01/06/2018
Thứ Sáu tuần 8 thường niên
Thánh Giúttinô, tử đạo.
Lễ nhớ.
Bài Ðọc I: (Năm
II) 1 Pr 4, 7-13
"Anh em hãy
nên những kẻ phân phát những ơn Chúa".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, ngày
cùng tận của vạn vật đã gần rồi. Vậy anh em hãy khôn ngoan và tỉnh thức cầu
nguyện. Tiên vàn, anh em hãy luôn luôn yêu thương nhau, vì tình thương che lấp
muôn vàn tội lỗi. Anh em hãy đón tiếp khách trọ và đừng kêu ca. Tuỳ theo ơn đã
lãnh nhận, mỗi người hãy phục vụ lẫn nhau như những người phân phát ân sủng
muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa. Nếu ai rao giảng, thì hãy kể đó là lời của
Thiên Chúa; nếu ai phục vụ, thì hãy kể đó là do sức mạnh Thiên Chúa ban cho,
ngõ hầu Thiên Chúa được tôn vinh nơi vạn vật nhờ Ðức Giêsu Kitô, Ðấng vinh hiển
và uy quyền đến muôn đời. Amen.
Anh em thân mến, chớ
có kinh dị, vì ngọn lửa đã bốc lên nơi anh em để thử luyện anh em, như thể một
việc mới lạ xảy đến cho anh em. Nhưng được thông phần vào cuộc khổ nạn của Ðức
Kitô, anh em hãy vui mừng, để khi vinh quang của Người được tỏ hiện, anh em sẽ
được vui mừng hoan hỉ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 10.
11-12. 13
Ðáp: Chúa ngự tới cai quản địa cầu (c. 13ab).
Xướng: 1) Hãy công bố
giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị. Người dựng vững địa cầu cho nó khỏi lung
lay, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.
2) Trời xanh hãy vui mừng
và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội
và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Ðáp.
3) Trước nhan Thiên
Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa
cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.
Alleluia: Dt 4, 12
Alleluia, alleluia! -
Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phơi bày tư tưởng và ý muốn của
tâm hồn. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 11, 11-26
"Nhà Ta sẽ được
gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc. Các ngươi hãy tin vào Thiên Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
(Khi nghe dân chúng
hoan hô), Chúa Giêsu vào thành Giê-rusalem, lên đền thờ và sau khi đã đưa mắt
quan sát mọi sự, và lúc trời đã xế chiều, Người ra về Bêtania cùng với nhóm mười
hai. Hôm sau, khi thầy trò rời bỏ Bêtania, Người thấy đói. Và khi thấy ở đàng
xa có một cây vả nhiều lá, Người đến xem coi có trái nào không. Nhưng khi lại gần,
Người chỉ thấy có lá thôi, vì không phải là mùa có trái. Người phán bảo cây vả
rằng: "Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa". Và các
môn đệ đã nghe Người nói.
Các ngài đến
Giêrusalem. Và khi vào đền thờ, Chúa liền đuổi những người mua bán ở đó. Người
xô đổ bàn của những người đổi tiền và ghế của những người bán chim câu. Người
không để cho ai mang đồ vật đi ngang qua đền thờ. Người dạy bảo họ: "Nào
chẳng có lời chép rằng: "Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dận
tộc ư? Thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp". Ðiều đó đến tai các
trưởng tế và luật sĩ, họ liền tìm cách giết Người, vì họ sợ Người, bởi tất cả
dân chúng say mê giáo lý của Người. Chiều đến, Người ra khỏi thành.
Sáng hôm sau, khi đi
ngang qua, các ngài trông thấy cây vả đã chết khô tận rễ. Phêrô nhớ lại và thưa
Chúa rằng: "Lạy Thầy, hãy coi, cây vả Thầy nguyền rủa đã chết khô rồi".
Chúa Giêsu đáp: "Hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật các con, nếu ai bảo
núi kia: "Hãy dời đi và gieo mình xuống biển", mà trong lòng không hồ
nghi, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì người ấy sẽ được như ý. Vì vậy
Thầy bảo các con: Tất cả những gì các con cầu xin, hãy tin rằng các con sẽ được,
thì các con sẽ được điều đó. Và khi các con đang đứng cầu nguyện, nếu các con
có điều gì bất thuận với ai, hãy tha thứ để Cha các con trên trời cũng tha cho
các con. Nếu các con không tha thứ, thì Cha các con trên trời cũng không tha tội
cho các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðền thờ tâm hồn
Thiên Chúa là tình
yêu, nên nơi Ngài ở không thể có đố kỵ, hận thù, oán ghét. Thiên Chúa là sự
thánh thiện, nên nơi Ngài ở không thể có những dâm bôn, chè chén, tục tằn.
Thiên Chúa là sự thật, nên nơi Ngài ở không thể có gian manh, lọc lừa, tham lam
và trộm cướp.
Chính vì không muốn để
cho con người biến Ðền Thờ Thiên Chúa thành hang trộm cướp, mà theo thuật trình
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tẩy uế Ðền Thờ. Ngài đuổi những kẻ buôn bán, lật
bàn của những kẻ đổi bạc và xô ghế của những người bán bồ câu. Ngài bảo:
"Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện của các dân tộc, thế mà các ngươi đã biến
thành hang trộm cướp".
Ngày nay, có những
ngôi thánh đường vì hậu quả của chiến tranh, hay vì lý do này lý do khác, đã trở
nên hoang tàn, không còn được dùng làm nơi thờ phượng nữa. Cũng có những ngôi
thánh đường nguy nga, đồ sộ, nhưng chẳng ai đến dự lễ cầu kinh nữa, mà chỉ để
cho du khách đến tham quan như một di tích lịch sử, một kiến trúc nghệ thuật.
Bên cạnh đó, tại những miền quê hẻo lánh, có những tín hữu nghèo muốn dựng lên
một nhà nguyện đơn sơ để làm nơi đọc kinh cầu nguyện chung với nhau mà không
sao làm được. Tuy nhiên, có một điều mà không mấy người tín hữu nghĩ tới, đó là
chính tâm hồn của mỗi người là Ðền Thờ của Chúa Ba Ngôi.
Thật thế, nhờ Bí tích Rửa
tội, tâm hồn người tín hữu đã trở thành Ðền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị. Nhưng
thay vì ý thức sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong tâm hồn để sống thân
tình với Ngài, chúng ta lại đưa vào đó biết bao chuyện gian tham, lọc lừa, trộm
cắp, mưu mô, hận thù, ghen ghét. Chúa Giêsu có lý để khiển trách chúng ta, như
Ngài đã phẫn nộ với những kẻ buôn bán trong Ðền Thờ ngày xưa: "Nhà Ta là
nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cắp".
Xin Chúa thanh tẩy tâm
hồn chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, gian tham, lọc lừa, kiêu căng và ích kỷ,
để tâm hồn chúng ta mãi mãi là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và nhờ thế, Thiên Chúa sẽ
mãi mãi ở với chúng ta từ nay và cho đến muôn đời.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 8 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1
Pet 4:7-13; Mk 11:11-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cách xứng
đáng để thờ phượng Thiên Chúa
Đạo không phải chỉ thuần
túy là những lễ nghi trong nhà thờ; nhưng phải lan tỏa vào cuộc sống con người
để sinh lợi ích cho bản thân và cho tha nhân. Thánh Lễ chúng ta cử hành không
chấm dứt bằng lời cầu chúc của vị linh mục “Hãy ra về bình an,” nhưng Thánh Lễ
được nối dài bằng những hy sinh người tín hữu làm cho tha nhân và những đau khổ
người tín hữu chịu để thông phần vào cuộc Thương Khó của Chúa.
Các bài đọc hôm nay
giúp chúng ta nhận ra những gì là chính yếu của đạo để thi hành trong cuộc sống.
Trong bài đọc I, tác giả Thư Phêrô I liệt kê những điều cần thiết các tín hữu
phải làm trong cuộc sống và những ý nghĩa của gian khổ mà các tín hữu phải chịu.
Trong Phúc Âm, thánh Marcô tường thuật biến cố Chúa Giêsu thanh tẩy Đền Thờ giữa
hai đoạn của cây vả bị chúc dữ. Mục đích là để lên án những người lạm dụng Đền
Thờ để bóc lột dân nghèo và không thực thi những gì Thiên Chúa truyền dạy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sống mối liên hệ với Thiên Chúa bằng cả cuộc đời
1.1/ Những điều các tín hữu
cần làm trong khi chờ đợi Ngày Chúa đến.
+ Cầu nguyện: “Anh em
hãy sống tự chủ và tiết độ để có thể cầu nguyện được.” Sống tự chủ
và tiết độ là hai điều kiện cần thiết cho việc cầu nguyện. Khi con người không
bình an, khó lòng con người có thể tập trung để cầu nguyện. Khi thân xác nặng nề
vì ăn uống, rất khó cho con người tỉnh thức để cầu nguyện.
+ Yêu thương nhau:
“Anh em hãy hết tình yêu thương nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn
vàn tội lỗi.” Câu này có thể hiểu một hoặc cả hai cách: Khi yêu thương, con
người dễ dàng tha thứ những khuyết điểm cho người khác (I Cor 13); hay khi yêu
thương tha nhân, Thiên Chúa sẽ thứ tha các tội lỗi của mình.
+ Đón tiếp nhau: “Hãy
tiếp đón nhau mà không lẩm bẩm kêu ca.” Tinh thần hiếu khách rất quan trọng cho
Giáo Hội và các tín hữu. Cộng đoàn thời sơ khai mới thành lập không có nhà nhờ
nên phải họp nhau ở nhà các cá nhân có phòng rộng để tham dự Lễ Bẻ Bánh. Hơn nữa,
các tín hữu cần phải mở rộng cửa nhà để đón tiếp những sứ giả rao giảng Tin Mừng
từ phương xa tới. Đón tiếp anh chị em trong khi cần là đón tiếp chính Chúa (Mt
25).
+ Phục vụ nhau: “Ơn
riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ
khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên
hình vạn trạng của Thiên Chúa.” Thánh Thần ban ơn riêng cho mỗi người, không phải
là để khoe khoang hay tìm tư lợi cho mình; nhưng là để xây dựng Nhiệm Thể của Đức
Kitô và Giáo Hội.
– Trong lời nói: “Ai
có nói, thì nói lời Thiên Chúa.” Rao giảng Tin Mừng là rao giảng những gì
Chúa muốn nói; chứ không phải là rao giảng lời của mình.
– Trong việc làm: “Ai
phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban.” Sức mạnh là ơn Thiên
Chúa ban. “Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu
Kitô. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen.”
1.2/ Mục đích của thử
thách: Tác giả đưa ra hai lý do chính của việc
chịu thử thách:
(1) Làm cho đức tin
thêm vững mạnh: “Đừng ngạc nhiên mà coi đó (đau khổ) như một cái gì khác thường
xảy đến cho anh em,” vì đức tin cần được thử thách bằng đau khổ.
(2) Chung phần với đau
khổ của Đức Kitô: Tác giả đồng ý với Phaolô khi nói: “Được chia sẻ những đau
khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh
quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ.” Nếu không chung phần
đau khổ, chúng ta sẽ không được chung phần vinh quang với Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Khi Chúa nói điều gì, điều ấy thành hiện thực.
2.1/ Ý nghĩa của hai
trình thuật:
Trình thuật “Cây vả bị
chúc dữ” chỉ được tường thuật trong Marcô và Matthew, và là một trong những
trình thuật khó cắt nghĩa nhất. Lý do vì hầu hết học giả đều chú trọng đến chi
tiết mà Marcô tường thuật: “vì không phải là mùa vả.” Họ đặt câu hỏi: Tại sao
Chúa lại tìm quả và chúc dữ cho cây vả khi chưa tới mùa?
Trong Tin Mừng, Marcô
thỉnh thoảng dùng nghệ thuật viết văn được gọi là “đặt giữa hai” (Intercalation
hay sandwiching): Mục đích của tác giả khi dùng nghệ thuật này là để làm nổi bật
một ý nghĩa mà cả hai trình thuật đều nhắm tới. Ví dụ: trình thuật Chúa rao giảng
với uy quyền chứ không giống như các kinh sư được tiếp nối bằng phép lạ Chúa chữa
người bị quỉ ám (1:21-28). Trình thuật Chúa chữa con gái người trưởng hội đường
được đặt trước và sau phép lạ Chúa chữa người đàn bà bị loạn huyết lâu năm
(5:21-43). Và trình thuật sai Nhóm Mười Hai đi rao giảng được đặt trước và sau
cái chết của Gioan Tẩy Giả (6:7-30).
Và hôm nay, trình thuật
“Chúa thanh tẩy Đền Thờ” được đặt giữa trình thuật “Cây vả bị chúc dữ.” Điều
quan trọng là phải tìm ra đâu là chủ đề chung của cả hai trình thuật. Trong trình
thuật “Cây vả bị chúc dữ,” điều Chúa nói với cây vả: “Muôn đời sẽ chẳng còn ai
ăn trái của mày nữa!” được thực hiện ngay hôm sau khi Chúa Giêsu và các môn đệ
đi ngang qua cây vả. Điều gì Chúa nói sẽ thành sự, Chúa không quan tâm đến việc
có đúng mùa hay không. Trong trình thuật “thanh tẩy Đền Thờ,” điều Chúa muốn nhấn
mạnh: “Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của
mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!” Đền Thờ
Jerusalem bị phá hủy bình địa chỉ xảy ra ít lâu sau đó (70 AC), và từ đó đến
nay mọi dân tộc thờ phượng Chúa không phải ở Jerusalem; nhưng trong thần khí và
sự thật.
2.2/ Đạo không phải chỉ
là những lễ nghi trong Đền Thờ: Điều quan trọng
nhất của đạo là niềm tin vững mạnh của người tín hữu vào Thiên Chúa. Chúa Giêsu
nhấn mạnh điều này với các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi
này: “Dời chỗ đi, nhào xuống biển!” mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng
điều mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý. Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả
những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý.”
Ngoài ra, tình yêu đối
với Thiên Chúa được biểu lộ qua tình yêu dành cho tha nhân. Người dạy họ: “Khi
anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ
cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. Nhưng
nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ
không tha lỗi cho anh em.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta không được
giới hạn đạo vào những lễ nghi xảy ra trong nhả thờ; nhưng phải tiếp tục sống mối
liên hệ với Thiên Chúa qua việc cầu nguyện, qua những hy sinh chúng ta làm cho
tha nhân, và bằng những đau khổ chúng ta chịu trong cuộc sống.
– Chúng ta không bao
giờ được lợi dụng danh nghĩa nhà thờ để biến nhà thờ thành nơi buôn bán, làm
chính trị, kéo bè đảng, và bóc lột các tín hữu.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
01/06/2018 – THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 8 TN
Th. Giút-ti-nô, tử đạo
Mc 11,11-26
BI ĐÁT CÂY VẢ KHÔNG CÓ TRÁI
Chúa Giê-su rủa cây
vả: “Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa.” (Mc 11,14)
Suy niệm: Phúc Âm theo
thánh Mác-cô nói rõ: “bấy giờ không phải là mùa vả”, mặt khác, quyền năng như Đức
Giê-su, Đấng có thể biến đá thành bánh để ăn (x. Mt 4,3), nhưng đã từ chối làm
phép lạ chỉ để giải quyết nhu cầu cá nhân của mình, thì việc Ngài rủa chết cây
vả không phải vì nó không có trái để Ngài ăn cho đỡ đói, mà là muốn nói lên ý
nghĩa biểu trưng của một dụ ngôn. Trong bối cảnh Chúa Giê-su long trọng vào
thành Giê-ru-sa-lem với tư cách của Đấng Mê-si-a, “Đấng ngự đến nhân danh Đức
Chúa” (Mc 11,9), mà dân Ít-ra-en – dân tộc của Giao ước – lại lỡ hẹn “không nhận
biết giờ họ được Thiên Chúa viếng thăm,” Ngài đã than khóc vì thấy trước những
tai ương sẽ đổ xuống trên họ (x. Lc 29,44). Số phận dân tộc được Chúa tuyển chọn
cũng bi đát như cây vả trái mùa không còn khả năng sinh hoa trái, và mãi mãi
không ai có thể hưởng nhờ hoa trái cứu độ từ nơi họ.
Mời Bạn: Tiên tri Ê-dê-ki-en ví những
cây ăn trái mọc hai bên bờ dòng sông chảy từ Đền Thờ một năm mười hai tháng đều
đơm hoa kết trái, trái cây dùng làm lương thực, lá cây dùng làm thuốc (Ed
47,12). Cũng vậy, những ai kết hợp với Chúa như cành nho gắn liền với cây nho sẽ
trổ sinh hoa trái đồi dào, còn “cành nào không sinh hoa trái sẽ bị chặt đi” (Ga
15,2).
Sống Lời Chúa: Bạn được kết hợp với Chúa
Ki-tô qua bí tích Thánh Tẩy, mời bạn năng lãnh nhận Mình Thánh Chúa để sinh nhiều
hoa trái thiêng liêng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
giúp con luôn sinh nhiều hoa trái thiêng liêng là những việc lành (x. Cl 10,1)
nhờ luôn kết hợp với Chúa là nguồn sống của con.
(5 Phút Lời Chúa)
Nhà cầu
nguyện của
mọi dân tộc
(01.6.2018 – Thứ
Sáu Tuần 8 Thường
niên B)
Suy niệm:
Khi thánh sử Máccô viết đoạn
Tin Mừng này,
thì có thể Đền thờ ở Giêrusalem đã bị phá hủy bởi quân Rôma.
Ngôi đền thờ nguy nga này được vua Hêrôđê Cả trùng tu và nới rộng,
mất 84 năm mới hoàn thành, để rồi chỉ tồn tại được vỏn vẹn 6 năm.
Đức Giêsu đã lên Đền thờ này nhiều lần, vào các dịp lễ lớn.
Đây là lần cuối Ngài lên đây giữa tiếng tung hô của đám đông.
Khi chiều tà, Ngài và các môn đệ qua đêm ở làng Bêtania gần đó.
Hôm sau, trên đường
từ Bêtania
trở lại Đền thờ, Ngài thấy đói.
Trông thấy từ xa một cây vả xanh tốt, Ngài lại gần để tìm trái ăn.
Nhưng tiếc thay cây này chỉ có lá thôi, vì chưa đến mùa vả.
Vậy mà Đức Giêsu lại có vẻ nổi giận,
và nói: “Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa!”
Buổi sáng hôm sau, Thầy trò lại lên Đền thờ, đi ngang qua cây vả.
Mọi người thấy nó chết rồi, “chết khô tận rễ” (c. 20).
Phêrô cho rằng cây vả chết vì bị Thầy rủa (c. 21).
Chúng ta không hiểu tại sao Đức Giêsu lại rủa cây vả cho nó chết.
Nó có tội tình gì đâu, chỉ tại chưa đến mùa đó thôi!
Thánh sử Máccô đã đặt chuyện Đức Giêsu
thanh tẩy Đền
thờ
vào ngay giữa câu chuyện đầy kịch tính về cây vả.
Điều đó khiến chúng ta không hiểu chuyện cây vả theo nghĩa đen.
Đúng là cây vả chẳng mắc tội gì khi chưa đến mùa có trái.
Nhưng khi các nhà lãnh đạo Do Thái giáo cố ý từ khước Đức Giêsu,
thì họ mắc tội, như cây vả không trái.
Rốt cuộc cả họ và Đền thờ phải chịu số phận như cây vả héo khô.
Khi vào khu vực Đền thờ, Đức Giêsu
giận dữ với chuyện buôn bán,
dù đây là chuyện buôn bán được phép,
ở một khu vực được phép, để phục vụ cho việc thờ tự.
Đức Giêsu đã làm một hành động rất khác thường,
đó là đuổi người buôn bán, lật bàn, xô ghế của họ (c. 15).
Thậm chí Ngài còn cấm người ta mang đồ đi qua Đền thờ (c. 16).
Chắc đã xảy ra một cuộc xô xát nhỏ, trong một thời gian ngắn.
Ngài hành động như người có quyền ở nơi thờ tự này.
Điều đó khiến các nhà lãnh đạo tôn giáo tìm cách giết Đức Giêsu.
Đối với Đức Giêsu, ngôi Đền thờ tráng lệ ở Giêrusalem
không còn là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc nữa (Is 56,7).
Vì giới lãnh đạo, nó đã không đạt mục tiêu Thiên Chúa muốn.
Như cây vả xanh lá, nhưng không trái, nó sẽ bị héo khô.
Ngày nay, dấu tích còn lại của ngôi Đền thờ xưa chỉ là một bức tường,
nơi người Do Thái đến than khóc.
Bài Tin Mừng hôm nay không gây sự thù ghét đối với người Do Thái.
Đúng hơn đây là một nhắc nhở nghiêm chỉnh của Đức Giêsu
đối với mọi đền thờ, nhà thờ của các Kitô hữu.
Phải làm sao để nơi thờ tự không trở thành nơi buôn bán kinh doanh.
Phải làm sao để nhà thờ thực sự là nơi cầu nguyện cho mọi người,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, quê mùa hay trí thức.
Phải làm sao để các ngôi thánh đường ngày nay của chúng ta
khỏi rơi vào số phận của Đền thờ Giêrusalem ngày xưa,
xanh lá nhưng không trái, nên bị chết khô.
Cầu nguyện:
Lạy
Chúa
Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội
Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội
Thánh
trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội
Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG SÁU
Hơi Thở Sự Sống
Bản văn Thánh Kinh
trong Sách Sáng Thế cho phép chúng ta hiểu rõ rằng con người – được tạo thành
như thế – khác hẳn với toàn thể thế giới hữu hình, nhất là khác hẳn với thế giới
động vật. Chính “hơi thở sự sống” đã làm cho con người có thể biết các động vật,
có thể đặt tên cho chúng – và có thể nhận ra mình khác với chúng (St 2, 18 –
20).
Mặc dù trình thuật
Gia-vít về cuộc tạo dựng con người không nói đến “linh hồn”, ta vẫn dễ dàng nhận
ra từ trình thuật này rằng sự sống con người là một sự sống siêu việt trên sự sống
thuần túy chất thể của động vật, rằng sự sống vượt quá vật chất để vươn tới chiều
kích tinh thần. Đây chính là nền tảng cốt yếu của “hình ảnh Thiên Chúa” mà bản
văn Sáng Thế 1, 27 nói về.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 01/ 6
Thánh Justinô tử đạo
1Pr 4, 7-13; Mc 11,
11-26.
Lời suy niệm: Đức Giêsu nói với
các ông: “Anh em hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật anh em; nếu có ai nói với
núi này: À dời chỗ đi, nhào xuống biển! Mà trong lòng chẳng chút nghi nan,
nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xãy ra, thì sẽ được như ý Vì thế, Thầy nói với
anh em tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ
được như ý.”
Những lời khẳng định của Chúa Giêsu về việc “Hãy tin vào Thiên Chúa”, thì trong
mọi lời cầu nguyện sẽ được như ý, điều này cũng đòi hỏi nơi mỗi người Kitô hữu
khi cầu nguyện phải có những đức tính cần thiết: – Cầu nguyện phải có đức tin –
Cầu nguyện phải có sự mong đợi và cầu nguyện phải do lòng yêu mến. Những yếu tố
này sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, mỗi khi chúng ta cầu xin Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn biết tẩy mình trong sach
trước mỗi lời cầu nguyện và có lòng yêu mến, để mọi lời cầu xin của chúng con
luôn đặt trọng tâm yêu mến trong những lời cầu xin, để những lời cầu xin của
chúng con được đẹp lòng Chúa và sinh ích cho chúng con và cho mọi người.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
01-06: Thánh GIUSTINÔ
Tử Đạo (+165)
Thánh Giustinô tử đạo
sinh tại Nablus, Samaria ở vào đầu thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia
đình ngoại giáo, nhưng Ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân
thật. Với nhiệt tình này, Ngài đã tiếp xúc với mọi triết thuyết đương thời và
không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.
Trong tác phẩm “Đối
thoại với Tryphon” (Dialogus cum Tryphone), chính thánh Giustinô kể lại cuộc
tìm kiếm của mình: – Trước hết, Ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc kỷ.
Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói rằng sư hiểu biết ấy
không cần thiết gì. Sau đó, Ngài đến với một người theo thuyết của Aristote.
Ông này đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta
không rao bán triết học.
Một người theo lý thuyết
của Pythagore hỏi Ngài: – Anh đã học âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa ? Bởi vì
để chiêm ngưỡng điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát
tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được những đối tượng
trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội tại.
Giustinô chưa biết gì
về những môn học, nhưng lại thấy mình bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài
gặp một người theo phái Platon Ngài nói: – Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu được những
điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới tư tưởng chấp cánh
cho tinh thần của tôi.
Dầu vậy, không có gì
làm cho Ngài thỏa mãn được cơn khát chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ
già đầy khôn ngoan. Ông trách Ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã
cho Ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc kinh thánh: phải vượt qua những
giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các triết gia, phải nghe
các tiên tri là những người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện
vì: – Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên Chúa và đức
Kitô không cho họ hiểu biết.
Theo lời khuyên này,
Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin
là qui luật xử thế và sự thánh thiện lý tưỏng của Ngài, Ngài mở một trường học
tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. – Tôi sẽ nói sự thật, không một đắn đo
sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh.
Gương mẫu của các
thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều: – Thấy họ kiên vững trước cái chết, tôi
thầm nói rằng: họ không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.
Ngài sẽ tìm được ở đâu
sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là trong Kitô giáo ? Bởi vậy Ngài đã tìm mở
rộng môi trường hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh luận,
bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn giáo. Ngày nay chúng ta
chỉ còn giữ lại được hai cuốn: Đối Thoại Với Tryphone, và Hộ Giáo. Nhưng với
hai tác phẩm ấy, thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo có thế giá được
thế kỷ thứ II và là người đã phác họa ra nền thần học Kitô giáo.
Từ một đức tin vững chắc
vào các chân lý Kitô giáo. Thánh Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng
trổi vượt của trí khôn để hai lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ nhất
vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux và lần thứ hai cho Marcô Aurelio. Cả
hai lần Ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị kết án tử hình.
Giustinô và các bạn bị
dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài
lớn tiếng tuyên xưng đức tin. – Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý để
theo sự lầm lạc cả.
Thánh nhân từ chối
không chịu tố giác nơi các kitô hữu hội họp. Sau cùng Ngài và các bạn bi đánh
đòn rồi bị chém đầu. Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát
biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: – Mọi nguyên tắc chính đáng
mà các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở
điều mà Ngôi lời đã diễn tả một phần.
Ngài còn nói: – Không
ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với
lãnh vực văn chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các công
trình của các Ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các Ngài.
(daminhvn.net)
01 Tháng Sáu
Con Người Khờ Khạo
Một cuốn phim Pháp
với tựa đề “Gigot”, đã kể lại cuộc đời cao thượng nhưng vô cùng đáng thương của
một người câm tên là Gigot. Ðúng như cái tên có thể gợi lên, Gigot là một người
khờ khạo nhưng có một tâm hồn cao quí. Ngày ngày anh quét đường, kiếm từng đồng
xu nhỏ để mua những mẩu bánh mì vụn sống qua ngày. Nơi trú ngụ của anh là một cầu
thang bẩn thỉu nằm bên dưới một ngôi nhà. Những người bạn duy nhất của anh là
các chú chó và một con mèo hoang. Hằng ngày, từ tiệm bánh mì đi ra, anh đều
mang theo thức ăn cho chúng. Anh đi đâu, chúng quấn quít bên người đến đó… Những
con thú thương anh như một người bạn, nhưng những người đồng bào của anh chỉ
nhìn anh như trò đùa. Mỗi khi cần có một trận cười, người ta gọi Gigot đến cho
anh uống rượu để anh có thể nhảy múa trong cơn say và làm trò hề cho họ.
Một đêm nọ, sau khi
say túy lúy và làm đủ trò hề cho thiên hạ cười, Gigot đi ngã ngiêng về nhà giữa
cơn mưa. Anh bắt gặp một người đàn bà và một đứa con gái nhỏ đang nằm co ro
trong góc hè phố, mình mẩy ướt như chuột lột. Anh dìu hai mẹ con người đàn bà về
nhà mình và dọn chỗ cho họ qua đêm. Trong những ngày kế tiếp, anh tìm đủ mọi
cách để làm cho người đàn bà được hạnh phúc và cô bé được vui cười. Anh đưa cô
bé đến nhà thờ và dùng thứ ngôn ngữ câm của mình để nói với nó về Chúa Giêsu… Một
hôm, người mẹ muốn đi nơi khác vì không chịu nổi cảnh thiếu thốn trong căn nhà
của anh. Người câm không biết làm gì hơn là đành phải đến hiệu bánh mì quen để
đánh cắp một số tiền. Với số tiền ấy, anh có thể sắm sửa tươm tất cho hai mẹ con
người đàn bà…
Thế nhưng, một hôm,
khi thức giấc, anh không còn thấy người đàn bà trong căn gác của mình nữa. Anh
đưa cô bé vào sâu trong cầu thang và làm trò đùa cho nó cười. Vô tình, căn gác
đổ nát sụp xuống trên anh và đứa bé. Anh vừa mang đứa bé đến nhà thờ để xin cha
sở chạy chữa, thì người ta cũng phát giác ra sự mất tích của nó… Người ta tri
hô lên anh là thủ phạm bắt cóc đứa bé. Cuộc săn đuổi đã làm anh trượt té xuống
một dòng sông… Một chiếc phà chạy qua. Chiếc mũ của anh trồi lên. Mọi người tưởng
rằng anh đã chết chìm giữa dòng sông… Sự cảm thông và thương tiếc bỗng bừng dậy,
người ta lấy chiếc mũ của anh, đặt lên một chiếc quan tài và cử hành nghi lễ tống
táng. Người người sụt sùi khóc. Bao nhiêu bài điếu văn được đọc lên để ôn lại tấm
lòng cao thượng của người quá cố… Nhưng từ một chòm cây trong nghĩa địa, Gigot
lắng nghe tất cả, anh bật thành tiếng khóc, khóc vì sự cảm thông quá muộn màng
của người đồng loại, mà có lẽ cũng khóc khi nghĩ đến thân phận của anh.
Hôm nay chúng ta bước
vào tháng dành riêng để tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu…. Có riêng một tháng để nhắc
nhớ cho con người về Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi lẽ con người không hiểu mà
cũng dễ quên tình yêu của Thiên Chúa…
Thiên Chúa cũng giống
như một người tình câm. Ngài làm mọi sự và tìm đủ mọi cách để cho con người hiểu
được Tình Yêu của Ngài. Không còn ngôn ngữ nào nữa, Thiên Chúa đành phải dùng
chính cái chết, bởi lẽ không có tình yêu nào trọng đại cho bằng mối tình của
người chết vì người mình yêu…
“Chúng sẽ nhìn xem Ðấng
chúng sẽ đâm thâu qua”. Qua cái chết của Ðức Kitô trên thập giá, con người mới
có thể thấy được tình yêu của Thiên Chúa đối với mình. Cái chết là ngôn ngữ cuối
cùng của Tình Yêu. Mối tình câm lặng nhất đã được bày tỏ…
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét