21/02/2016
Chúa Nhật tuần 2 Mùa Chay năm C
(phần I)
Bài Ðọc I: St 15, 5-12. 17-18
"Thiên
Chúa đã thiết lập giao ước với Abraham".
Trích
sách Sáng Thế.
Trong
những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: "Ngươi hãy
ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao". Rồi Chúa
nói tiếp: "Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế". Abram tin vào
Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính.
Và
Chúa lại nói: "Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân
Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp". Abram thưa rằng: "Lạy
Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?"
Chúa đáp: "Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một
con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non". Abram bắt
tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa
kia; nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những
con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ
mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông.
Khi mặt
trời đã lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối
lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết
lập giao ước với Abram mà nói rằng: "Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ
sông Ai-cập cho đến sông Eu-phrát".
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 7-8a. 8b-9abc.
13-14
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng Cứu Ðộ
tôi. (c. 1a)
Xướng:
1) Chúa là sự sáng, là Ðấng Cứu Ðộ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời
tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Lạy
Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng
con tự nhắc lời: "Hãy tìm ra mắt Ta".- Ðáp.
3) Và
lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi
tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ, xin đừng hất hủi con. -
Ðáp.
4) Con
tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy
chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! -
Ðáp.
Bài Ðọc II: Pl 3, 17 - 4, 1
"Chúa
Kitô sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em
thân mến, anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở
theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường nói với
anh em, và giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch
với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng,
và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái
trên cõi đời này.
Phần
chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc
là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng
ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để
bắt muôn vật suy phục Người.
Bởi thế,
anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh
em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.
Ðó là
lời Chúa.
Hoặc đọc
bài vắn sau đây: Pl 3, 20 - 4, 1
Anh em
thân mến, quê hương chúng ta ở trên trời nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc
là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng
ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để
bắt muôn vật suy phục Người. Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm
hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.
Ðó là
lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5
Từ
trong đám mây sáng chói có tiếng Chúa Cha phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu,
các ngươi hãy nghe lời Người".
Phúc Âm: Lc 9, 28b-36
"Ðang
khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện,
diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng
có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự
chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê,
chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai
vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được
ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một
cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói,
thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các
môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con
Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Và khi tiếng đang phán ra, thì
chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với
ai những điều mình đã chứng kiến.
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Chúa Ðến Ðể Biến Ðổi Thân
Xác Khốn Hèn Của Loài Người
Chúa Nhật
trước đã đưa chúng ta vào 40 ngày Chay của Chúa Giêsu và đã cho chúng ta thấy
Người lướt thắng các cơn cám dỗ của Satan như thế nào, để chúng ta biết phấn đấu
theo gương Người trong Mùa Chay này và trong suốt cả đời sống. Hôm nay phụng vụ
nhắc lại chuyện Chúa biến hình trên núi như là hình ảnh báo trước vinh quang Phục
sinh đang chờ Người ở bên kia Mầu nhiệm Thập giá. Và như vậy Chúa nhật hôm nay
muốn cho chúng ta thấy trước quang cảnh của cuối mùa Chay, đang khi Chúa nhật
trước đã khai mạc mùa này và các Chúa nhật sau sẽ nói về quãng giữa của đầu và
cuối mùa Chay Thánh. Chúng ta sẽ tìm hiểu việc Chúa biến hình và nhờ đó sẽ suy
nghĩ về hai bài đọc Thánh Kinh kia để làm cho ngày hôm nay rực lên ánh quang
vinh của Chúa.
1. Việc Chúa Biến Hình
Chúng
ta sẽ theo sát bản văn của Luca. Người bắt đầu cho một chi tiết đáng kể. Theo
Người, câu chuyện Chúa biến hình trên núi xảy ra chừng 8 ngày sau hôm Người báo
tin cho môn đệ biết: Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ... bị giết đi và ngày
thứ ba sẽ sống lại. Người cũng bảo: Ai muốn đi theo sau Người, thì hãy chối bỏ
chính mình và vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày mà đi theo Người. Những lời ấy
không làm cho môn đệ an tâm, nên Người đã hứa sẽ cho một số môn đệ có mặt hôm
đó được thấy vinh quang của Người. Và hôm nay, Người đem ba ông: Phêrô, Gioan,
Giacôbê lên núi với Người.
Như vậy,
câu chuyện Chúa biến hình hôm nay là để thi hành Lời Người đã hứa. Ba môn đệ sẽ
được xem thấy vinh quang của Người để bù lại những lời tiên báo việc Người sẽ bị
nộp, bị giết. Phải chăng đây không phải là khía cạnh vinh quang của mầu nhiệm
thập giá? Ðó là mầu nhiệm Phục sinh phải đi liền với mầu nhiệm Tử nạn. Các môn
đệ được thấy trước ánh sáng Phục sinh để họ khỏi nao núng khi thấy Người chịu
đau khổ và chúng ta được phấn khởi đi vào con đường mùa Chay mà hôm nay khai mạc,
chúng ta đã thấy là con đường phấn đấu.
Nhưng
vì việc biến hình lại xảy ra khoảng 8 ngày sau hôm Chúa Giêsu nói về việc Tử nạn?
Chúng ta có được phép nghĩ rằng ngày thứ 8 cũng là ngày thứ nhất trong tuần lễ
của người Kitô hữu không? Do đó cả việc Tử nạn cả việc Phục sinh đều được loan
báo trong cùng một ngày, ngày Chúa nhật, ngày của Chúa, ngày cử hành các mầu
nhiệm cứu thế trọng đại của Chúa chúng ta.
Người
chỉ đem theo Phêrô, Gioan, Giacôbê vì ba người này sẽ được thấy Người hấp hối
trong vườn Cây Dầu, để làm chứng những ai đã tham dự mầu nhiệm Tử nạn cũng sẽ
được chia sẻ vinh quang Phục sinh. Và cũng như ở vườn Cây Dầu sau này, hôm nay ở
đây Ðức Giêsu mãi miết trong cầu nguyện đang khi các môn đệ "li bi giấc ngủ".
Nhiều việc quan trọng đã hoặc sẽ xảy ra trong hoàn cảnh tương tự. Chính những
khi Ðức Giêsu cầu nguyện nhiều là có những việc trọng đại đã đến.
Hôm
nay, đang lúc Người cầu nguyện, dung nhan Người đã ra khác. Y phục Người cũng
sáng hẳn lên. Luca không chú trọng lắm đến những thay đổi này. Ông không coi việc
biến hình là chính, nếu chúng ta được phép nói như vậy. Ông quan tâm đến nội
dung hơn là hình thức. Ông tìm hiểu bản chất hơn là hiện tượng. Những nét xa lạ
về sắc diện và y phục cho thấy đang có gì khác thường xảy đến cho Người.
Quả thật,
có hai nhân vật đến trao đổi với Ðức Giêsu. Ðó là Môsê và Êli, một ông luật
pháp và một nhà tiên tri. Ðó là cả Cựu Ước đang tâm sự với Người. Cũng có thể
hiểu hai ông đã mang đến một bầu khí cánh chung. Nhiều người nghĩ rằng Êli phải
đến trước để đi tiền hô cho Ðấng Thiên Sai. Sự hiện diện của ông ở đây chứng tỏ
thời đại Thiên Sai đã đến. Và Môsê nhà luật pháp của đạo cũ, nay đến chào mừng
và "bàn giao" với nhà luật pháp mới...
Nếu thế
thì sao sự việc không xảy ra trên núi Sion? Ngọn núi đang có sự hiện diện của
ba vị chỉ là ngọn núi quen thuộc của Ðức Giêsu. Người hay lui tới đây cầu nguyện.
Sion bị truất phế rồi ư? Chúng ta phải hiểu như vậy; vì thời đại thiên sai và
cánh chung không còn ưu tiên cho nơi nào và dân nào nữa. Người ta không còn cần
phải chọn Giêrusalem hay Garizim làm điện thờ duy nhất nữa. Người ta chỉ cần
tìm đến với Ðức Giêsu mà cả Luật pháp (đạo cũ) và Tiên tri (đạo mới) đều đang
tuyên chứng.
Môsê
và Êli hiện ra trong vinh quang, vì họ đã tham dự vào công cuộc của Chúa và vì
họ trở lại trong ánh sáng Phục sinh. Họ nói với Ðức Giêsu về cuộc ra đi sắp tới
của Người sẽ xảy ra ở Giêrusalem tức là cuộc tử nạn Phục sinh vượt qua của Người...
Chúng ta có thể bảo Môsê đã san sẻ kinh nghiệm cho Người không? Bởi vì khi ông
được tiếp xúc với vinh quang của Thiên Chúa lần đầu tiên ở núi Horeb trước bụi
gai cháy một cách kỳ diệu, ông đã được sai đi để tổ chức vượt qua cho con cái
Israen. Ai trong lịch sử Cựu Ước có kinh nghiệm hơn ông về vấn đề này. Cuộc vượt
qua Biển Ðỏ do ông tổ chức đã trở thành tiêu biểu cho mọi lần Chúa muốn cứu
dân. Hôm nay ông đến để nói với Ðức Giêsu về cuộc sắp ra đi của Người. Lễ Vượt
Qua của đạo mới sẽ bao trùm và kiện toàn lễ vượt qua đạo cũ khi Môsê cũ đã trò
chuyện hết với Môsê mới là Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
Câu
chuyện giữa các Ngài ở ngoài tai các môn đệ; cũng như sau này trong vườn Cây Dầu
họ chẳng biết gì về việc Chúa hấp hối. "Phêrô và các bạn li bì giấc ngủ".
Xác thịt của họ còn nặng nề, chưa hiểu được mầu nhiệm Tử nạn, khi ánh sáng Phục
sinh chưa làm họ tỉnh dậy.
Bấy giờ
bừng mắt ra, họ thấy vinh quang của Ðức Giêsu và thấy hai người đang đứng với
Người, tức là trước đây họ chưa thấy dung nhan mặt Người đã ra khác và y phục của
Người đã trở nên trắng ngời. Họ là những kẻ ngu mê cho đến khi chuyện ra đi tử
nạn đã qua.
Nhiệm
vụ của Môsê và Êli cũng đã rồi. Họ ra đi, để lại Ðức Giêsu đứng với môn đệ của
Người. Luật pháp và tiên tri đã tuyên chứng cho công cuộc cứu thế của Người,
thì đến sinh hoạt của Hội Thánh Phêrô lên tiếng xin làm ba lều cho Chúa Giêsu,
cho Môsê và cho Êli. Luca bảo rằng: Phêrô không biết mình nói gì. Mà quả thật,
ông không thấy Môsê và Êli đã ra đi rồi sao? Ðàng khác sao lại có chuyện tất cả
lịch sử dừng lại ở đây? Chỉ có mấy người được ở trên núi hạnh phúc này sao? Còn
muôn muôn, ứu ức, triệu triệu con người của các dân tộc phải được tề tựu về đây
nữa chứ? Không, câu nói của Phêrô chưa để ý đến mọi khía cạnh. Nó chỉ có giá trị
nói lên một sự thật, sự thật ở đây là hạnh phúc...
Thiên
Chúa không phủ nhận một tấm lòng thành như vậy. Người cho một đám mây rợp xuống
trên tất cả mọi người. Người hứa và bảo đảm sẽ cho mọi người được hạnh phúc và
chia sẻ vinh quang. Người muốn nói, mọi người sẽ được đưa vào sự sống của Chúa
Giêsu tử nạn phục sinh, miễn là người ta hãy nghe lời Ngài.
Là vì
có tiếng phán ra từ trong đám mây, y như hôm nào ở bờ sông Giođan. Chỉ thêm một
điều hôm nay Thiên Chua bảo mọi người hãy nghe lời Con của Người. Và như vậy cuộc
hiển linh hôm nay không nhằm tấn phong Ðức Giêsu làm Tôi Tớ Thiên Chúa đến để thi
hành sứ mạng cứu thế, cho bằng đặt Người đứng trên mọi loài sau khi Người đã tử
nạn phục sinh. Người sẽ là Chúa của Hội Thánh sau khi ơn cứu độ đã được ban cho
mọi người.
Thế
nên, sau khi lời tuyên bố, các môn đệ chỉ còn nhìn thấy một mình Chúa Giêsu. Họ
đã nín thinh, chờ ngày các mạc khải hôm nay trở thành sự thật. Và sau khi Ðức
Giêsu đã chịu chết, sống lại và lên trời, họ đã ra đi khắp nơi công bố Người là
Chúa để thâu nạp mọi dân tộc đến nghe Lời Người mà được chia sẻ vinh quang phục
sinh.
Câu
chuyện Chúa biến hình vì thế, không còn cho chúng ta thấy một Ðức Giêsu phấn đấu
để lướt thắng các cơn cám dỗ như trong Chúa nhật trước nữa. Chúa nhật hôm nay
báo trước vinh quang của Người sau Mầu nhiệm Thánh giá, để chúng ta cũng như ba
môn đệ ngày xưa được vững lòng đi vào con đường khổ nạn của Người. Chúng ta được
hạnh phúc hơn Abraham trong bài Cựu Ước hôm nay biết bao! Ðọc lại câu chuyện
này, chúng ta sẽ thêm phấn khởi tin vào ơn cứu độ đang được dành cho chúng ta.
2. Abraham Tin Vào Chúa
Câu
chuyện sẽ thêm nhiều ý nghĩa, nếu chúng ta nhớ rằng nó đã không được viết vào
thời Abraham (vì thời đó làm gì Do Thái đã có chữ viết) nhưng mãi về sau này.
Chúng ta có thể nghĩ đây là tác phẩm của một thần học gia rất đạo đức, sống ở đất
Do Thái vào khoảng trước hoặc sau lưu đày. Ông thấy hoàn cảnh thật đen tối. Ðất
nước này không còn là của con cái Israen nữa. Sản nghiệp Lời Hứa đã hoàn toàn
tiêu tan. Cứ như thế này mãi sao? Hay là sẽ có lúc Thiên Chúa ngoảnh mặt lại?
Phần đa số trong dân không còn hy vọng nữa vì sự thật quá phủ phàng. Nhưng niềm
tin, niềm tin của các tổ phụ dân vẫn còn ăn sâu trong tâm hồn nhiều người,
trong đó có tác giả của đoạn văn hôm nay. Niềm tin ấy tìm cách lóe lên trong
đêm tối, vươn lên khi sắp bị giập xuống. Nó mượn đời sống của chính tổ phụ
Abraham để chỗi dậy. Nó viết lại một câu chuyện trong cuộc đời của vị tổ phụ để
lấy lại nghị lực.
Tình cảnh
của tổ phụ Abraham bấy giờ không bi đát sao? Thân ông càng ngày càng già yếu. Bạn
ông, bà Sara, cũng đã hết thời sinh sản. Thế mà hai người vẫn chưa có lấy một mụn
con! Ðang khi ấy Chúa vẫn phán: Dòng dõi của Abraham sẽ đông đúc nhiều hơn sao
trên trời và cát ngoài biển. Abraham tin Chúa, nhưng quả là tin trong đêm tối.
Rồi
Chúa còn hứa cho ông một Ðất Nước làm quê hương. Ðiều hứa này được tác giả bài
sách hôm nay để ý. Nó động đến điều ông đang thắc mắc. Vị tổ phụ ngày xưa được
hứa ban Ðất Nước này khi người không có quyền trên một tấc đất ở đây. Ngày nay
con cái Israen có còn nên hy vọng làm chủ được Ðất Nước này khi nó đang nằm
trong tay quân xâm lược hay không? Tác giả nhìn vào niềm tin của vị Tổ Phụ mà
thêm phấn chấn. Ông viết lại niềm tin này để phấn khởi đồng bào của ông. Do đó
chúng ta được bản văn hôm nay.
Nó cho
chúng ta thấy Abraham như đã ép được Chúa phải cho ông một bảo đảm về Lời Hứa.
Khi Người hứa ban Ðất Nước này cho ông, ông đã bạo dạn thưa: "Lạy Chúa
Giavê, làm sao tôi biết là tôi sẽ được nó làm cơ nghiệp?" Và Chúa đã phải
ban cho ông một bằng chứng. Ðó là Giáo Ước. Người bảo ông lấy một con bê, một
con dê, một con cừu, một con chim gáy và một con bồ câu. Abraham đem hết các vật
ấy lại, rồi bổ đôi ba con vật lớn, đặt mỗi phần đối chiếu với phần kia. Theo tục
lệ thời ấy, hai bên ký kết giao ước sẽ đi qua những phần thịt này để cam kết số
phận mình sẽ bị phanh thây ra như thế nếu mình không giữ lời giao ước. Vậy,
Abraham cũng chờ Chúa đến để đi qua... Và khi mặt trời đã lặn, thì này một lò lửa
nghi ngút khói và một đuốc cháy đã ngang qua giữa những mảnh thịt. Abraham biết
rằng Chúa đã đến và đã cam kết. Lửa khói và đuốc sáng là dấu hiệu hiện diện của
Người. Người cam kết một mình để tỏ ra ưu vị và sự quyết tâm của Người, khiến
Abraham chỉ còn biết sấp mình thờ lạy và đặt hết tin tưởng vào Chúa.
Con
cái Israen thời của tác giả bản văn này, làm sao không phấn khởi khi nghe nói
như vậy? Tổ phụ của họ vì tin mà được Ðất Nước này. Họ cũng sẽ giữ và lấy lại
được Ðất Nước nếu có niềm tin như thế. Và cơ sở của niềm tin chính là Giáo Ước.
Thiên Chúa đã hứa, hứa một cách long trọng và có khế ước nghiêm chỉnh. Chính
Người sẽ thực hiện điều ấy.
Chúng
ta cảm phục tác giả. Nhưng sánh với ông hạnh phúc của chúng ta thật to lớn biết
bao! Chúng ta được hứa ban sản nghiệp Nước Trời là sự sống đời đời. Nhưng chúng
ta không phải chỉ có Lời Hứa và giao ước, mà còn có bảo chứng cụ thể là việc Ðức
Giêsu sống lại từ cõi chết và đã ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta. Sự kiện
Ngài sống lại, ai chối được nữa? Bài Tin Mừng hôm nay đã báo trước. Môsê và Êli
đã tuyên chứng. Các Tông đồ đã được nếm thử. Phêrô đã mãn nguyện rõ ràng...
Chúng ta hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh để đi con đường mùa Chay, con đường của
đời sống. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô đoán chắc về hạnh phúc phục sinh của
chúng ta mai ngày.
3. Chúa Sẽ Biến Ðổi Thân Xác Khốn
Hèn Của Chúng Ta
Thánh
Tông đồ khuyên hết mọi người bắt chước Người và bắt chước những kẻ sống theo
gương mẫu của Người, vì Người tin tưởng và hoàn toàn sống theo mầu nhiệm Thánh
Giá. Ðang khi ấy có lắm kẻ sống như thù địch với thập giá của Ðức Kitô. Họ lấy
bụng làm Chúa và chỉ nghĩ đến những sự dưới đất. Họ đặt vinh quang nơi những điều
đáng phải xấu hổ, ngay cả nơi phép cắt bì của người Do Thái. Họ là những người
chỉ cậy vào sức mình và chỉ lấy những mối lợi trước mắt làm hạnh phúc, Họ sẽ đi
tới diệt vong. Con đường của họ, không nên đi vào.
Trái lại,
quê hương của chúng ta là trời cao, tự đó sẽ đến vị Cứu Chúa là Ðức Giêsu Kitô.
Người sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta nên giống như thân xác vinh
quang của Người. Chính vì vậy mà chúng ta phải đi vào con đường thập giá, là
con đường đã dẫn Chúa chúng ta đạt tới vinh quang.
Hôm
nay bài Tin Mừng đã cho chúng ta thấy rõ điều ấy. Tác giả bài sách Khởi Nguyên
đã khuyên con cái Israen đặt niềm tin vào quê hương họ. Chúng ta còn phấn khởi
biết bao khi theo lời thánh Phaolô mà nghĩ đến quê hương trên trời, nơi Ðức
Giêsu sẽ ngự đến trong vinh quang để lấy sự vinh quang của Người bọc lấy và đưa
chúng ta về hạnh phúc đời sau, như các môn đệ của Người hôm nay đã được nếm thử
trên núi Biến hình. Vậy chúng ta hãy tin vào mầu nhiệm thập giá. Hãy sống cuộc
đời không lấy bụng làm Chúa, nhưng biết nhìn xa hơn những điều dưới đất...
Giờ
đây, trong Thánh Lễ chúng ta đang làm như thế. Chúng ta nhìn xa hơn bánh rượu để
thấy Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta nhìn xa hơn thánh giá để thấy hy vọng phục
sinh. Ðồng thời chúng ta cũng nhìn nhau xa hơn những nét bên ngoài để thấy anh
em là chi thể của nhau trong Ðức Giêsu Kitô. Như thế không còn cho phép ta sống
theo xác thịt nữa, nhưng như đã lột xác, đợi ngày biến hình thật sự với ngày
Chúa trở lại trong vinh quang mà lễ Chúa Biến hình hôm nay đã báo trước.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ
Nhật II Mùa Chay, Năm C
Bài
đọc: Gen 15:5-12,
17-18; Phi 3:17-4:1; Lk 9:28b-36.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm hy vọng vào
những gì Thiên Chúa hứa
Con
người sống và hoạt động là nhờ niềm hy vọng, chẳng hạn: học sinh đi học vì hy vọng
có ngày ra trường; nhà nông cầy bừa vì hy vọng có ngày gặt hái mùa màng; lực sĩ
thế vận hội luyện tập vì hy vọng có ngày đứng trên bục nhận huy chương vàng;
người tín hữu giữ đạo vì hy vọng sẽ được chung sống với Thiên Chúa trong cuộc sống
vĩnh cửu mai sau. Hy vọng rất cần thiết cho con người, vì nếu không có hy vọng,
con người sẽ không có nghị lực để sống, để tiến tới, và nhất là để vượt qua các
đau khổ trong cuộc đời. Khi hy vọng, con người cần biết tính chắc chắn của điều
mình hy vọng và khả năng của mình có thể đạt tới; chứ không phải là hy vọng hão
huyền hay hy vọng những điều không thể đạt được.
Các
Bài Đọc trong Chủ Nhật II Mùa Chay nêu bật niềm hy vọng của các tín hữu vào những
gì Thiên Chúa hứa và sự chắc chắn của những gì Thiên Chúa hứa trong lịch sử.
Trong Bài Đọc I, tổ phụ Abram được Thiên Chúa hứa sẽ ban cho một dòng dõi đông
như sao trên trời và một Đất Hứa. Lời hứa này được ký kết bằng giao ước với xác
thú vật bị xẻ đôi. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy vững
lòng trông cậy nơi Đức Kitô, Đấng có quyền năng biến đổi thân xác hèn hạ của
con người nên giống thân thể sáng láng của Người ở đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu đem ba môn đệ lên núi, cho các ông xem thần tính của Người, và nghe chứng
từ của Chúa Cha; để các ông có thể vững lòng đối phó với Cuộc Thương Khó sắp xảy
đến cho Người tại Jerusalem.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Thiên Chúa hứa ban một
dòng dõi và Đất Hứa cho tổ phụ Abraham.
1.1/ Lời
hứa của Thiên Chúa: Có hai
điều Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abram.
(1)
Ban một dòng dõi: Người đưa ông ra ngoài trời và phán: "Hãy ngước mắt lên
trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán:
"Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!" Đây là một thử thách cho niềm tin của
Abram, vì ông chỉ có hai người con: một người con với Sarah là Isaac, một với nữ
tỳ của Sarah là Ismael; làm sao ông có thể có một dòng dõi đông như sao trên trời
được? Nhưng “ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.”
Lời Hứa
này không được hiện thực khi Abram còn sống; nhưng cho đến nay hơn nửa dân số
điạ cầu chính thức coi mình là dòng dõi của Abram: Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi
Giáo.
(2)
Ban một Đất Hứa: Người lại phán với ông: "Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa
ngươi ra khỏi thành Urs của người Chaldean, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu...
Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông
Euphrate.” Điều này cũng không được thực hiện khi Abram còn sống, nhưng được thực
hiện khi Thiên Chúa đưa dân Do-thái ra khỏi Ai-cập và đưa họ vào sở hữu vùng Đất
Hứa chảy sữa và mật.
1.2/
Giao ước Thiên Chúa ký kết để bảo đảm Lời Hứa. Abram thưa: "Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ
được đất này làm sở hữu?" Để đáp câu hỏi của Abram, Người phán với ông:
"Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu
đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non." Ông kiếm cho Người tất cả những
con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông
không xẻ.
Theo
truyền thống Do-thái (x/c Jer 31:18), giao ước được ký kết bằng cách phân thây
súc vật. Nếu bên nào không chịu giữ lời cam kết, bên đó sẽ bị phân thây làm hai
như xác thú vật, và làm mồi cho các mãnh cầm. Khi ông đã chuẩn bị xong thì
“mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Abram đuổi chúng đi.”
Các nhà chú giải cho mãnh cầm là biểu tượng của những cám dỗ sẽ tới từ phiá
Abram, để ông không tin vào những gì Thiên Chúa hứa. Mãnh cầm bị xua đuổi đi vì
đức tin của Abram. Những hiện tượng lạ xảy ra cho Abram nói lên sự nghiêm trọng
của giao ước. Hiện tượng “một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị
xẻ đôi” là biểu sự hiện diện của Thiên Chúa (x/c Exo 3:2; 13:21; 19:18). Giao ước
được ký kết là hoàn toàn do từ phía Thiên Chúa; đó là lý do chỉ có Thiên Chúa
đi qua các lễ vật.
2/ Bài
đọc II: Chúng ta nóng lòng
mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta.
2.1/ Hai
loại người trong cuộc đời: Thánh
Phaolô nhận định có hai loại người chính trong cuộc đời:
(1)
Người không có niềm hy vọng nơi cuộc sống đời sau: Những người sống đối nghịch
với thập giá của Đức Kitô là những người Do-thái không tin Ngài được Thiên Chúa
sai đến để chuộc tội cho con người bằng cái chết trên thập giá. Những người “thờ
cái bụng” là những người theo chủ thuyết hưởng lạc, bằng lòng với những gì thế
gian dâng tặng. Họ chỉ biết có cuộc sống hiện tại, nên họ sẽ dành mọi nỗ lực để
thoả mãn những nhu cầu của thân xác. “Cái đáng hổ thẹn” có lẽ muốn ám chỉ việc
cắt bì mà những người Do-thái lấy làm hãnh diện.
2) Người
đặt niềm hy vọng vào cuộc sống mai sau: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở
trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng
ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi
thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” Đối với
các tín hữu, tuy họ vẫn sống đời này, nhưng với con mắt luôn hướng về đích điểm
là cuộc sống mai sau. Hy vọng của người tín hữu được bảo đảm bằng máu của Đức
Kitô đã đổ ra để rửa sạch tội lỗi cho con người; và Ngài đã phục sinh vinh hiển
về trời để chuẩn bị cuộc sống tương lai cho các tín hữu.
2.2/ Hãy
sống như có niềm hy vọng vào cuộc sống mai sau: Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy bắt chước ngài và những
ai đang “quên đi tất cả những gì đàng sau để lao mình về phía đích điểm, vượt
qua tất cả để lãnh triều thiên vinh hiển mà Đức Kitô đang sẵn sàng trao cho họ
như phần thưởng của một lực sĩ chiến thắng (Phi 3:13-14). Phaolô vừa muốn nhắc
lại những gì Đức Kitô đã hứa, vừa muốn chứng minh ngài là nhân chứng sống động
cho niềm tin vào cuộc sống mai sau.
Nếu
người tín hữu đã tin có cuộc sống mai sau, họ phải biểu lộ niềm tin này trong
cuộc sống bằng cách tin và thực hành tất cả những gì Đức Kitô truyền dạy; chứ
không thể sống như những người không tin vào Đức Kitô và không tin có sự sống đời
sau.
3/
Phúc Âm: Các ông nhìn thấy
vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người.
3.1/ Cuộc
biến hình của Chúa Giêsu: Trình
thuật của Lucas hôm nay muốn liên kết với trình thuật khi Phêrô tuyên xưng Chúa
Giêsu là Đức Kitô của Thiên Chúa và Chúa Giêsu tiên báo Cuộc Thương Khó sắp xảy
ra tại Jerusalem của Ngài (Lk 9:18-22), qua việc đề cập đến “tám ngày sau.” Mục
đích của Chúa Giêsu khi đem theo Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi cầu nguyện là
để cho các tông đồ chứng kiến thần tính thực sự của Ngài: “Đang lúc Người cầu
nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói
loà.”
Hai
nhân vật hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu là ông Moses và ông Elijah. Điều này
muốn nói cho các tông đồ biết Chúa Giêsu vừa là gạch nối Kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa vừa là đích điểm mà Lề Luật (ông Moses) và Tiên Tri (ông Elijah) phải
hướng về. Cuộc Thương Khó và Phục Sinh sắp tới của Chúa Giêsu làm trọn vẹn
chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
3.2/ Mục
đích của cuộc biến hình: Chúa
Giêsu nhìn thấy trước những gì sẽ xảy ra cho các tông đồ khi các ông phải chứng
kiến Cuộc Thương Khó, nên Ngài muốn cho các ông nhìn thấy rõ vinh quang thực sự
của Ngài. Chúa Giêsu hy vọng điều này sẽ giúp các ông có sức mạnh vượt qua những
sợ hãi và can đảm làm chứng cho Ngài.
Các
tông đồ cũng được nghe chứng từ của Thiên Chúa Cha qua tiếng vọng từ trời:
"Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!"
Theo Tin Mừng Nhất Lãm, đây là lần thứ hai Chúa Cha đã làm chứng cho Con của
Ngài; lần đầu khi Chúa Giêsu chiụ phép rửa tại sông Jordan (x/c Mt 3:17; Mk
1:11; Lk 3:22). Chúa Cha xác thực điều mà Phêrô đã tuyên xưng và Ngài muốn các
tông đồ vâng theo những gì Chúa Giêsu truyền dạy.
Nhìn
lại cả ba Bài Đọc, chúng ta nhận ra những điều sau:
1. Những gì Thiên Chúa hứa vượt quá trí
khôn con người có thể hiểu. Nếu Thiên Chúa không mặc khải, con người sẽ không
bao giờ thấu hiểu được.
2. Tổ phụ Abram, thánh Phaolô, và các
Tông-đồ đã phải vật lộn với bao nhiêu cám dỗ và thử thách để vững bền trông cậy
vào Lời Hứa của Thiên Chúa.
3. Những gì Thiên Chúa hứa sẽ luôn thành tựu.
Khi nào thành tựu, con người không biết trước được, vì Thiên Chúa không lệ thuộc
vào thời gian.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không giống như con người hay thay đổi
và vi phạm lời hứa; khi Thiên Chúa đã hứa điều gì, Ngài sẽ trung thành thực hiện
lời đã hứa. Chúng ta phải đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Lời Hứa của Thiên Chúa.
- Những
gì Thiên Chúa hứa với các tổ phụ được thực hiện và làm trọn hảo nơi Đức Kitô,
Người Con yêu dấu, qua Cuộc Thương Khó, Tử Nạn, và Phục Sinh vinh hiển của
Ngài.
- Niềm
hy vọng vào cuộc sống đời sau phải là đích điểm giúp chúng ta dựa vào đó để làm
những quyết định khôn ngoan và vượt qua mọi gian khổ ở đời này. Hy vọng này
không chỉ giúp chúng ta ở đời sau; nhưng còn giúp chúng ta có nghị lực sống vui
vẻ, hạnh phúc ngay từ đời này.
-
Gian nan thử thách cần thiết để chúng ta chứng tỏ đức tin và tình yêu của chúng
ta dành cho Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
21/02/16 CHÚA NHẬT TUẦN
2 MC – C
Lc 9,28b-36
Lc 9,28b-36
Suy
niệm: Tông sắc Dung
Mạo Lòng Thương Xót trình bày cho ta thấy dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha
chính là Đức Giê-su, một Đức Giê-su vừa đau khổ u buồn vừa hân hoan vui mừng.
Đau khổ cùng với nỗi đau của con người, đặc biệt đau khổ trong cuộc Khổ Nạn.
Hân hoan trong tình yêu với Chúa Cha và với con người, hân hoan vì yêu và được
yêu. Ngài yêu mến Chúa Cha, yêu thương con người; Ngài được Chúa Cha yêu
lại: “Đây là
Con Ta yêu dấu,” cũng
như được nhiều người, nhất là môn đệ, yêu thương đáp trả. Kinh nghiệm tình yêu
cho ta biết rằng yêu là chấp nhận đau khổ, nhưng yêu cũng đồng nghĩa với còn hy
vọng, niềm vui. Dung mạo Đức Giê-su vui tươi, hy vọng vì yêu thương, tin tưởng
nơi con người; dung mạo ấy lắm lúc đượm vẻ đau buồn cũng vì yêu con người, yêu
cho đến cùng.
Mời Bạn: Bạn làm thế nào để duy
trì niềm vui thánh thiện mình đang có? – Bạn hãy cầu nguyện sốt sắng như Chúa
Giê-su, và hãy “dựng lều” ở lại với Ngài trong bí tích Thánh Thể hằng ngày,
nhất là khi bạn hiệp thông với Ngài cách đặc biệt khi rước lễ.
Sống Lời Chúa: Đừng đánh mất niềm hy
vọng khi gặp thử thách, đừng chỉ biết tận hưởng niềm vui mà quên mất việc bổn
phận. Sau khi được biến đổi như ba môn đệ Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê, bạn hãy
“xuống núi,” trở lại với công việc đời thường cách tốt đẹp.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa Giê-su, dung
mạo Chúa trở nên chói lói, sáng ngời đang khi cầu nguyện. Xin cho con siêng
năng cầu nguyện, để cũng được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn con
đến Chân, Thiện, Mỹ. Amen.
KHUÔN MẶT NGÀI BIẾN ĐỔI
Chúng ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày, lấy
cớ mình bận làm những việc của Chúa. Thế giới hôm nay đói những người cầu nguyện,
và thừa ứ những người lăng xăng...
Suy niệm:
Khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm của con người.
Ai
cũng muốn mình có khuôn mặt dễ mến.
Người
ta bỏ ra nhiều tiền để sửa sang lại khuôn mặt,
vì
họ muốn người khác đổi cái nhìn về họ.
Bài
Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm
khuôn
mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi cao.
Chỉ
mình thánh Luca nói rõ chi tiết này:
“Ðang
khi Người cầu nguyện, thì khuôn mặt Người biến đổi”.
Gần
đèn thì sáng.
Gặp
gỡ Thiên Chúa làm biến đổi nội tâm con người,
thậm
chí làm biến đổi thân xác, biến đổi khuôn mặt,
và
cả những gì con người sử dụng cũng bừng tỏa:
“y
phục Người nên trắng ngời như chớp sáng”.
Trong
mùa Chay, chúng ta muốn biến đổi cuộc sống mình,
chúng ta muốn mang bộ mặt mới.
Chúng
ta đã làm nhiều điều, trừ một điều quan trọng,
đó
là lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa.
Núi
cao ở ngay trong sâu thẳm lòng ta,
nơi
đây ta gặp gỡ Người, diện đối diện.
Mọi
biến đổi nơi cá nhân cũng như tập thể,
nơi
gia đình, giáo xứ, dòng tu và cả Giáo Hội
đều
phải khởi đi từ việc tiếp xúc với Thiên Chúa.
Chúng
ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày,
lấy
cớ mình bận làm những việc của Chúa.
Thế
giới hôm nay đói những người cầu nguyện,
và
thừa ứ những người lăng xăng...
Ba
môn đệ thân tín cũng đâu có cầu nguyện.
Họ
ngủ li bì.
Sau
này ở núi Cây Dầu, họ cũng say ngủ.
Thế
nên họ chẳng biến đổi gì.
Dù
họ chợt tỉnh và thấy khuôn mặt ngời sáng của Chúa,
điều
đó chỉ đem lại cho họ chút hưng phấn chóng qua,
nhưng
không cho họ sức để trung thành theo Chúa.
Họ
mơ ước dựng lều ở ngọn núi thánh này,
vì
họ thích ngắm khuôn mặt rực sáng của Ðức Giêsu.
Nhưng
họ không có can đảm ở lại Núi Sọ,
để
chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy thương tích của Thầy.
“Hãy
vâng nghe lời Người”:
một
lời nhắc nhở hiếm hoi của Chúa Cha dành cho ta.
Bạn
có nghe thấy lời nào của Ðức Giêsu
vang
vọng nơi lòng bạn trong mùa Chay không?
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin
biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
21
Tháng Giêng
Chiếc Khăn Tay Vấy Mực
Ruskin
là một nghệ sĩ, phê bình nghệ thuật kiêm xã hội học người Anh sống vào cuối thế
kỷ 19.
Một
hôm, có một người đàn bà quý phái mang đến cho ông xem một chiếc khăn tay đắt
tiền đã bị vấy mực. Bà ta xuýt xoa tiếc rẻ vì chiếc khăn tay đã hoàn toàn mất
giá trị của nó.
Ruskin
không nói gì, ông chỉ xin cho ông mượn chiếc khăn tay trong một ngày. Ngày hôm
sau, ông trao lại chiếc khăn tay cho người đàn bà mà cũng không nói một lời
nào. Nhưng khi trải chiếc khăn tay ra, người đàn bà hết sức ngạc nhiên, bởi vì
từ một vết mực trong góc của chiếc khăn, nhà nghệ sĩ đã biến thành một bức
tranh tuyệt mỹ.
Chiếc
khăn tay có vấy mực tưởng đã bị vứt đi, nay đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật
để đời.
Những
người có niềm tin vào cuộc sống không bao giờ bỏ cuộc trước những thất bại. Họ
luôn biết biến những thất bại ấy thành khởi đầu của một thành công vĩ đại
hơn.
Người
có niềm tin vào Thiên Chúa cũng luôn nhìn vào thất bại, rủi ro, đau khổ trong
cuộc sống như cơ may của một ân phúc cao cả và dồi dào hơn.
Dạo
tháng 6 năm 1990, mục sư Anh giáo Michael Lapsley, người Zimbabwe bên Phi Châu,
vì là mục sư Tuyên úy của tổ chức Quốc đại Châu Phi bao gồm các lực lượng tranh
đấu cho quyền lợi của người da đen Nam Phi, đã bị quân khủng bố đặt chất nổ khiến
ông bị cụt hai tay, mù một mắt và hỏng lỗ tai. Trong một tuyên ngôn công bố sau
đó, ông đã viết như sau: "Họ đã lấy mất đôi tay của tôi. Nhưng tôi không
buồn, bởi vì tôi không dùng đến võ khí để cần phải có đôi tay. Họ đã lấy mất một
phần đôi mắt của tôi và thính giác của tôi, nhưng tôi vẫn còn có thể dâng hiến
lời nói để tiếp tục rao giảng một cách xác tín và mạnh mẽ hơn".
Người
ta vẫn thường nói: Yêu là chết trong lòng một ít. Tình yêu đích thực luôn luôn
đòi hỏi hy sinh, mất mát. Nhưng chỉ có đôi mắt tình yêu mới nhận ra giá trị của
những mất mát ấy.
Qua
cái chết trên thập giá như một tiêu hao hoàn toàn, Chúa Giêsu đã bày tỏ Tình
Yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, ánh sáng của Tình Yêu đã chiếu sáng qua sự mất
mát ấy. Qua những hao mòn trong từng ngày của cuộc sống Mẹ Maria, Tình Yêu của
Thiên Chúa cũng được tiếp tục bày tỏ. Có cái chết độc ác, tức tưởi của Chúa
Giêsu trên thập giá, thì cũng có cái chết âm thầm từng ngày của Mẹ Maria. Ngày
nay, tình Yêu của Thiên Chúa cũng cần có những mất mát, hao mòn khác của người
Kitô để được tiếp tục bày tỏ cho con người, bởi vì sứ mệnh của người Kitô chính
là bổ túc cho những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ðức Kitô.
Lẽ sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét