn mỏi
mòn đợi trông. Còn sống là còn mò mẫn tìm kiếm.
Lịch
sử của dân tộc Israel là điển hình của sự mò mẫm tìm kiếm ấy. Nhưng cũng qua
dòng lịch sử ấy, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết đâu là cùng đích của
mọi ước mơ và hy vọng của con người. Trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã cho
niềm hy vọng của con người được thành tựu. Chúa Giêsu Kitô là điểm đến của lịch
sử con người. Tất cả mọi chờ đợi, mọi hy vọng, mọi nổ lực kiến tạo của con người
đều quy hướng về Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Ðấng đang hiện diện. Ngài là Ðấng
đang đến. Ngài là Ðấng đang tác động trong từng biến cố của lịch sử con người.
Chỉ có Ngài mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống con người. Chỉ có Ngài mới có thể
thỏa mãn được tất cả mọi ước vọng của con người. Ðây chính là trọng tâm của niềm
tin Kitô mà hằng năm mỗi mùa khi mùa vọng trở lại Giáo Hội không ngừng mời gọi
chúng ta đào sâu.
Mọi
ước mơ, chờ đợi và hy vọng của chúng ta chỉ được thành tựu trong Chúa Giêsu
Kitô mà thôi. Ngài là đối tượng của mọi chờ đợi và hy vọng của con người. Ngài
đang đến trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta.
Thảm
trạng lớn nhất của con người là khước từ Ðấng đang đến, và như vậy cũng đánh mất
ý nghĩa của cuộc sống. Ngài đã đến với dân tộc Ngài tuyển chọn, nhưng họ đã
không đón nhận Ngài. Cái chết trên thập giá của Ngài vừa là biểu trưng vừa là
tuyệt đỉnh của mọi khước từ. Sự khước từ vẫn tiếp tục diễn ra mỗi khi con người
chối bỏ chính nhân phẩm của mình để sống theo những dục vọng và khuynh hướng thấp
hèn của mình. Sự khước từ ấy vẫn tiếp tục diễn ra mỗi khi do mù quáng và ích kỷ
con người chối bỏ và chà đạp phẩm giá của con người anh em của mình.
Chúa
Kitô vẫn tiếp tục đến một cách âm thầm và bất ngờ trong từng biến cố và gặp gỡ
mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Ngài vẫn tiếp tục đến một cách bất ngờ
trong người anh em bé mọn nhất của chúng ta. Ðó là điều Ngài muốn nói với chúng
ta khi dùng lụt đại hồng thủy hay của kẻ trộm trong Tin Mừng hôm nay.
Hãy
tỉnh thức để không ngừng đón nhận Ngài trong từng biến cố của cuộc sống. Ðó là
sứ điệp mà Mùa Vọng hằng năm nhắc nhở cho chúng ta. Trong phép Thánh Thể, bánh
rượu, thành quả của công lao của con người sẽ biến thành Mình Máu Chúa Kitô. Ðó
là sự hiện diện mật thiết nhất mà Chúa Giêsu Kitô muốn bày tỏ cho mỗi người. Sự
hiện diện này sẽ nhắc nhở cho chúng ta, trong mọi sinh hoạt của con người, Ngài
luôn có mặt và tác động bằng mọi cách thế chúng ta không thể ngờ được.
Hãy
luôn tỉnh thức để đón nhận Ngài. Ðó là ơn cần thiết nhất mà chúng ta phải cầu
xin trong suốt Mùa Vọng này.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 22 tháng 12 MV
Bài đọc: I Sam 1:24-28; Lk
1:46-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhận biết và cám ơn
quà tặng của Thiên Chúa.
Nhận
ra hồng ân Thiên Chúa ban cho đã khó, biết cám ơn Thiên Chúa còn khó hơn. Trong
Phúc Âm, Chúa chữa lành 10 người phong cùi; nhưng chỉ có một người ngọai biết
quay trở lại để cám ơn Thiên Chúa. Cám ơn Thiên Chúa đã khó, biết dâng lại những
gì Thiên Chúa ban còn khó hơn gấp bội. Thế mà có những người mẹ không con, sau
khi được Thiên Chúa ban cho một người con, lại dám can đảm hy sinh dâng lại người
con duy nhất để làm việc cho Thiên Chúa. Các Bà tuy rất thương và muốn con ở với
mình, nhưng lòng biết ơn Thiên Chúa mạnh hơn tính ích kỷ cá nhân. Các bà biết
rõ: nếu Thiên Chúa không can thiệp, chẳng bao giờ các bà có được người con đó.
Các
Bài đọc hôm nay tường thuật tâm tình biết ơn của hai người mẹ anh hùng này.
Trong Bài đọc I, Bà Anna hiểu thấu nỗi ô nhục của người không có con: đối
phương của Bà chọc tức Bà. Quá đau khổ, Bà cầu xin Thiên Chúa thương ban cho
mình một mụn con, và sẽ dâng nó lại cho Thiên Chúa để phục vụ trong Đền Thờ.
Khi được Thiên Chúa ban cho một con trai, Samuel, Bà đã giữ lời hứa, dâng con
mình lại cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Trinh Nữ Maria biết rõ mình chỉ là
một nữ tỳ tầm thường trước mặt Thiên Chúa; nhưng được Thiên Chúa cất nhắc lên
thiên chức “Mẹ Đấng Cứu Thế” là do hòan tòan quyền năng và tình yêu của Thiên
Chúa. Mẹ Maria cũng sẵn sàng dâng Chúa Giêsu lại cho Thiên Chúa, để Ngài hòan tất
sứ vụ đã được Chúa Cha trao phó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Bà Anna dâng lại đứa trẻ Thiên Chúa ban để nó phục vụ Thiên Chúa.
1.1/
Nỗi ô nhục của người vợ không con: Ông Elkanah có hai vợ: một bà tên là Anna, một bà
tên là Peninnah. Bà Peninnah có con, còn bà Anna không có con. Đến ngày ông
Elkanah dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Peninnah, vợ ông, và cho
các con trai con gái bà ấy. Còn bà Anna, ông chia cho một phần ngon vì ông yêu
bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Bà kia, đối thủ của bà,
cứ chọc tức để hạ nhục bà, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Ông
Elkanah vẫn làm như thế năm này qua năm khác, mỗi lần ông lên Nhà của Đức Chúa
tại Shiloh; còn bà kia cứ chọc tức bà Anna như thế. Mỗi lần xảy ra, Bà chỉ biết
khóc và không chịu ăn.
1.2/
Bà Anna cầu nguyện và xin Thiên Chúa ban cho một đứa con: Tâm hồn cay đắng,
bà cầu nguyện với Đức Chúa và khóc nức nở. Bà khấn hứa rằng: "Lạy Đức Chúa
các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến
con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con
sẽ dâng nó cho Đức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu
nó." Tư-tế Eli khuyên: "Bà hãy về bình an. Xin Thiên Chúa của Israel
ban cho bà điều bà đã xin Người!" Bà thưa: "Ước chi nữ tỳ của ngài
đây được đẹp lòng ngài!" Rồi bà Anna ra về; bà dùng bữa và nét mặt bà
không còn sầu khổ như trước nữa.
1.3/
Lời cầu xin của Bà Anna được Thiên Chúa nhận lời: Sau đó, ông Elkanah
ăn ở với bà Anna, vợ mình, và Đức Chúa đã nhớ đến bà. Ngày qua tháng lại, bà
Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuel, vì bà nói: "Tôi
đã xin Đức Chúa được nó." Năm sau, Elcanah lên Shiloh với cả gia đình, để
dâng hy lễ thường niên cho Đức Chúa, và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. Bà
Anna không lên, và bà nói với chồng: "Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã.
Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Đức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi." Ông
Elkanah bảo bà: "Em nghĩ thế nào là phải thì cứ làm; cứ ở lại cho đến khi
cai sữa cho nó. Chỉ xin Đức Chúa thực hiện lời Người."
1.4/
Bà Anna dâng lại cho Thiên Chúa người con Ngài ban tặng: Sau khi cai sữa cho
con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột
và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Đức Chúa tại Shiloh; đứa trẻ còn nhỏ
lắm. Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Eli. Bà nói: "Thưa ngài,
xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên
ngài, tại đây, để cầu nguyện với Đức Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ
này, và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. Đến lượt tôi, tôi xin
nhượng nó lại cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức
Chúa." Và ở đó, họ thờ lạy Đức Chúa.
2/
Phúc Âm:
Đức Mẹ Maria ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa.
2.1/
Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành: Mẹ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ hèn hạ trước
mặt Thiên Chúa; hơn nữa, Mẹ cũng chỉ là một tạo vật thấp hèn được Thiên Chúa tạo
dựng. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đóai thương nhìn đến, mà Mẹ được cất nhắc lên
để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Hồng ân này không những làm cho mẹ được ơn cứu độ, mà
còn ban rộng ra đến tất cả mọi người. Với tâm tình biết ơn Thiên Chúa, Mẹ vui mừng
ca tụng Ngài: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết
bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”
2.2/
Thiên Chúa xót thương những ai kính sợ Ngài: Biết kính sợ Thiên Chúa không
những là nguồn gốc mọi khôn ngoan, mà còn là điều kiện để được hưởng muôn ơn
lành. Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi, tác giả của Bài Magnificat đã nêu lên 3 điều
cách mạng chính của Thiên Chúa:
(1)
Cách mạng luân lý:
Thiên Chúa chống kẻ kiêu căng và đề cao người khiêm nhường; trong khi người thế
gian thường thích kiêu căng, cậy sức mình, và khinh thường Thiên Chúa.
(2)
Cách mạng xã hội: Thiên
Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những kẻ thấp hèn;
trong khi người thế gian thường cậy quyền thế và đàn áp kẻ khó nghèo.
(3)
Cách mạng kinh tế: Thiên
Chúa cho kẻ đói nghèo được dư dật và đuổi người giầu về tay trắng; trong khi ở
thế gian: người giầu lại giầu thêm, còn kẻ nghèo càng nghèo hơn.
2.3/
Thiên Chúa trung thành thực thi Lời Hứa: Tất cả những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực thi;
không phải vì con người xứng đáng được hưởng, nhưng chỉ vì lòng thương xót của
Ngài: “Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến
muôn đời."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương: nếu chúng ta kiên trì biểu lộ niềm tin
của chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều chúng ta xin.
-
Chúng ta phải có lòng khiêm nhường và biết kính sợ Thiên Chúa. Chúng ta phải có
lòng biết ơn về những quà tặng Thiên Chúa ban.
-
Quà tặng Chúa ban là để phục vụ, chứ không ích kỷ giữ cho mình. Chúng ta phải
biết dùng những quà tặng Thiên Chúa ban để phục vụ Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
TUẦN BÁT NHẬT CHUẨN BỊ LỄ GIÁNG SINH
Lc 1,46-56
A. Hạt giống...
Đây là bài ca Magnificat mà Giáo Hội vẫn thường
hát và thích hát.
- Hoàn cảnh : Đức Maria vừa được Thiên Chúa chọn
làm Mẹ Đấng Cứu Thế mà muôn dân trông đợi hàng bao nhiêu thế kỷ nay. Người hay
tin bà chị họ là Êlisabét cũng đã mang thai trong lúc tuổi già, nên Người vội
vã lên đường đến thăm và giúp đỡ người chị họ ấy. Khi hai người gặp nhau, Bà
Êlisabét chức mừng Đức Maria “Em có phúc hơn mọi người phụ nữ” ; còn bà
Êlisabét thì tràn ngập vui mừng “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm
tôi” ; ngay cả bào thai trong bụng bà Êlisabét cũng vui mừng đến nổi nhảy
lên ! Trong bầu khí tràn ngập vui mừng ấy, Đức Maria đã hát lên bài ca này
đế tán dương và tạ ơn Thiên Chúa vì đã thương đến những người hèn mọn khiêm
nhu.
- Bối cảnh : Thực ra bài ca này không phải
do Đức Mẹ đã một mình sáng tác. Nó là cô đọng cả một trào lưu suy tư của những
người hèn mọn trải suốt lịch sử cứu độ. Từ xưa đến nay và mãi tới muôn đời, hễ
ai hèn mọn nhưng biết khiêm tốn nương nhờ nơi Thiên Chúa thì Ngài sẽ bênh vực
che chở. Còn những người “lớn” và “mạnh” mà kiêu căng ỷ sức mình hay cậy vào
những thứ mình đang có thì Thiên Chúa sẽ hạ bệ. Đức Maria chỉ làm công việc đúc
kết tất cả những cảm nghiệm ấy trong bài ca Magnificat này.
B.... nẩy mầm.
1. “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều
cao cả” : không phải chỉ một mình Đức Mẹ có thể thốt lên lời ca này, không
phải chỉ có các thánh mới có thể hát như Đức Mẹ, mà bất cứ ai cũng đều có thể
như thế, miễn là phải chịu khó nhìn lại đời mình và nhận ra những ơn lành Thiên
Chúa đã tuôn đổ xuống trên mình.
Tôi hãy nhìn lại dòng đời của mình, xin Chúa và
Đức Mẹ mở trí mở lòng để tôi nhận ra những ơn của Ngài, và tôi hãy cùng Đức Mẹ
hát lên những lời tạ ơn tán tụng.
2. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao
những kẻ khiêm nhu” : Đây là một chân lý, chân lý đã được chứng minh qua
hàng bao nhiêu ngàn năm. Thế thì tại sao tôi lại cứ mãi ngu dại sống kiêu căng
tự phụ. Người kiêu căng tự phụ không những sẽ bị mọi người ghét bỏ, mà ngay cả
chính Thiên Chúa cũng hạ bệ nó.
3. Mỗi kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng
hát lên và sống bài ca Magnificat : “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí
tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi”. Đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc
đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương
và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Ngài ; không vui sao được khi biết
rằng trong Người Con Một ấy chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy
vọng ; không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà Cha, có
biết bao người cùng tiến bước với ta. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. “Đức Maria nói : Linh hồn tôi ngợi khen
Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc
1,46-47)
Thuở còn bé, khi tôi xoè bàn tay nhỏ xíu hứng
những giọt nước mưa, những hạt nước chảy tràn ra ngoài. Tôi cảm thấy thiên
nhiên thật kỳ diệu ! Lớn lên, cũng với bàn tay ấy, tôi mở ra để đón nhận
hồng ân của Cha, những ân huệ của Người và của Đời. Không biết vì tay tôi lớn
hay vì ân huệ kia quá ít mà chưa bao gờ tôi cảm thấy đủ, để nói lên lời tạ ơn.
Tôi đã không nhận ra những ân huệ đang tuôn đổ trên tôi mỗi ngày.
Đức Maria đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa
và đón nhận với tâm tình ngợi khen, cảm tạ. Vì khiêm nhu nhỏ bé, Mẹ đã nhận ra
ơn Người thật lớn lao.
Lạy Cha, xin ban cho con quả tim đơn sơ, luôn
biết ngỡ ngàng trước tình yêu Cha dành cho con, để có thể cất lên lời tạ ơn Cha
mỗi ngày trong đời con. (Epphata)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
22/12/14 THỨ HAI TUẦN 4 MV
Lc 1,46-56
Lc 1,46-56
Suy niệm: Trong
xã hội cạnh tranh hiện nay, từ ngữ “thụt lùi” thường được dùng để diễn đạt ý
tiêu cực, thua kém, chậm tiến. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, không phải
cứ nhắm mắt lao về phía trước là mau đạt hiệu quả, thành công. Trái lại cần
phải có những “bước lùi” để nhìn lại mình, để nhìn thấy con đường phía trước
rộng hơn, để điều chỉnh đường đi, để đổi mới cuộc sống. Thật vậy, chính nhờ
thao tác ‘thụt lùi’ mà Đức Mẹ đã nhìn rõ vị trí của Mẹ là “phận nữ tỳ hèn mọn.” Không những thế, Mẹ còn nhìn thấy cả một lịch
sử của dân tộc Mẹ: “Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ
của Người.”Nhưng trên hết, Mẹ thấy bàn tay của Thiên Chúa can thiệp trong
lịch sử đó, không chỉ trong quá khứ, mà còn hiện tại và tương lai nữa: “vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ
phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.” Như thế, nơi sự ‘thụt lùi’ nơi Mẹ, chúng ta
không thấy đó sự thua kém. Nhưng nhờ đó, Mẹ ‘đã nhảy mừng hớn hở trong lòng’ và
đã kết dệt bài ca Magnificat, ngợi khen Thiên Chúa.
Mời Bạn: Trong
những ngày kề cận lễ Giáng sinh, Hội Thánh chọn những đoạn Kinh Thánh cho chúng
ta thấy những con người liên hệ gần gũi với biến cố Giáng sinh. Mẹ đã được nhắc
đến trong ngày hôm nay, và đời sống của Mẹ thật xứng đáng được Thiên Chúa chọn,
để làm Mẹ của Ngôi hai Thiên Chúa. Chúng ta cũng bắt chước Mẹ, sống ‘thụt lùi’
khiêm tốn mỗi ngày để Thiên Chúa cất nhắc lên.
Sống Lời Chúa: Chiêm
ngắm thánh gia nơi hang đá, để học khiêm nhường.
Cầu nguyện: Hát bài “Linh hồn tôi tung hô Chúa…” để cùng với Mẹ, ngợi khen Thiên Chúa.
Nữ tỳ hèn mọn
Để sinh Đức Giêsu cho thế
giới hôm nay, vẫn cần có những Maria chấp nhận cưu mang, chấp nhận vượt cạn, chấp
nhận kiên nhẫn chờ đợi để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới.
Suy niệm:
Bài ca ngợi khen Đức Chúa
bật ra trên môi Maria
sau khi bà Êlisabét cất
tiếng ca ngợi Mẹ.
Êlisabét ca ngợi Maria là
người được chúc phúc hơn mọi phụ nữ
vì Mẹ đang cưu mang trong dạ
Đấng Cứu Tinh.
Bà còn ca ngợi Maria có phúc
vì đã dám tin vào lời Chúa phán,
và dám liều để cho lời ấy
dẫn dắt đời mình.
Nhờ được tràn đầy Thánh
Thần, Êlisabét mới biết được Tin Vui
mà Maria tưởng rằng đó là bí
mật chỉ riêng mình biết.
Khi đứng trước bà chị cao
niên đang mang thai,
Maria xác tín hơn vào những
lời sứ thần nói,
và vào mầu nhiệm đang âm
thầm lớn lên nơi cung lòng mình.
Khi bà chị Êlisabét ca ngợi
Mẹ, thì Mẹ hân hoan ca ngợi Thiên Chúa.
Maria nhìn nhận Ngài là Đấng
Cứu Độ của Mẹ (c. 47).
Nếu Mẹ được đầy ân sủng,
được Chúa ở cùng và được đẹp lòng Ngài,
nếu Mẹ được thụ thai Con
Đấng Tối Cao nhờ Thánh Thần (Lc 1, 28-35),
thì đó không phải là do công
của Mẹ, nhưng là ơn của Chúa.
“Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi những điều cao cả” (c. 49).
Maria không có một sự khiêm
nhường giả tạo về mình.
Khiêm nhường thực sự là nhìn
nhận sự thật.
Mẹ nhìn nhận những điều độc
nhất vô nhị Chúa làm cho đời mình.
Ngài đã nhìn xuống đời Mẹ,
cuộc đời thấp hèn của một tỳ nữ.
Và cái nhìn cúi xuống của
Ngài đã nâng Mẹ lên cao,
khiến cho muôn thế hệ phải
ngợi khen, tôn kính (c. 48).
Nhưng Maria không phải là
người duy nhất được Thiên Chúa thi ân.
Ngài thương xót những ai hèn
mọn, đói nghèo, biết kính sợ Chúa.
Ngược lại, Ngài giơ cánh tay
biểu dương sức mạnh (cc. 50-53),
để dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ
bệ người quyền thế, đuổi đi kẻ giàu sang.
Thiên Chúa đầy thương xót,
nên cũng mạnh tay để tạo lại sự công bằng,
để đem lại sự no đủ cho
người nghèo và sự tự do cho người bị áp bức.
Thiên Chúa ấy cũng trung tín
giữ lời hứa với Dân Ítraen (cc. 54-55).
Maria đã ở lại với bà chị họ
độ ba tháng mới trở về nhà.
Ba tháng mang thai đầu tiên
của một người mẹ trẻ đâu có dễ.
Maria đã ở lại để phục vụ
cho bà Êlisabét gần ngày sinh.
Mẹ quên gánh nặng của mình
để mang gánh nặng của người khác.
Êlisabét hẳn là vui vì được
hầu hạ bởi Thân Mẫu Chúa.
Gioan trong bụng mẹ sung
sướng vì được gần Đấng Thiên Sai.
Ít khi ta suy niệm chuyện
Đức Maria mang thai hơn chín tháng.
Thai Nhi Giêsu lớn dần lên
từng ngày trong dạ mẹ, chờ ngày chào đời.
Tình Mẹ-Con cũng lớn lên,
thân thiết, gần gũi.
Mang thai và sinh con là
niềm vui, nhưng đòi bao hy sinh nhọc nhằn,
nhất là vào thời xưa, khi vệ
sinh và tiện nghi không có.
Để sinh Đức Giêsu cho thế
giới hôm nay, vẫn cần có những Maria
chấp nhận cưu mang, chấp
nhận vượt cạn,
chấp nhận kiên nhẫn chờ đợi
để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22
THÁNG MƯỜI HAI
Một
Khởi Đầu Mới Trên Con Đường Dẫn Về Vĩnh Cửu
Mùa
Vọng đem lại cho chúng ta niềm vui lớn lao bởi vì chúng ta “sẽ tiến về nhà
Chúa" (Tv 122,1). Chúng ta có thể nhìn thấy kết cục của cuộc hành trình vĩ
đại này, cuộc hành hương của kiếp người trên trần gian. Chúng ta được mời gọi để
cư ngụ trong "nhà của Chúa". Đó là quê hương đích thực của chúng ta.
Mùa
Vọng là mùa mong chờ ngày của Chúa, mong chờ giờ của sự thật. Đó là sự chờ mong
ngày "Ngài sẽ xét xử các quốc gia, và phân xử các dân tộc" (Is 2,4).
Chân lý trọn vẹn của Thiên Chúa sẽ là nền tảng cho nền hòa bình phổ quát và
viên mãn của Đức Kitô. Đó là mục tiêu mà mọi người thiện chí hướng vọng.
Như
vậy, một lần nữa Mùa Vọng giúp chúng ta nhận ra con đường vĩnh cửu dẫn con người
đến với Thiên Chúa. Mỗi năm, Mùa Vọng là một khởi đầu mới. Đời sống con người
không đi về chỗ bế tắc. Không, đời sống chúng ta đưa chúng ta về gặp gỡ Thiên
Chúa ở cuối thời gian.
Trong
Mùa Vọng cũng có một tiên báo về những con đường sẽ dẫn các mục đồng và các đạo
sĩ Đông phương đến máng cỏ của Hài Nhi Giêsu ở Bêlem.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
22-12.
1Sm
1,24-28; Lc 1,46-56.
LỜI
SUY NIỆM: “Bấy giờ bà Maria nói: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí
tôi hớn hở vui mầng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.”
Chúa
Giêsu đã ngự trị trọn vẹn tâm hồn của Đức mẹ và Thần Khí của Người đã làm cho
miệng lưỡi của Đức Mẹ tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời cũng loan báo cho toàn thể
nhân loại nhận biết Thiên Chúa sẽ thực hiện ý của Ngài: Ngài là Đấng Cứu Độ;
Ngài đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn; Ngài hằng thương xót những ai
kính sợ Ngài; Ngài dẹp tan phường lòng trí kiêu căng; Ngài hạ bệ những ai quyền
thế; Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường; Kẻ đói nghèo Ngài cho của đầy dư; còn kẻ
giàu có Ngài sẽ cho về tay trắng.
Lạy
Chúa Giêsu, Đức Mẹ đã loan báo tin mừng cho toàn thể nhân loại với bài ca kỳ diệu
Magnifica. Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn ca tụng,
tạ ơn Chúa Cha với hết tâm hồn và lòng thành của mình.
Mạnh
Phương
22
Tháng Mười Hai
Mùa Của Gửi Thiệp Tặng
Quà
Người
Anh thường nói: "Một quà tặng không có người tặng là một quà tặng trống rỗng
trơ trụi". Giá trị của một quà tặng do đó, không tùy thuộc nhiều ở giá trị
vật chất của nó, mà đi chính tâm tình của người tặng quà.
Ngày
nay, cũng giống như ở bất cứ thời đại nào, cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo quốc
gia thường đi kèm với nghi thức trao tặng quà cho nhau. Trong một cuộc họp thượng
đỉnh ở ngoài khơi đảo quốc Malta cuối năm 1989, tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng
cho chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ bức tường ô nhục Bá
Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nhưng đây lại là một món quà vô giá, bởi vì tổng
thống Bush đã muốn gói ghém trong đó tất cả thiện chí và ước muốn xây dựng hòa
bình của ông, của nhân dân Hoa Kỳ, cũng như của tất cả những ai yêu chuộng hòa
bình.
Trước
đó vài ngày, chủ tịch Gorbachov cũng đã trao tặng và nhận quà trong cuộc gặp gỡ
với Ðức Thánh Cha. Nhà lãnh đạo của Liên Xô đã tặng cho Ðức Thánh Cha một tập
thánh vịnh in vào thế kỷ thứ 13 và 14, qua đó ông muốn khẳng định rằng những
giá trị đạo đức và luân lý do tôn giáo đề ra là những nhân tố cần thiết cho việc
xây dựng xã hội.
Ðáp
lại, Ðức Thánh Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi
hàng chữ: "Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống".
Ðó
là tất cả những gì mà Ðức Gioan Phaolô II và qua ngài, toàn thể Giáo Hội có thể
trao tặng cho một xã hội đã từ lâu muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Riêng
với bà Raissa, phu nhân của chủ tịch Gorbachov, Ðức Thánh Cha đã tặng một cỗ
tràng hạt. Lòng yêu mến đối với Nữ Vương của hòa bình: đó là món quà cao quý nhất
mà một vị Giáo Hoàng đã có thể tặng cho tất cả những ai đang mưu tìm hòa bình
cho nhân loại.
Mùa
Vọng là mùa của gửi thiệp và tặng quà Giáng Sinh.
Chúng
ta gửi thiệp chúc mừng đến những người thân thương quen thuộc đã đành, chúng ta
cũng gửi đi những cánh thiệp xã giao đến những người chỉ một lần gặp gỡ, quen
biết... Có một cánh thiệp nào, một quà tặng nào cho những người không quen biết,
cho những người đầu ngõ cuối xóm mà chúng ta không hề muốn đưa mắt nhìn đến,
cho những người hành khất bên vệ đường, cho những kẻ không nhà không cửa, cho
những ai đang rét run vì giá lạnh, vì cô đơn không?
Hãy
nhiệt tình chào hỏi những người mà chúng ta ghét cay ghét đắng. Hãy làm hòa với
những ai chúng ta vừa gây gổ. Hãy dọn một bữa ăn cho những người hành khất quen
thuộc. Hãy thăm viếng một người bệnh đang chờ một lời an ủi, đỡ nâng. Hãy san sẻ
đôi chút với những người hàng xóm đang túng thiếu hơn ta.
Ðó
là những cánh thiệp, những món quà Giáng Sinh có giá trị nhất mà chúng có thể gửi
ngay đi trong Mùa Vọng này, bởi vì đó là phần cao đẹp nhất của chúng ta.
(Lẽ
Sống)
Lectio Divina: Luca
1:46-56
Thứ Hai, 22 Tháng 12, 2014
Tuần thứ tư Mùa
Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa, Thiên Chúa của những người nhỏ bé,
Cùng với Đức Maria, chúng con vui mừng và cảm tạ Chúa
Vì Chúa đã để cho Đức Giêsu Kitô trở thành một phàm nhân như
chúng con
Và để Người mang lại cho chúng con nhân phẩm của con cái Chúa.
Nguyện xin cho chúng con có thể sống với phẩm cách ấy
Và với niềm hoan lạc mà nói
Rằng chúng con được Chúa thương yêu vô vàn.
Giống như Chúa, nguyện xin cho chúng con cũng có thể học được
cách chăm sóc
Đến tất cả những kẻ bé mọn và mỏng dòn
Và đem lại công bình của Chúa cho người nghèo khó
Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Luca
1:46-56
Bấy giờ bà Maria nói:
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời."
Bà Maria ở lại với bà Êlisabéth độ ba tháng, rồi trở về nhà.
3. Suy Niệm
- Bài ca
vịnh của Đức Maria là một trong những bài ca vịnh của cộng đoàn các Kitô hữu
tiên khởi. Nó cho thấy mức độ nhận thức hay ý thức và sự vững chắc
của đức tin sống động trong lòng cộng đoàn. Được xướng lên trong
cộng đoàn, bài ca vịnh này của Đức Maria dạy chúng ta cầu nguyện và ca khen.
- Lc
1:46-50: Đức Maria bắt đầu bằng cách công bố sự thay đổi đang
xảy ra trong cuộc đời bà dưới cái nhìn yêu thương của Thiên Chúa, đầy lòng
thương xót. Bởi vì điều này, bà hát lên cách hân hoan: “Tôi
hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”.
- Lc 1:51-53: Sau đó bà hát khen lòng trung tín của Thiên Chúa đối
với dân Người và công bố sự thay đổi mà cánh tay của Chúa đang được thực hiện ở
người nghèo khó và đói khổ. Câu nói “cánh tay của Thiên Chúa” nhắc
nhở chúng ta về việc giải thoát dân Do Thái khỏi đất Ai Cập. Đây là
sức mạnh ơn cứu độ và giải thoát của Đức Giavê, sắp sửa đem lại những thay
đổi: Chúa dẹp tan phường lòng trí kiêu căng (Lc 1:51), Chúa hạ bệ
những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường (Lc 1:52), kẻ đói nghèo,
Người ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng (Lc 1:53).
- Lc 1:54-55: Cuối cùng, Đức Maria nhắc lại rằng tất cả điều này
là sự biểu hiện lòng thương xót của Thiên Chúa đối với dân của Người và lòng
trung thành của Thiên Chúa với những lời hứa cùng tổ phụ Abraham. Tin
Mừng không nên được coi như là một phần thưởng bởi vì sự tuân giữ Lề Luật, mà
là điều biểu hiện của lòng nhân lành và trung tín của Thiên Chúa với các lời
hứa của Người. Đây là những gì thánh Phaolô đã giảng dạy cho các tín
hữu Galát và La Mã.
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Các bài ca
vịnh là nhiệt kế của đời sống cộng đoàn. Chúng cho biết mức độ của
sự ý thức và cam kết. Bạn hãy kiểm điểm lại các bài ca vịnh của cộng
đoàn bạn.
- Bạn hãy
phân tích lương tâm xã hội đến từ bài ca vịnh của Đức Maria. Trong
thế kỷ thứ hai mươi sau Công Nguyên, bài ca vịnh này đã bị chỉ trích bởi quân
đội châu Mỹ Latin bởi vì nó bị coi là phá hoại.
5. Lời nguyện kết
Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi,
ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro,
đặt ngồi chung với hàng quyền quý,
tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng.
Vì nền móng địa cầu là của ĐỨC CHÚA,
Người đặt cả hoàn vũ lên trên.
ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro,
đặt ngồi chung với hàng quyền quý,
tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng.
Vì nền móng địa cầu là của ĐỨC CHÚA,
Người đặt cả hoàn vũ lên trên.
(1Sm 2:8)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét