28/02/2016
Chúa Nhật tuần 3 Mùa Chay năm C
(Phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật III Mùa Chay - Năm C
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY – NĂM C
Xh 3,1-8a.13-15 ; 1Cr 10,1-6.10-12
Lc 13,1-9
Xh 3,1-8a.13-15 ; 1Cr 10,1-6.10-12
Lc 13,1-9
HÃY SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC SỐNG
“Nếu các ông không chịu sám hối,
thì các ông cũng sẽ chết y như vậy.”
(Lc 13,5)
thì các ông cũng sẽ chết y như vậy.”
(Lc 13,5)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. BÀI ĐỌC I (Xh
3,1-8a.13-15)
Đoạn
sách Xuất hành hôm nay kể lại việc Môsê đối thoại với Thiên Chúa khi ông nhìn
thấy bụi gai bốc cháy nhưng không bị thiêu rụi. Môsê được Thiên Chúa cho biết
bụi gai bốc lửa, nơi ông đang muốn đến xem là nơi thánh vì Thiên Chúa hiện diện
ở đó. Thiên Chúa cũng khẳng định với Môsê rằng Người chính là Thiên Chúa của
các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp; Người cũng chính là Thiên Chúa của toàn
thể Israel, và là Đấng trung thành với lời giao ước. Như Người đã là Thiên Chúa
của các tổ phụ và cứu giúp họ, thì nay người cũng trợ giúp con cái Israel. Bởi
thế, Người đã chọn Môsê như vị lãnh đạo để giải thoát Israel dân riêng của
Người thoát khỏi ách nô lệ Ai cập.
Tên
của Thiên Chúa được mạc khải cho Môsê và Israel “Ta là Đấng Ta là” khẳng định
sự hiện diện của Người, sự trợ giúp đối với con cái Israel. Nếu như con cái
Israel dưới ách nô lệ Ai cập cảm thấy Thiên Chúa đang vắng bóng thì mạc khải về
tên của Người khẳng định sự hiện diện của Người. Người hiện diện để đưa họ ra
khỏi Ai cập, đưa họ đến vùng đất chảy sữa và mật. Chính Môsê là Người được
Thiên Chúa tuyển chọn để thi hành sứ vụ giải phóng dân Người.
Như
thế việc Thiên Chúa hiện diện qua bụi gai bốc cháy vừa khẳng định sự hiện diện
của Người, đồng thời cũng xác định ơn gọi của Môsê chính là từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ đồng hành cùng Môsê trong sứ vụ mà Người trao phó cho ông. Sứ vụ
của ông sẽ đánh dấu một giai đoạn quyết định trong lịch sử cứu độ. Thiên Chúa
là Chúa của Israel và Israel là dân Người tuyển chọn. Do đó, Người sẽ luôn hiện
diện và cứu giúp họ.
2. BÀI ĐỌC II (1Cr
10,1-6.10-12)
Từ
lịch sử của Israel thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu giáo đoàn Côrintô cũng như
các Kitô hữu không nên tự hào về sự trung thành với Thiên Chúa và chắc chắn
rằng mình sẽ được cứu độ. Chương 10 của thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô nằm
trong bối cảnh thánh Phaolô lên án việc thờ ngẫu tượng. Ngài khuyến cáo các tín
hữu bằng việc nhắc lại cho họ thấy, Israel đã được tuyển chọn, đã được chứng
kiến những hành động diệu kỳ của Thiên Chúa, đã trải qua những kinh nghiệm
thiêng liêng, nhưng họ đã không đứng vững trước những thử thách và đã bất trung
với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đoán phạt Israel tội lỗi thì Người cũng sẽ đoán
phạt các Kitô hữu về sự bất trung của họ.
Thánh
Phaolô nhắc nhở các tín hữu đừng sa vào việc thờ ngẫu tượng, không chỉ qua việc
thờ cúng các thần nhưng còn bởi đời sống thiếu luân lý, coi như Thiên Chúa
không hiện diện hay thậm chí còn thử thách Người. Sự vâng phục và trung thành
được thể hiện qua việc vâng nghe và tuân giữ chứ không kêu ca trách móc phàn
nàn như dân Israel đã bất tuân chống lại Thiên Chúa. Đặc biệt việc kêu trách
chống lại các vị lãnh đạo bởi những lời dạy dỗ của họ cũng là hành đông chống
lại Thiên Chúa. Tất cả tín hữu cũng được thánh Phaolô mời gọi hãy luôn tỉnh
thức để không trở nên bất trung với Thiên Chúa. Đừng ai nghĩ rằng mình được đảm
bảo sẽ được cứu độ, không bị Thiên Chúa luận phạt nên cứ sống trong sự vô luân
và tôn thờ ngẫu tượng.
3. BÀI TIN MỪNG (Lc
13,1-9)
“Nếu
các ngươi không hoán cải, các ngươi sẽ bị tiêu diệt như thế”. Đó là lời kết của
Chúa Giêsu sau hai “thảm kịch” mà thánh Luca tường thuật lại trong bài Tin Mừng
hôm nay. Vào thời Chúa Giêsu, người ta tin rằng những tai ương hoạn nạn xảy đến
cho một người là hình phạt tương xứng với những tội người đó đã phạm, là cách
mà Thiên Chúa thực hiện sự công bằng. Bởi thế họ nghĩ rằng những người Galilê
bị Philatô giết hay 18 người bị tháp Siloê đè chết là những người tội lỗi. Điều
này dẫn đến nguy hiểm là những người không bị đau khổ bất hạnh đều cho là mình
vô tội. Chúa Giêsu đã sửa sai quan niệm này và giúp họ hiểu rằng không có sự
liên hệ giữa tội lỗi và tai ương hoạn nạn, và mọi người đều là những tội nhân
và cần phải hoán cải. Người khẳng định rằng những người bị giết hay bị tháp đè
không phải là những người tội lỗi hơn mọi người khác, nhưng cái chết của họ là
một lời nhắc nhở những người còn sống hãy ăn năn hoán cải. Mọi người đều phải
chết và thậm chí có thể chết cách bất ngờ như những người bị tháp đè. Do đó cần
hoán cải, canh tân đời sống theo lời mời gọi cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo.
Dụ
ngôn cây vả trong phần hai của bài Tin Mừng tiếp tục lời mời gọi hoán cải của
Chúa Giêsu. Có thể nói Israel được ví như vườn nho nơi Thiên Chúa đã gửi các
ngôn sứ và chính con của Người đến để thu hoa trái. Nhưng Thiên Chúa cũng giàu
lòng thương xót, Người kiên nhẫn trước sự cứng cỏi tội lỗi của con người. Người
luôn dành cho con người thời gian để ăn năn sám hối và đón nhận ơn cứu độ.
Nhưng nếu như con người từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa, từ chối ăn năn hối
cải, từ chối lòng nhẫn nại thương xót của Thiên Chúa thì họ sẽ phải chịu trách
nhiệm về chính mình. Nếu như những người Galilê chết dưới bàn tay của
Philatô, hay những người bị tháp đè chết vì sự không may, thì những người không
hoán cải sẽ bị tiêu diệt vì chính tội của họ như cây vả không sinh trái, và
chắc chắn tội của họ nặng hơn tội của những người khác.
II. CÂU HỎI GỢI Ý
1. “Hãy
ăn năn sám hối” là lời mời gọi của Chúa Giêsu ngay khi bắt đầu rao giảng Tin
Mừng. Lời mời gọi này được nhắc đi nhắc lại trong mùa Chay thánh. Tôi có thật
sự lắng nghe và thực hành lời mời ăn năn hoán cải này chưa? Tôi có ý thức về
tội lỗi của mình để ăn năn hoán cải chưa, hay tôi nghĩ mình đã “đạo đức đủ” qua
việc thường xuyên tham dự các Bí tích, đọc kinh nhiều giờ?
2. Tôi có
sẵn lòng lắng nghe những lời góp ý, những lời dạy dỗ của những người có trách
nhiệm để sửa đổi những sai lầm thiếu sót, hay tôi khó chịu khi nghe những góp ý
chân thành nhưng không được tốt về mình và tìm cách biện hộ hay thậm chí thù
ghét người đã giúp mình?
3. Tôi có
nghĩ mình đạo đức hơn người khác để rồi xét đoán người khác, khinh chê những
người tôi cho là kém đạo đức, khinh bỉ những người tôi cho là tội lỗi? Lời Chúa
hôm nay có giúp tôi nhìn lại mình và nhận ra con người thật của mình hay không?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa là Cha nhân từ đã sai Con Một của Người là Đức
Giêsu Kitô đến mời gọi những người tội lỗi trở về hiệp thông với Người. Với
niềm tin tưởng và lòng sám hối chân thành, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội
Thánh có sứ mạng làm chứng cho tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta cùng
cầu nguyện cho các vị chủ chăn luôn là hiện thân của Đấng giàu lòng thương xót
và hay tha thứ qua việc quảng đại đón nhận và tận tâm giúp đỡ những người lầm
lỗi.
2. Thiên
Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi và sẵn sàng tha thứ cho những người sám hối. Chúng
ta cùng cầu nguyện cho những ai đang lầm đường lạc lối, biết nhận ra tình trạng
tội lỗi bất xứng của mình, mà quyết tâm quay về với tình thương tha thứ của
Thiên Chúa.
3. Sám
hối tích cực phải nhất thiết đưa đến việc canh tân đời sống. Chúng ta cùng cầu
nguyện cho mọi kitô hữu trong mùa Chay thánh này biết ý thức đào sâu đức tin,
gia tăng việc lành, và nhiệt tâm sửa đổi bản thân để ngày càng hoàn thiện hơn.
4. Thánh
Phaolô nhắn nhủ: “Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.” Chúng ta
cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn có thái độ khiêm
tốn quảng đại, không bao giờ xét đoán hay chỉ trích gây thiệt hại cho người
khác.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban ơn nâng đỡ giúp chúng con thành tâm
sám hối, canh tân đời sống, và luôn gắn bó mật thiết với Đức Giêsu Kitô, Con
Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Chủ đề : Hãy sám hối
"May ra sang năm
nó sẽ có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt đi"
(Lc 13,9)
Sợi
chỉ đỏ :
Các
ý tưởng trong các bài đọc hôm nay được triển khai dần dần để dẫn đến ý tưởng
chính là "Hãy sám hối" :
- Vì
yêu thương, Thiên Chúa đã chọn Môsê để bắt đầu công trình giải thoát họ qua
cuộc xuất hành (Bài đọc I) ;
-
Các kitô hữu cũng được dẫn dắt qua một cuộc Xuất hành như dân do thái xưa. Tuy
nhiên chúng ta đừng có thái độ như họ : chìu theo dục vọng và luôn kêu ca
trách móc Thiên Chúa (Bài đọc II) ;
-
Thái độ phải có là sám hối (Bài Tin Mừng)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Lời
Chúa hôm nay rất khẩn thiết : "Nếu các ngươi không sám hối, các ngươi
sẽ phải chết". Phụng vụ dành cho chúng ta một thời gian dài 40 ngày của
Mùa Chay để chúng ta nhận thức tình trạng tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối.
Đây đúng là lúc thuận tiện, đây đúng là thời cứu độ. Chúng ta đừng phí phạm cơ
hội Chúa ban, đừng làm ngơ trước lời kêu gọi của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
-
Chúng con thiếu sót rất nhiều trong bổn phận kính mến và thờ phượng Chúa. Xin
Chúa thương xót chúng con.
-
Chúng con lỗi phạm rất nhiều trong tương quan với tha nhân. Xin Chúa thương xót
chúng con.
-
Chúng con còn làm nô lệ cho tiền bạc, của cải, tiện nghi. Xin Chúa thương xót
chúng con.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Xh 3,1-15)
Tuần
vừa qua, chúng ta được kể về chặng thứ nhất trong Lịch sử cứu độ : Thiên
Chúa chọn Abraham để thành lập một dân mới. Tuần này chúng ta được nghe kể tiếp
chặng thứ hai : Thiên Chúa chọn Ông Môsê để giải phóng dân ấy khỏi ách nô
lệ Ai cập.
Lúc
bấy giờ Môsê đang trốn trong sa mạc vì sợ Pharao lùng bắt. Ông làm nghề chăn
chiên. Một hôm đang khi Môsê chăn chiên thì Thiên Chúa hiện ra với ông.
-
Thiên Chúa hiện ra trong một bụi gai rực lửa nhưng bụi gai ấy không bị cháy
rụi : Thiên Chúa là Đấng rất hùng mạnh, nhưng sức mạnh của Ngài không phải
dể tiêu diệt mà để giải thoát.
-
Thiên Chúa gọi đích danh Môsê : Ngài biết rõ từng người.
-
Thiên Chúa nói với Môsê "Ta đã thấy rõ cảnh khổ của dân Ta… Ta xuống
giải thoát chúng…" : Thiên Chúa là Đấng giải thoát.
-
Khi Môsê hỏi Tên Thiên Chúa thì Ngài đáp bằng một câu nói bí ẩn "Ta là
điều Ta là". Có nhiều lối giải thích kiểu nói này : (1) Thiên
Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên
Chúa ; (2) Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu khi thấy các việc Ta sẽ làm
(sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân do thái : người ta se hiểu
Ngài là Đấng giải thoát) ; (3) Câu nói đó có thể dịch là "Ta là Đấng
hằng hữu" ; (4) Cũng có thể dịch là "Ta là Đấng là" :
ngược với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trả, chỉ có một mình Thiên Chúa là
có thật.
Điều
quan trọng nhất của tường thuật này là Thiên Chúa thương dân Ngài và muốn giải
thoát họ khỏi cảnh khổ.
2.
Đáp ca (Tv 102)
Thánh
vịnh 102 triển khai ý chính của bài đọc I : ca tụng những công trình giải
thoát của Thiên Chúa.
3.
Tin Mừng (Lc 13,1-9)
Ý
chính của đoạn Tin Mừng này là kêu gọi sám hối :
- cc
1-5 : người do thái thời Chúa Giêsu quen nghĩ "ác giả ác báo".
Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những
nạn nhân ấy là "ác giả" cho nên bị "ác báo". Chúa Giêsu
khuyên đừng hồ đồ suy đoán về người khác những mỗi người hãy coi các tai nạn đó
là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm mình để lo sám hối.
- cc
6-9 : Qua dụ ngôn cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu bảo mỗi người hãy tận
dùng thời gian gia hạn mà Thiên Chúa đã ban cho mình để sớm lo sám hối.
4.
Bài đọc II (1 Cr 10,1-6.10-12)
Thánh
Phaolô giải thích ý nghĩa các biến cố trong cuộc Xuất hành :
-
Việc vượt qua Biển Đỏ là tượng trưng cho Phép Rửa.
-
Tảng đá đã phun ra nước cho dân do thái uống tượng trưng cho Chúa Giêsu.
-
Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân do thái xưa. Nhưng đừng bắt chước họ
chìu theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại ngoan ngoãn hành
trình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1.
Hãy ăn năn sám hối
Lời
Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối. Lời kêu gọi này không chỉ
nhắm đến những kẻ tội lỗi mà nhắm đến mọi người không trừ ai. Thế nhưng có
người sẽ thắc mắc : người tốt cũng cần phải sám hối sao ?
Trong
trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt
lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin Mừng
này. Ông chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó
không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trai
vả thì đâu còn là cây vả nữa.
Các
kitô hữu ít khi tự đặt cho mình câu hỏi này : Điều gì lẽ ra tôi phải làm
mà lại không làm ? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm
điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy "sinh trái" bằng những việc tốt.
Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhắm đến mọi người. (FM)
* 2.
Cơ hội thứ hai
Có
một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau :
Cây
vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá
nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười
cầm nó lên và rao bán :
-
Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây ?
Một
đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao ? Ai sẽ trả nó ba đồng đây.
Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao ?
Bỗng
từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau
sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm
dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại,
người bán đấu giá chậm rãi, hỏi :
-
Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây ?
Đoạn
ông vừa cầm đàn lên vừa nói :
-
Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên hai ngàn ? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng
lên ba ngàn không ? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không ?
Đám
đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên :
-
Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm
đó ?
Lập
tức có tiếng đáp lại :
-
Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy !
*
Đứng
trước những biến cố đem lại tai hoạ và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu
không bình luận theo quan điểm của người Do Thái thời đó : Tin Mừng hôm
nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp
Siloê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai
hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những
người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về
sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những
người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi
người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của
Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Tính
cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả :
Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Ítraen là
cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Ítraen làm dân riêng của
Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung
thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên
Chúa đã chấp thuận đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một
thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ
kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã
bị Thiên Chúa loại bỏ : Điều đó đã được chứng thực vào năm 7O sau Công
Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên
Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Người và yêu
thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa
trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của Người,
thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho
chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn,
chính là Đức Glêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của
những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng
ta hãy cảm tạ tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng
tối đa cơ may ấy để sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh.
*
Lạy
Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh
thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian
sám hối ăn năn.
Xin
đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin
cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày
một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám
hối. Amen. (TP)
* 3.
Kiên nhẫn
Cây
vả được trồng 3 năm thì tới lúc có trái. Nếu đến khi đó mà nó vẫn chưa có trái
thì hầu như sẽ chẳng bao giờ có trái nữa. Đây là trường hợp của cây vả trong
bài Tin Mừng hôm nay. Bởi vậy ông chủ ra lệnh đốn bỏ nó, để khỏi chật đất, để
khỏi tốn công chăm sóc, để danh chỗ trồng cây khác hữu ích hơn. Nhưng người làm
vườn vẫn chưa nản lòng. Người này vẫn còn hy vọng nơi cây vả, nên xin ông chủ
cho thêm thời hạn một năm nữa. Trong thời gian này ông sẽ tích cực bồi dưỡng và
chăm sóc cho nó. Sau đó nếu nó vẫn không trái thì mới bị chặt đi.
Dụ
ngôn không cho ta biết kết quả cuối cùng thế nào. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ nói
lên điều Chúa Giêsu muốn nói : cũng như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi
cây vả ra trái, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối.
Lịch
sử đầy dẫy những thí dụ về những người nhờ được người khác kiên nhẫn cho thêm
cơ hội nên về sau trở thành những vĩ nhân. (1) Ngay trong bài đọc I hôm nay đã
có một tấm gương : Môsê khi còn trẻ đã phạm tội giết người. Chúa không
phạt ông, mà còn sử dụng tính khí nhiệt tình của ông để giải phóng dân do thái
khỏi ách nô lệ Ai cập. (2) Einstein mãi đến hai tuổi mới bắt đầu biết nói bập
bẹ. Khi Einstein đến trường, các giáo viên cũng ngã lòng vì sự chậm chạp của
ông. Vậy mà Einstein đã trở thành nhà bác học được đánh giá là nổi bật nhất của
thế kỷ.
Có
nhiều người phát triển rất chậm và muộn màng, nhưng lại là những nhân tài.
Những người như thế cần có ai đó tin tưởng họ, kiên nhẫn chờ đợi họ và tạo cơ
hội cho họ. Nếu không thì kho tàng tài năng của họ sẽ bị vùi dập và mai một đi.
Chúng
ta biết cho chính bản thân mình thêm cơ hội. Tại sao chúng ta không làm như thế
đối với người khác ? (FM)
4.
Đất thánh
Chúa
phán với Môsê : "Nơi ngươi đang đứng là đất thánh".
Mọi
nơi trên mặt đất này mà Chúa ban cho ta đều là đất thánh và đáng được chúng ta
kính trọng. Nhưng mảnh đất thánh thiện nhất nằm ngay trong chúng ta.
Trước
hết, thân xác chúng ta là thánh. Thân xác là thánh vì nó là công trình tạo dựng
của Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn đưa ra lý do thứ hai : "Thân xác anh
em là đền thờ của Chúa Thánh Thần". Vậy chúng ta phải tôn trọng và chăm
sóc thân xác chúng ta.
Tâm
trí chúng ta cũng là thánh. Nhiều người hằng ngày cứ nhồi vào tâm trí mình đủ
thứ điều xấu xa từ tivi, radio, sách báo v.v. Chúng ta hãy nghe lời Thánh
Phaolô : "Anh em hãy đong đầy tâm trí những gì chân thật, cao quý,
những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm
tiếng tốt những gì là đức hạnh đáng khen" (Pl 4,8)
Nhưng
thánh nhất là tâm hồn chúng ta. Ngày nay người ta rất quan tâm đến sự sạch sẽ
bên ngoài nhưng lại quên đi sự sạch sẽ bên trong, tức là sự sạch sẽ của tâm
hồn. Từ tâm hồn sinh ra tư tưởng, lời nói, việc làm như dòng nước phát sinh từ
mạch nước. Nếu mạch nước mà sạch thì nước chảy ra cũng sạch. Vậy chúng ta hãy
giữ cho tâm hồn trong sạch và tinh tuyền. Chúa Giêsu nói "Phúc cho những
ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Chúa". (FM)
5.
Tản mạn suy tư
a/
Trong bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng ngạc nhiên là Chúa
không hiện ra cho ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc ; và Chúa hiện ra
không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông chăn cừu. Chúa hiện ra cho
Môsê ở một nơi phàm trần và trong một sinh hoạt phàm trần.
Ngày
nay thế giới đã trở thành một nơi phàm trần. Thật khó mà giữ được một ý thức
thiêng thánh trong một thế giới như thế. Tuy nhiên, nếu không có thiêng thánh
và ý thức hướng thượng, thì cuộc đời sẽ nghèo nàn và thấp hèn biết bao.
Trong
cuộc gặp gỡ giữa Môsê với Thiên Chúa, cảm xúc lấn át nhất xem ra là sợ hãi.
Nhưng thực ra không phải thế. Khi Thánh Kinh nói về sự sợ đối với Thiên Chúa
thì không phải là sợ hãi mà là kính sợ. Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực, nó
khiến ta co rúm lại và muốn chạy trốn ; còn kính sợ là một cảm xúc tích
cực, nó khuyến khích ta tiến đến gần đối tượng đang tác động lên mình, ta không
cảm thấy bị hạ xuống, mà được nâng lên.
Tín
ngưỡng bắt đầu bằng cảm xúc kính sợ, kính sợ vì nhận biết sự cao cả của Thiên
Chúa và giới hạn thấp hèn của con người. Kính sợ đi trước, và đức tin đến sau.
Mà
kính sợ thì bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng. Môsê đã ngỡ ngàng khi thấy bụi gai cháy
rực mà không rụi tàn.
b/
Tuy nhiên rất dễ ngỡ ngàng trước một sự kiện bất thường như thế. Ngay cả người
khùng cũng biết ngỡ ngàng trước sự bất thường. Còn người khôn thì biết ngỡ
ngàng trước những sự bình thường. Đây mới là vấn đề. Chúng ta ước ao được ngỡ
ngàng trước một phép lạ, nhưng chúng ta không ngỡ ngàng khi ngắm cảnh hoàng
hôn. Hầu hết chúng ta cảm thấy khó mà nhận ra nét cao cả và đáng ngỡ ngàng nơi
những sự việc bình thường trong cuộc sống ; chúng ta không nhận ra những
"phép lạ" vẫn diễn ra hằng ngày chung quanh chúng ta.
Tâm
tình tôn thờ bắt nguồn từ ý thức về những phép lạ như thế. Kính sợ và ngỡ ngàng
có thể được khơi lên bởi những sự việc rất nhỏ bé, chẳng hạn một hạt cát, một
chiếc lá hay một giọt mưa.
Một
đức tin cần được củng cố bằng phép lạ là một đức tin nghèo nàn. Những ai đã gắn
bó với Chúa thì không cần phép lạ nữa, vì họ đã ý thức mình đang sống trong một
thế giới được quyền năng Chúa bao bọc, họ nhìn đâu cũng thấy Chúa.
Người
nào có khả năng nuôi dưỡng đức tin của mình bằng những phép lạ đời thường thì
giống như người đang ngồi nơi bàn tiệc.
c/
Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng
đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh ? Thưa chính là
sự hiện diện của Chúa. Nếu thế thì nhà thờ cũng là nơi thánh, vì có Chúa hiện
diện trong nhà thờ. (FM)
6.
Tại sao Chúa chọn Môsê ?
Trích
đoạn của bài đọc I không cho ta biết tại sao Chúa chọn Môsê. Nhưng trước trích
đoạn này có ba đoạn khác có thể giúp chúng ta trả lời được câu hỏi này.
-
Một lần kia Môsê thấy một người Ai cập hà hiếp một người do thái, ông chịu
không được nên đã ra tay can thiệp.
-
Một lần khác ông thấy hai người do thái đánh nhau, ông chịu không nổi nên cũng
ra tay can thiệp.
- Và
một lần nữa, ông thấy những người chăn chiên xứ Mađian ngăn cản không cho các
con gái của Ông Yêthro múc nước, ông không chịu nổi nên lại ra tay can thiệp.
Cả
ba chuyện trên đều cho thấy Môsê là người không thể khoanh tay đứng nhìn trước
cảnh bất công. Bởi thế khi Thiên Chúa "thấy cảnh khổ cực của dân Ta… Ta
xuống giải thoát chúng…" thì Ngài chọn Môsê.
7.
Chuyện minh họa
a/
Ăn năn
Satan
phàn nàn với Chúa : "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai
trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn
nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời. "Chúa nói :
"Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa ?".
b/
Cơ hội cuối cùng
Sau
khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh
thắp lên một cây nến, rồi nói với họ : "Ai chịu đầu hàng và thề trung
thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi
cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu". Thiên Chúa cũng đối xử với
tội nhân như vậy : Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một
khác biệt quan trọng : không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay
ngắn. (Tonne).
V. Lời nguyện cho mọi
người
Chủ
tế : Anh chị em thân mến, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng vô
cùng thánh thiện, con người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi vết nhơ tội
lỗi. Với tâm tình sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống, chúng ta cùng dâng lời
cầu xin :
1. Hội thánh luôn mời gọi
người Kitô hữu thành tâm sám hối vì những lỗi lầm đã phạm / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết tích cực sống tinh thần cầu
nguyện và sám hối của Mùa Chay.
2. Trong đời sống thường
ngày / vẫn còn biết bao người đói khổ vì quá nghèo túng / Chúng ta
hiệp lời cầu xin cho những người giàu có / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo
cho những ai khó nghèo.
3. Hãy thay đổi đời
sống / vì Nước Trời đã tới gần bên / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
các Kitô hữu / biết nỗ lực hoán cải con tim / thay đổi tính
hạnh / để ngày càng nên giống Chúa Giêsu hơn.
4. Sám hối trước tiên là
lãnh nhận bí tích Hòa Giải / rồi thực hành bác ái yêu thương / Chúng
ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chân thành xưng
thú tội lỗi / và yêu thương hết thảy mọi người.
Chủ
tế : Lạy Chúa, biết bao lần chúng con đã sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi
mới đời sống cho đẹp lòng Chúa, nhưng chúng con chưa thực hiện được những gì
muốn quyết tâm sửa đổi vì yếu đuối. Vậy xin Chúa ban thêm sức mạnh cho chúng
con. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước
kinh Lạy Cha : Trong tâm tình sám hối, khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta
hãy đặc biệt đọc cách rất thức lời nguyện "và tha nợ chúng con như chúng
con cũng tha kẻ có nợ chúng con"
VII. Giải tán
Như
người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cho cây vả sinh ra, Thiên Chúa cũng đang kiên
nhẫn chờ đợi chúng ta sám hối và sinh ra hoa trái những việc lành. Chúng ta
đừng làm cho Chúa phải thất vọng.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật III Mùa Chay (C)
Chúa Nhật, 28 Tháng 2,
2016
Chúa Giêsu nhận xét về
các sự kiện trong ngày
Phương cách để giải
thích các dấu chỉ thời đại
Lc 13:1-9
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh
với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.
Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã
giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn
về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết
thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh
lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh
Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung
quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa
hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được
hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng
Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý
và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã
mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng
con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Đoạn Tin Mừng của Chúa
Nhật thứ ba Mùa Chay đặt trước chúng ta hai sự kiện riêng rẽ nhưng có liên quan
đến nhau: Chúa Giêsu nhận xét về các sự kiện trong ngày và Người kể
một dụ ngôn. Lc 13:1-5: Theo lời yêu cầu của dân chúng,
Chúa Giêsu nhận xét về các sự kiện trong ngày: việc tàn sát những
người hành hương bởi quan Philatô và việc chết thảm của mười tám người tại tháp
Silôê. Lc 13:6-9: Chúa Giêsu kể dụ ngôn về cây vả không sinh
trái.
Trong lúc đọc, bạn cần
lưu ý hai điều: (i) Quan sát cách thức Chúa Giêsu phủ nhận việc diễn
giải thông thường về những gì đang xảy ra; (ii) Tìm xem liệu có mối liên quan
nào giữa bài dụ ngôn và lời nhận xét về những sự kiện trong
ngày.
b) Phần phân đoạn văn bản để
trợ giúp cho bài đọc:
Lc 13:281: Người
ta thuật lại cho Chúa Giêsu về việc thảm sát mấy người Galilê
Lc 13:2-3: Chúa
Giêsu nhận xét về việc thảm sát và từ đó rút ra một bài học cho người ta
Lc 13:4-5: Để
chứng minh cho ý nghĩ của mình, Chúa Giêsu nhận xét về một sự kiện khác
Lc 13:6-9: Dụ
ngôn cây vả không sinh hoa trái
c) Tin Mừng:
1 Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy
người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng
bảo: 2 "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị
ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ
Galilê ư? 3 Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu
các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như
vậy. 4 Cũng như mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè
chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? 5 Ta
bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả
các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
6 Ngài nói với họ dụ
ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả
ở cây đó mà không thấy, 7 ông liền bảo người làm vườn
rằng: 'Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt
nó đi, còn để nó choán đất làm gì!' 8 Nhưng anh ta đáp
rằng: 'Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và
bón phân; 9 may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông
sẽ chặt nó đi'".
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể
thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong
phần suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào
trong bài Tin Mừng này đã đánh động hoặc đã làm bạn hài lòng nhất? Tại
sao?
b) Lời giải thích
thông thường về hai sự kiện này là
gì?
c) Chúa Giêsu
không tán thành với lời giải thích thông thường về các sự kiện như thế
nào?
d) Ý nghĩa
của bài dụ ngôn là gì? Có điều gì liên kết giữa bài dụ ngôn và lời
nhận xét của Chúa về các sự kiện không?
e) Sứ điệp
của bài Tin Mừng này đối với chúng ta là những người phải giải thích những dấu
chỉ của thời đại ngày nay là gì?
5. Phần dành
cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh
văn học và lịch sử thời bấy giờ và ngày nay:
Thánh Luca viết sách Tin Mừng của ông
vào khoảng năm 85 sau Công Nguyên cho các cộng đoàn Kitô hữu ở Hy
Lạp. Một cách tổng quát, ông dựa theo lời tường thuật trong sách
Phúc Âm của thánh Máccô. Thỉnh thoảng ông đưa ra một vài khác biệt
nho nhỏ hoặc thay đổi một số từ ngữ để thích ứng câu chuyện với mục đích của
ông. Khác với Tin Mừng Máccô, Luca cũng còn tham khảo các sách khác
và có các nguồn tư liệu khác: các nhân chứng và các thừa tác viên
của Lời Chúa (Lc 1:2). Tất cả các tài liệu không thấy hiện diện
trong sách Tin Mừng của Máccô, Luca sắp xếp lại thành một hình thức văn
học: Chúa Giêsu trên cuộc hành trình dài từ Galilêa về
Giêrusalem. Có sự mô tả về cuộc hành trình trong sách Luca từ câu
9:51 đến câu 19:28 và điều này bao gồm mười chương hoặc một phần ba của sách
Tin Mừng!
Trong những chương này, thánh Luca liên
tục nhắc nhở các độc giả của mình rằng Đức Giêsu đang đi trên một cuộc hành
trình. Hiếm khi nào ông nói cho chúng ta biết Chúa Giêsu đang ở đâu,
nhưng ông cho chúng ta biết rõ ràng rằng Chúa Giêsu đang trên đường đi và điểm
dừng chân sẽ là Giêrusalem nơi Người sẽ chịu chết theo như lời các ngôn sứ đã
báo trước (Lc 9:51,53,57; 10:1,38; 11:1; 13:22,33; 14:25; 17:11; 18:31,35;
19:1,11,28). Và ngay cả sau khi Chúa Giêsu đã đến Giêrusalem, Luca
vẫn tiếp tục nói về cuộc hành trình hướng về trung tâm thành thánh (Lc
19:29,41,45; 20:1). Ngay trước khi cuộc hành trình bắt đầu, nhân dịp
Chúa Biến Hình vời các ông Môisen và Êlia trên núi, cuộc hành trình tiến về
Giêrusalem được xem như là cuộc xuất hành đối với Chúa Giêsu
(Lc 9:31) và như là việc Chúa lên trời (Lc
9:51). Trong Cựu Ước, ông Môisen đã dẫn dân chúng trong cuộc xuất
hành thứ nhất được giải phóng khỏi sự áp bức của Pharaôn (Xh 3:10-12) và tiên
tri Êlia được lên thiên đàng (2V 2:11). Chúa Giêsu là ông Môisen
mới, Đấng đến để giải thoát con người khỏi sự áp bức của Lề
Luật. Người là ông Êlia mới, Đấng đến để chuẩn bị cho Nước Trời đã
gần đến.
Lời mô tả cuộc hành trình dài của Chúa
Giêsu tiến về Giêrusalem không chỉ là dụng cụ văn học để giới thiệu tài liệu
thích hợp cho Luca. Nó cũng phản ảnh cuộc hành trình dài và cam go
mà các cộng đoàn ở Hy Lạp đã trải qua trong cuộc sống hằng ngày của họ vào thời
của Luca: trải qua từ thế giới nông thôn từ vùng Paléstine đến môi
trường quốc tế trong nền văn hóa Hy Lạp ở biên giới các đô thị lớn của châu Á
và châu Âu. Đoạn Tin Mừng này hoặc sự hội nhập văn hóa được đánh dấu
bằng sự căng thẳng mạnh mẽ giữa những người Kitô hữu xuất thân từ Do Thái giáo
và những tân tòng xuất thân từ các nhóm sắc tộc và văn hóa
khác. Thật vậy, lời mô tả cuộc hành trình dài tiến về Giêrusalem
phản ảnh tiến trình chuyển đổi khó nhọc mà những người liên đới với Do Thái
giáo phải trải qua: rời bỏ thế giới của việc tuân giữ lề luật đã chỉ
trích và buộc tội họ, để hướng tới thế giới của tình yêu nhưng không của Thiên
Chúa ban cho tất cả mọi người, hướng đến điều chắc chắn rằng trong Đức Kitô tất
cả mọi dân tộc được gộp nhập lại thành một trước mặt Thiên Chúa; để rời bỏ thế
giới khép kín của một chủng tộc mà hướng về lãnh thổ phổ quát của nhân
loại. Đây cũng là cuộc hành trình của đời sống chúng ta. Chúng
ta có khả năng hoán đổi thập giá của cuộc sống thành một cuộc xuất hành giải
phóng như thế không?
b) Lời bình
luận về văn bản:
Lc 13:1: Người
ta thuật lại cho Chúa Giêsu về việc thảm sát mấy người Galilê
Giống như ngày nay,
người ta phê bình về các sự kiện xảy ra và muốn nghe ý kiến từ những kẻ có thể
ảnh hưởng đến ý kiến của quần chúng. Đó là lý do tại sao có một số
người đã tìm đến Chúa Giêsu và thuật lại cho Chúa nghe về vụ thảm sát một số
người Galilê mà quan Philatô đã làm cho máu của những người ấy hòa lẫn với máu
các con vật họ tế sinh. Đó có thể là vụ thảm sát đã xảy ra trên núi
Giêrazim, nơi đã là địa điểm hành hương và người ta quen đến để dâng của
lễ. Sự kiện này nhấn mạnh đến sự tàn bạo và ngu xuẩn của một số kẻ
cai trị La Mã tại miền Paléstine là những kẻ đã gây ra sự nhạy cảm về tôn giáo
của người Do Thái qua các hành động vô lý như thế này.
Lc 13:2-3: Chúa
Giêsu nhận xét về việc thảm sát và từ đó rút ra một bài học cho người
ta
Khi được yêu cầu cho
biết ý kiến, Chúa Giêsu hỏi lại: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ
Galilê này bị ngược đãi như vậy là vì họ tội lỗi hơn tất những người khác ở xứ
Galilê ư?” Câu hỏi của Chúa Giêsu phản ảnh lối suy nghĩ phổ biến của
người ta thời bấy giờ: sự đau khổ và cái chết thảm thương là một sự
trừng phạt từ Thiên Chúa vì những tội lỗi mà người ấy đã phạm. Phản
ứng của Chúa Giêsu thì minh bạch rõ ràng: “Ta bảo các ngươi: không
phải thế!” Người bác bỏ lối suy luận thông thường và biến đổi sự
kiện thành cơ hội để tự vấn lương tâm: “nhưng nếu các ngươi không ăn
năn, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”. Nói cách
khác, ngoại trừ có một sự thay đổi thực sự và thích đáng, việc tàn sát tương tự
cũng sẽ xảy ra cho tất cả mọi người. Họ đã không thay đổi và bốn
mươi năm sau, vào năm 70, thành Giêrusalem đã bị tàn phá bởi người La
Mã. Nhiều người đã bị giết chết. Đức Giêsu đã trông thấy
tính nghiêm trọng tình hình chính trị của đất nước Người. Một mặt,
sự thống trị của người La Mã đã trở nên nặng nề và không thể chịu nổi hơn bao
giờ hết. Mặt khác, tôn giáo chính thức, càng ngày càng trở nên xa lạ
mà không có sự hiểu biết tầm quan trọng về niềm tin vào Đức Gia-Vê trong đời
sống người dân.
Lc 13:4-5: Để
chứng minh cho ý nghĩ của mình, Chúa Giêsu nhận xét về một sự kiện khác
Chúa Giêsu chủ động
việc nhận xét về một sự kiện khác. Một trận bão tuyết khiến cho tháp
Silôê sụp đổ và khiến cho các tảng đá đè chết mười tám người. Người
ta nghĩ rằng đó là “sự trừng phạt của Thiên Chúa!” Lời nhận xét của
Chúa Giêsu là: “Ta bảo các ngươi: không phải thế! Nếu các ngươi không ăn
năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”. Mối
quan tâm của Người là giải thích các sự kiện theo cách mà lời kêu gọi của Thiên
Chúa để thay đổi và hoán cải trở nên rõ ràng. Chúa Giêsu là một mầu
nhiệm, một sự chiêm niệm. Người nhìn các sự kiện theo cách
khác. Người có thể đọc và giải thích các dấu chỉ thời đại. Đối
với Người, thế gian thì rõ ràng, mặc khải sự hiện diện và lời mời gọi của Thiên
Chúa.
Lc 13:6-9: Dụ
ngôn cây vả không sinh hoa trái
Sau đó Chúa Giêsu kể
dụ ngôn cây vả không mang lại hoa trái. Có người đã trồng một cây vả
trong vườn nho nhà mình. Trong ba năm, nó không sinh được một trái
nào. Vì vậy ông liền bảo người làm vườn rằng: “Hãy đốn nó
đi”. Nhưng người làm vườn thưa lại rằng: “Thưa ông, xin
hãy để cho nó thêm một năm nữa… may ra nó có trái vào năm tới; nếu không, sang
năm ông sẽ chặt nó đi”. Chúng ta không biết có phải Chúa Giêsu kể dụ
ngôn này ngay sau khi Người đưa ra nhận xét về việc thảm sát và chuyện tháp
Silôê sụp đổ hay không. Có lẽ thánh Luca là người muốn đặt dụ ngôn
này ở đây, bởi vì Luca thấy có sự liên hệ giữa những lời nhận xét về các sự
kiện và dụ ngôn cây vả. Luca không nói mối tương quan này là
gì. Ông để cho chúng ta khám phá ra điều ấy. Luca đã
trông thấy ý nghĩa gì? Tôi xin mạo muội đưa ra một ý
kiến. Bạn có thể khám phá ra một ý nghĩa khác. Chủ của
vườn nho và của cây vả là Thiên Chúa. Cây vả đại diện cho người
ta. Chúa Giêsu là người làm vườn. Chủ vườn nho đã mệt mỏi
tìm quả của cây vả mà chẳng thấy trái nào. Ông quyết định chặt bỏ
nó. Như vậy sẽ có chỗ cho một cây khác có thể sinh hoa kết
trái. Dân riêng được chọn đã không sinh hoa trái mà Thiên Chúa mong
đợi. Người muốn chuyển Tin Mừng sang cho dân ngoại. Chúa
Giêsu là người làm vườn nài xin cho cây vả được hoãn thêm một ít thời
gian. Người sẽ nỗ lực gấp đôi để đạt được một sự thay đổi và hoán cải. Sau
đó trong sách Tin Mừng, Chúa Giêsu nhận ra rằng những nỗ lực gấp đôi của Người
đã không có kết quả gì. Họ sẽ không hoán cải. Chúa Giêsu
đau buồn cho việc thiếu hoán cải và thương tiếc cho thành Giêrusalem (Lc
19:41-44).
c) Phần phụ
chú:
Một bài sử ký ngắn gọn
về cuộc kháng chiến nổi tiếng chống lại người La Mã vào thời Chúa Giêsu
Trong phần Tin Mừng
Chúa Nhật tuần này, thánh Luca làm rõ ràng những lời ám chỉ đối với sự đàn áp
của binh lính La Mã chống lại cuộc nổi dậy nổi tiếng của người
Galilê. Do đó, chúng tôi đưa ra một sơ đồ tổng quát về cuộc kháng
chiến nổi tiếng của người dân miền Giuđêa chống lại sự thống trị của người La
Mã. Qua nhiều năm, cuộc kháng chiến này đã trở nên sâu rộng hơn và
bắt rễ trong niềm tin của người dân. Dưới đây là bản phác thảo song
song với quãng đời Đức Giêsu:
i) Từ năm
63 đến năm 37 trước Công Nguyên: Một cuộc tổng khởi dậy mà không
có bất kỳ chủ đích rõ rệt nào. Vào năm 63 trước Công Nguyên, đế
chế La Mã xâm chiếm vùng đất Paléstine và áp đặt một sự cống nạp nông
phẩm. Từ năm 57 đến năm 37, chỉ trong vòng 20 năm, sáu cuộc nổi dậy
đã bùng nổ trong xứ Galilê! Người dân, không chủ đích, không ngheo theo
bất cứ ai đã hứa hẹn sẽ giải phóng họ khỏi việc triều cống người La Mã.
ii) Từ năm
37 đến năm 4 trước Công Nguyên: Thời kỳ đàn áp và xáo trộn. Đây
là thời kỳ trị vì của vua Hêrôđê, được gọi là Hêrôđê Cả. Ông ta là
người đã ra lệnh giết các hài nhi vô tội ở Bêlem (Mt 2:16). Việc đàn
áp tàn bạo đã ngăn chặn bất kỳ loại chống đối rộng lớn nào. Do đó vua
Hêrôđê thúc đẩy cái gọi là Thời đại thịnh trị La Mã (Pax
Romana). Thời kỳ thái bình này đã đem đến cho Đế Chế một ổn định
kinh tế nhất định, nhưng đối với dân tộc bị áp bức thì đó là thời kỳ bình an
của một nghĩa trang.
iii) Từ năm
4 trước Công Nguyên đến năm 6 sau Công Nguyên: Những cuộc cách
mạng Thiên Sai. Đây là thời kỳ trị vì của vua Archelaus tại xứ
Giuđêa. Vào ngày lên nắm quyền, ông ta đã tàn sát 3000 người tại
quảng trường Đền Thờ. Cuộc cách mạng bùng nổ trên khắp toàn đất
nước, nhưng nó không có chủ đích. Các nhà lãnh đạo nổi tiếng vào
thời này đang tìm kiếm động cơ nối kết với truyền thống cổ xưa và tự nhận mình
là vua thiên sai. Sự đàn áp của người La Mã đã phá hủy thành
Sephôris, thủ phủ của xứ Galilê. Bạo lực là dấu hiệu cho thời thơ ấu
của Chúa Giêsu. Trong mười năm cai trị của chính quyền Archelaus,
Người đã thấy miền đất Paléstine trải qua một trong những thời kỳ bạo lực nhất
trong lịch sử của nó.
iv) Từ năm
6 đến năm 27 sau Công Nguyên: Nhóm Nhiệt Thành với Lề
Luật: Thời gian chỉnh sửa. Vào năm 6, Romolus đã
lật đổ vua Archelaus và biến miền Giuđêa thành một tỉnh của đế quốc La Mã, ban
chiếu chỉ kiểm tra dân số để chắc chắn rằng thuế triều cống phải được
trả. Việc kiểm tra dân số tạo đã nên một phản ứng mạnh mẽ chung được
lấy cảm hứng bởi Lòng nhiệt thành với Lề Luật. Nhóm
Nhiệt Thành này (do đó có từ ngữ cuồng tín) kêu gọi mọi người tẩy
chay và từ chối nộp triều cống. Đây là một hình thức mới của việc
phản kháng, một loại bất tuân dân sự được lây lan như ngọn lửa cháy âm ỉ dưới
than hồng. Tuy nhiên, Nhóm Nhiệt Thành có một viễn
kiến hạn chế. “Những kẻ cuồng tín” đã tạo nguy cơ làm
giảm việc tuân giữ Lề Luật để đeo đuổi việc chống đối người La
Mã. Chính trong thời gian này, Chúa Giêsu đã lớn lên trong nhận thức
về sứ vụ của mình.
v) Từ năm
27 đến năm 69 sau Công Nguyên: Các tiên tri tái xuất hiện. Sau
20 năm này, từ năm 6 đến năm 26, việc cải sửa mục tiêu của cuộc hành trình tái
xuất hiện với lời rao giảng của các tiên tri là những kẻ đại diện cho bước tiến
trong phong trào quần chúng. Các tiên tri đã hô hào dân chúng ngồi
lại với nhau và mời gọi họ thay đổi và hoán cải. Họ muốn cải cách
lịch sử từ nguồn gốc. Họ tập họp dân chúng trong sa mạc (Mc 1:4),
bắt đầu cuộc xuất hành mới, được công bố bởi tiên tri Isaia (Is
43:16-21). Người đầu tiên là ông Gioan Tẩy Giả (Mt 11:9; 14:5; Lc
1:76), người đã thu hút được nhiều dân chúng (Mt 3:5-7). Ngay sau
đó, Chúa Giêsu đã xuất hiện và được người ta coi là một tiên tri (Mt 16:14;
21:11,46; Lc 7:16). Chúa Giêsu, giống như ông Môisen, đã công bố Lề
Luật Mới trên Núi (Mt 5:1) và nuôi dưỡng người ta trong sa mạc (Mc
6:30-44). Giống như sự sụp đổ của tường thành Giêricô vào đoạn cuối
của bốn mươi năm trong sa mạc (Is 6:20), Chúa Giêsu cũng tuyên bố về sự sụp đổ
các bức tường của thành Giêrusalem (Lc 19:44; Mt 24:2). Cũng giống
như các tiên tri xưa kia, Chúa Giêsu công bố về việc giải phóng những kẻ bị áp
bức và bắt đầu năm thánh (Lc 4:18-19), và yêu cầu một sự thay
đổi trong cách sống (Mc 1:15; :c 13:3,5).
Có những tiên tri khác
sau thời Chúa Giêsu. Đó là lý do tại sao cuộc cách mạng,
phái duy cầu nguyện và phái nhiệt thành tồn tại cùng
lúc. Các nhà cầm quyền đương cuộc, người La Mã và nhóm Hêrôđê, cũng
như các thày cả, luật sĩ và Biệt Phái, tất cả đều lo lắng đến sự an toàn của
Đền Thờ và Dân Tộc (Ga 11:48) và với việc tuân giữ Lề Luật (Mt 23:1-23), có thể
thấy sự khác biệt giữa các tiên tri và những người lãnh đạo
quần chúng khác. Đối với họ, tất cả đều như nhau. Họ lầm
tưởng Chúa Giêsu với một vị vua thiên sai (Lc 23:2,5). Ví dụ, Gamaliên,
một vị tiến sĩ luật có tiếng, so sánh Chúa Giêsu với Giuđa, lãnh tụ của các
người cách mạng(Cv 5:35-37). Chính Flavius Josephus, một sử gia,
đã nhầm lẫn các tiên tri với “những kẻ trộm và kẻ mạo danh”. Ngày
nay, chúng ta có lẽ sẽ nói rằng cả thảy họ “chẳng đáng giá gì”!
6. Thánh Vịnh
82 (81)
Thiên Chúa cảnh báo các kẻ cầm quyền loài người
Thượng Đế chủ tọa triều đình thiên quốc,
Người xử án giữa chư thánh chư thần:
Người xử án giữa chư thánh chư thần:
"Tới bao giờ các ngươi còn xử án bất công,
hay còn thiên vị phường gian ác?
Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn;
minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng,
giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng,
cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân.
"Vậy mà chúng chẳng hay chẳng hiểu,
cứ bước đi, giữa tăm tối mịt mù,
khiến nền tảng địa cầu phải lung lay nghiêng ngả.
Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây
đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao,
thế nhưng rồi phải chết không khác kẻ phàm nhân,
và có ngày sụp đổ như mọi bậc quan quyền."
Tâu Thượng Đế, xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu,
vì chính Ngài làm chủ muôn dân.
hay còn thiên vị phường gian ác?
Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn;
minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng,
giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng,
cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân.
"Vậy mà chúng chẳng hay chẳng hiểu,
cứ bước đi, giữa tăm tối mịt mù,
khiến nền tảng địa cầu phải lung lay nghiêng ngả.
Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây
đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao,
thế nhưng rồi phải chết không khác kẻ phàm nhân,
và có ngày sụp đổ như mọi bậc quan quyền."
Tâu Thượng Đế, xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu,
vì chính Ngài làm chủ muôn dân.
7. Lời Nguyện
Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng
con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và
ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng
con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria,
thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét