27/05/2018
Chúa Nhật tuần 8 Thường
Niên năm B
Chúa Ba Ngôi.
(phần II)
Phụng vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi, năm B
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI - NĂM B
(Dnl 4,32-34.39-40; Rm 8,14-17; Mt 28,16-20)
MẠC KHẢI THIÊN
CHÚA
QUA NHỮNG MỐI TƯƠNG
QUAN
“Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Ba bài đọc trong Thánh
lễ mừng kính Chúa Ba Ngôi hôm nay lần lượt nêu bật những dáng vẻ khác nhau về mạc
khải của Một Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần trong tương quan với con người.
Mạc khải tiệm tiến đó được khởi đi từ một Thiên Chúa duy nhất là Chúa của dân
Israel, đến một Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chính cái
chết của Người đã làm cho chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, đồng thời sống
trọn vẹn tư cách ấy nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần.
1. Bài đọc I - Đnl
4,32-34.39-40
Khát vọng hướng tới một
tôn giáo đa thần với một đời sống luân lý dễ dãi của các dân tộc xung quanh,
luôn là cơn cám dỗ triền miên đối với người Do thái. Chính trong bối cảnh đó,
Môsê đã đặt lại cho dân những vấn đề hết sức nền tảng khởi đi từ nhu cầu về ‘hạnh
phúc và tồn tại’. Sẽ không thể có ‘hạnh phúc và tồn tại’ nếu như dân Do thái không
có Chúa là Thiên Chúa của họ.
Chính kinh nghiệm còn
rất sống động về biến cố xuất Ai cập và vượt biển Đỏ là một khẳng định không thể
chối cãi cho mọi dân xung quanh, cũng như cho chính dân Do thái về ‘cánh tay mạnh
mẽ oai hùng’ của một vị Thiên Chúa luôn ở với dân, để giúp họ tồn tại và có được
hạnh phúc. Kinh nghiệm qúy báu này đã giúp dân Do thái nhớ lại căn tính của
mình: họ là dân được tuyển chọn, yêu thương và hiến thánh bởi chính Thiên Chúa,
chứ không phải bởi bất cứ thần thánh nào khác.
Từ kinh nghiệm sống động
về một quá khứ ấy, Môsê đã dẫn dân tới một bổn phận trong hiện tại: đó là ‘hãy
tuân giữ các lề luật và giới răn’ của Thiên Chúa. Và Môsê cũng đã không quên khẳng
định cách chắc chắn rằng: việc ‘tuân giữ các lề luật và giới răn’ của Thiên
Chúa ngay hôm nay sẽ là một bảo đảm cho tương lai của người Do thái, cũng như
cho con cháu mai sau của họ ‘được hạnh phúc và tồn tại trên phần đất mà Chúa là
Thiên Chúa sẽ ban cho.’
2. Bài đọc II - Rm
8,14-17
Nếu như việc ‘tuân giữ
lề luật và các giới răn’ là mối dây nối kết chặt chẽ giữa dân Do thái với Chúa
là Thiên Chúa của họ; thì điều làm cho mỗi Kitô hữu được gọi là con Thiên Chúa,
theo Thánh Phaolô, không gì khác hơn là
việc ‘sống theo Thánh Thần Thiên Chúa.’
Nhưng tại sao chúng ta
lại phải sống theo hướng dẫn của Thánh Thần? Thánh Phaolô chỉ ra rằng: nhờ Đức
Kitô, chúng ta được trở nên thừa tự của Thiên Chúa. Vì thế tinh thần mà chúng
ta được lãnh nhận là tinh thần nghĩa tử, khiến chúng ta có thể gọi Thiên Chúa
là Cha, Abba. Như thế, chúng ta là ‘những người thừa tự của Thiên Chúa, và đồng
thừa tự với Đức Kitô.’ Và do vậy, duy chỉ Thánh Thần mới có thể hướng dẫn chúng
ta sống đúng tư cách là con Thiên Chúa; nhờ đó chúng ta có thể trở nên đồng
hình đồng dạng với Đức Kitô trong những đau khổ, cũng như trong vinh quang phục
sinh.
3. Bài Phúc Âm - Mt
28,16-20
Nếu việc ‘tuân giữ lề
luật và các giới răn’ làm cho con người có khả năng tiếp cận với Thiên Chúa duy
nhất, là Chúa của mình; và nếu việc sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần làm
cho con người sống đúng tư cách là nghĩa tử của Thiên Chúa; thì việc ‘ra đi
loan báo tin mừng cho mọi loài thụ tạo’ chính là phương thế làm cho người Kitô
hữu trở nên người môn đệ đích thực của Vị Thầy Giêsu. Và điều cốt lõi của lời
rao giảng nơi người môn đệ là tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa là Cha,
Con và Thánh Thần.
Khi ban ‘lệnh lên đường’
cho các môn đệ, Chúa Giêsu không chỉ nói trong tư cách là một người Thầy, nhưng
còn trong tư cách là Đấng Phục Sinh đã được tôn vinh là Đức Chúa (Pl 2,11).
Chính tư cách này của Chúa Giêsu đã làm cho lời xác quyết của Người: ‘ở cùng
các môn đệ mọi ngày’ trở nên hợp lý và khả tín. Như thế, tình trạng ‘có Chúa ở
cùng’ trên mọi nẻo đường truyền giáo của người môn đệ là một bảo đảm chắc chắn
nhất cho những hoa trái có được từ lời rao giảng về một Thiên Chúa là Cha, Con
và Thánh Thần.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Kinh nghiệm sống niềm
tin của dân Do thái giúp ta hiểu ra rằng: để có thể ‘tồn tại và hạnh phúc’, niềm
khát vọng khôn nguôi của mọi người, mọi dân tộc, thì chỉ có một con đường duy
nhất là tuân giữ các lề luật và giới răn của Thiên Chúa. Kinh nghiệm tôn giáo ấy
vẫn còn nguyên giá trị qua mọi thời đại và cho mọi người. Như thế, ‘tuân giữ
các lề luật và giới răn’ không phải là một gánh nặng mà Thiên Chúa yêu thích
khi áp đặt nó lên đôi vai cuộc sống của con người, nhưng đó chính là phương thế
hữu hiệu giúp con người có thể thỏa mãn được cái khát vọng sâu xa nhất của kiếp
nhân sinh.
2. Tư cách là con
Thiên Chúa là món qùa đắt giá mà người Kitô hữu thủ đắc được nhờ cuộc khổ nạn
và phục sinh của Đức Kitô. Nhưng để sống trọn vẹn tư cách ‘là con’ này, không
thể có con đường nào khác hơn là phải ‘sống theo Thánh Thần Thiên Chúa’. Chính
Thánh Thần là Đấng giúp người Kitô hữu có thể hiểu rõ hơn những lời giảng dạy của
Chúa Giêsu, và nhất là dẫn họ tới sự thật toàn vẹn (Ga 16,13). Như thế, lắng
nghe và buông mình theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần phải là ‘nhịp thở’
trong cuộc sống hằng ngày của những nghĩa tử của Thiên Chúa.
3. Ý thức sự hiện diện
của Chúa Giêsu trong cuộc sống hằng ngày, cũng như sự đồng hành của Người trên
mọi nẻo đường sứ vụ, sẽ giúp cho những nỗ lực sống và loan báo Tin mừng của người
môn đệ gặt hái được nhiều hoa trái.
4. Nếu hành vi ‘ở
cùng’ là một tác động kép luôn xảy ra giữa một bên là Chúa Giêsu và bên kia là
người môn đệ, thì sự nên một hoàn hảo này cũng đã là một lời chứng sống động
cho thế giới hôm nay về một niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh
Thần.
5. Mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần xét như là những mối tương quan trong đời
sống Kitô hữu, được cụ thể hóa và đơn giản hóa qua công thức tuyên xưng: ‘Nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần’. Người tín hữu được mời gọi ý thức hơn mỗi khi
thực hiện hành vi đức tin này, vì đó là cách thế giản dị nhất giúp họ ý thức sự
hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi trong đời sống hằng ngày của mình.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em
thân mến! Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta biết mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi, một trong những mầu nhiệm quan trọng nền tảng của Kitô
giáo. Cộng đoàn chúng ta cùng tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa và tha thiết dâng lời
cầu xin:
1. “Các con hãy đi giảng
dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần
trong Hội Thánh, luôn can đảm tuyên xưng và sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba
Ngôi, cùng giúp cho nhiều người tin nhận và thờ phượng một Thiên Chúa chân thật.
2. “Chính Chúa là
Thiên Chúa, chớ không có Chúa nào khác.” Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà lãnh
đạo và các dân tộc trên thế giới, luôn yêu mến và khao khát tìm kiếm chân lý
qua việc tuân giữ mọi lề luật mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong lương tâm con người.
3. “Thầy ở cùng các
con mọi ngày cho đến tận thế.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi Kitô hữu luôn xác
tín sự hiện diện và đồng hành của Chúa Kitô trong hành trình đức tin, thêm lạc
quan và tích cực cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng tại Giáo Hội địa phương.
4. “Ai sống theo Thánh
Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa.” Xin Chúa cho mọi người trong cộng
đoàn chúng ta, biết vâng nghe và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần,
luôn quảng đại yêu thương và dấn thân phục vụ hết mọi người chung quanh.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa
là Cha toàn năng, chúc tụng Chúa đã thương tạo thành, cứu chuộc và thánh hóa
chúng con trong Đức Kitô và nhờ Chúa Thánh Thần. Xin thương nhậm lời chúng con
cầu nguyện và ban ơn trợ giúp để chúng con luôn sống xứng đáng với tình yêu và
ân huệ Chúa ban. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
www.tgpsaigon.net
SCĐ LỄ KÍNH THIÊN CHÚA BA NGÔI.B
CHỦ ĐỀ :
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH
YÊU
"Anh em hãy đi đến muôn dân, làm phép rửa cho họ
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần"
(Mt 28,19)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Đnl
4,32-34.39-40) : Thiên Chúa duy nhất và là Thiên Chúa của Giao ước.
- Đáp ca (Tv 32) :
"Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con"
- Tin Mừng (Mt
28,16-20) : "Anh em hãy đi đến muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha
và Con và Thánh Thần"
- Bài đọc II (Rm
8,14-17) : "Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta kêu lên
Abba, Cha ơi"
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Thiên Chúa
Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh
hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới
nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này,
chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và
xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Thiên Chúa là Cha
yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
- Chúa Con đã chịu chết
để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho
nhau.
- Chúa Thánh Thần muốn
mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng
ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 4,32-34.39-40)
Đây là phần kết diễn từ
thứ nhất "của Môsê" nói với dân do thái trước khi họ vào Đất Hứa.
Trước tiên Môsê lưu ý
dân về sự uy quyền và lòng yêu thương của Thiên Chúa mà họ đã chọn tôn thờ :
"Có dân nào đã nghe tiếng Thiên Chúa phán bảo từ giữa hỏa hào như các ngươi
được nghe ?… Có Thiên Chúa nào tìm lấy cho mình một nước giữa các nước khác bằng
những dấu lạ, điềm thiêng… như mọi sự Yavê Thiên Chúa các ngươi đã làm cho các
ngươi ?…"
Rồi Môsê khuyên dân
hãy trung thành tuân giữ những lệnh truyền của Thiên Chúa vừa uy quyền vừa yêu
thương ấy.
2. Đáp ca (Tv 32)
Tv này được soạn sau
thời lưu đày, ca tụng Thiên Chúa là Đấng chủ tể của vũ trụ và lịch sử loài người,
hằng yêu thương những kẻ kính sợ Ngài.
3. Tin Mừng (Mt
28,16-20)
Đoạn Tin Mừng này được
chọn đọc trong thánh lễ hôm nay vì câu 19 "Làm phép rửa cho họ nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần".
Trong lần gặp gỡ cuối
cùng với các môn đệ trước khi về trời, Đức Giêsu đã long trọng sai họ đi truyền
giáo khắp nơi :
- Kẻ sai họ đi là Đức
Giêsu phục sinh, Đấng đã "được trao toàn quyền trên trời dưới đất"
- Ngài còn hứa sẽ
"ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
- Mục tiêu truyền giáo
là làm phép rửa cho muôn dân "nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" và
dạy người ta tuân giữ những lệnh truyền của Đức Giêsu.
4. Bài đọc II (Rm
8,14-17)
Đoạn thư này cho thấy
vai trò của Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống kitô hữu :
- Kitô hữu là người được
Chúa Thánh Thần hướng dẫn
- Nhờ đó họ có thể sống
thân phận làm Con như Đức Giêsu
- Họ có thể gọi Thiên
Chúa là Cha "Abba"
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. "Thầy ở cùng
anh em mọi ngày cho đến tận thế"
Đôi khi ta không thể
làm gì hơn cho một người đang đau khổ ngoài việc ở bên cạnh họ. Nhưng việc này
thật quý giá, vì người đau khổ ấy cảm thấy được an ủi rất nhiều bởi tình bằng hữu
của ta. Nếu biết có ai đang ở với mình để an ủi mình thì cuộc đời sẽ khác đi rất
nhiều do không còn cảm thấy cô đơn nữa.
Đức Giêsu bảo các tông
đồ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và Ngài hứa sẽ ở cùng họ luôn mãi. Ngài
chỉ hứa có bấy nhiêu, không có sự bảo đảm nào khác. Nhưng đó chính là sự bảo đảm
quan trọng nhất Ngài có thể ban cho họ. Mặc dù Ngài không bảo đảm cho họ có một
cuộc sống khỏi mọi ưu phiền, thậm chí Ngài cũng không bảo đảm là họ sẽ thành
công, tuy nhiên họ ý thức rằng bao lâu Ngài còn ở với họ thì họ sẽ có can đảm
và sức mạnh để có thể đương đầu với bất cứ khó khăn nào trước mặt.
Ý thức có Chúa ở cùng
chúng ta không thay đổi được thế giới của chúng ta nhưng có thể cho chúng ta
can đảm để đối diện thế giới ấy. Chúng ta không xin Chúa thay đổi thế giới hầu
làm cho thế giới dễ chịu hơn. Chúng ta chỉ xin Ngài bảo đảm rằng Ngài sẽ luôn ở
với chúng ta khi chúng ta phải đương đầu với những khó khăn. Việc Ngài luôn ở với
chúng ta sẽ che chở chúng ta khỏi cảm giác cô đơn và thất vọng.
Chúa luôn ờ cùng chúng
ta, nhưng chúng ta không luôn ở cùng Chúa. Những bận rộn trong cuộc sống đã cắt
đứt liên hệ của chúng ta với Ngài, và khi liên hệ của chúng ta với Ngài bị cắt
thì chúng ta phải mất mát thiệt thòi rất nhiều.
Vì thế, chúng ta cần bồi
dưỡng ý thức có Chúa luôn ở cùng chúng ta, bồi dưỡng bằng cầu nguyện. (Viết
theo Flor McCarthy)
* 2. Tin tưởng vào
Chúa
Lời cầu nguyện dưới
đây ghi trên một mảnh giấy được tìm thấy trong thi thể một người lính trẻ tử trận
trong thế chiến thứ I :
"Chúa ơi, trước
đây con chưa bao giờ thưa chuyện với Ngài, nhưng bây giờ con xin chào Ngài. Họ
đã nói với con rằng Ngài không hiện hữu, và như một thằng điên, con đã tin họ.
Nhưng đêm hôm qua, con đã nhìn lên trời từ một lỗ nhỏ trong hầm trú. Con đã thấy
vẻ đẹp của những vì sao và con nghĩ rằng vũ trụ bao la biết chừng nào. Khi đó
con biết rằng họ đã nói dối. Con không biết Ngài sẽ bắt tay con không khi Ngài
và con gặp nhau. Dù sao, con cảm nghĩ rằng Ngài sẽ hiểu cho tất cả những sa ngã
của con. Thật lạ lùng sao con phải đến nơi khủng khiếp này mới có thể biết được
Ngài. Trước đây còn đã làm gì ? Con chẳng biết nói gì hơn, nhưng con đoan chắc
rằng con rất hạnh phúc khi hôm nay được biết Ngài. Con cảm thấy giờ zero sắp đến.
Sắp có một trận đánh khủng khiếp. Biết đâu ngay đêm nay con có thể đến nhà
Ngài. Con đang khóc ! Lạ quá con đang khóc, vì trước đây chưa bao giờ con khóc
như thế. Bây giờ con phải đi. Nhưng vì con đi để gặp Ngài nên con không sợ chết
nữa."
Tiếc là người lính trẻ
này biết Chúa quá muộn. Nhưng muộn còn hơn không. Khi chúng ta tự cho phép mình
tách lìa khỏi Chúa thì chúng ta phải chịu nhiều mất mát to lớn. Mà việc chúng
ta tách lìa khỏi Thiên Chúa không phải là do lỗi của Ngài. Bài đọc I hôm nay
cho thấy Thiên Chúa đã chủ động đến với con người để được gần gũi với con người
như thế nào. Còn bài đọc II thì cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người
thân thiết đến mức nào. Chúng ta không chỉ là thành viên của dân Chúa mà còn là
con cái Ngài. Nếu chúng ta liên kết với Ngài thì chúng ta trở nên những kẻ đồng
thừa tự với Chúa Con trong Nước Trời. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. "Dạy họ tuân
giữ mọi điều Thầy đã truyền"
Những số liệu về kết
quả truyền giáo khiến chúng ta rất bi quan. Với tất cả mọi cố gắng và mọi phương
tiện, mỗi năm có được khoảng nửa triệu
người lớn gia nhập đạo Công giáo ; nếu cộng thêm vào đó số trẻ em rửa tội nhờ
cha mẹ là người công giáo khoảng 3 triệu rưỡi nữa, thì tổng cộng mỗi năm có
thêm chừng 4 triệu người rửa tội. Trong khi đó chỉ ở nước Trung Hoa thôi mỗi
năm có thêm 12 triệu dân, nghĩa là số dân Trung Hoa sinh ra trong một năm đã gấp
3 lần số người công giáo tăng thêm trên toàn thế giới. Năm 1960 số người công
giáo toàn thế giới là 500 triệu, dân số Trung Hoa khoảng một tỉ rưởi,
nghĩa là gấp 3 lần người công giáo trên toàn thế giới, năm 2000, số giáo
dân hoàn cầu khoảng 600 triệu, còn dân Trung Hoa khoảng 2 tỉ rưỡi, nghĩa là
giáo dân toàn cầu chỉ còn bằng 1/5 số dân của chỉ riêng một nước Trung Hoa. Đó
là ta đem tổng số giáo dân của toàn thế giới so sánh với dân số của chỉ một nước
Trung Hoa thôi, chứ nếu so với tổng số nhân loại thì còn thể thảm hơn nữa. Cứ
cái đà này thì giáo dân hiện này đã là một thiểu số trong nhân loại, mà càng về
sau thì cái thiểu số đó càng nhỏ đi, tỉ lệ càng nhỏ đi hơn nữa. Như thế, có thể
nói việc truyền giáo là một thất bại !
Nhưng đó là chúng ta
tính trên những con số người được rửa tội, những con số rất bi quan. Còn nếu
chúng ta nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác thì lại lạc quan. Chẳng hạn như mỗi
khi một nơi nào đó trên thế giới gặp thiên tai như động đất, lũ lụt v.v. thì rất
nhiều nước trên thế giới không phân biệt lập trường chính trị hay ý thức hệ lập
tức gởi tiền bạc, lương thực, thuốc men, quần áo và nhân viên đến cứu trợ. Tinh
thần bác ái xã hội của nhân loại càng ngày càng lớn thêm. Nhân loại cũng càng
ngày càng biết tôn trọng phẩm giá con người hơn, càng ngày càng tôn trọng nhân
phẩm của người phụ nữ hơn, càng ngày càng tôn trọng trẻ con hơn, càng ngày tôn
trọng nhân quyền hơn... Do đâu mà có những sự tiến bộ đó ? Chắc hẳn là do ảnh hưởng
của tinh thần Tin mừng Kitô giáo. Nói như vậy không phải là dành công cho Kitô
giáo một cách hồ đồ, mà có bằng chứng rõ ràng : trước khi Kitô giáo được truyền
bá loài người đã sống như thế nào ? Khi đó, đa thê là tình trạng đương nhiên :
Một người đàn ông có quyền có nhiều vợ và muốn bỏ vợ lúc nào tuỳ ý. Khi đó người
cha cũng có toàn quyền sinh sát trên con cái : sinh con ra nếu nó không phải là
con trai, hay nếu nó tàn tật thì người cha có quyền giết chết nó đi không ai
coi là tội. Khi đó chế độ nô lệ cũng là tình trạng đương nhiên : Người giàu có
quyền mua những người nghèo về làm nô lệ phục dịch mình, người nô lệ ấy nếu còn
mạnh khoẻ thì còn được nuôi dưỡng, còn nếu đã già yếu hay bệnh tật thì chủ có
quyền giết đi hay đem bán cho người khác, người nô lệ được xem cũng như con trân
con bò...Thế rồi Kitô giáo xuất hiện, giáo hội mở trường dạy học cho giới bình
dân, Giáo Hội rao giảng vợ chồng nhất phu nhất phụ, GH lên án tục giết trẻ con,
Giáo Hội vận động huỷ bỏ chế độ nô lệ, GH dạy những người chủ phải yêu thương các
tôi tớ, GH dạy người giàu phải kính trọng những người nghèo... Vì tất cả đều là
người, tất cả đều là con của Chúa và là anh em bình đẳng với nhau. Và dần dần,
chế độ đa thê, chế độ nô lệ, tục lệ giết trẻ em biến mất...Dần dần người ta đề
cao hơn tình huynh đệ, tình liên đới xã hội v.v... Những giá trị tinh thần của
Kitô giáo ấy, ngày nay người ta coi là đương nhiên, kể cả những người không phải
là Kitô giáo cũng đương nhiên sống theo những giá trị tinh thần ấy. Người hữu
thần và người vô thần đều coi sống như thế là đúng, là phải, là đạo đức.
Những điều kể ra nảy
giờ có ý nghĩa gì đối với ngày lời Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay
"Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" ? Những điều
trình bày phía trên muốn cho thấy rằng : nếu quan niệm truyền giáo chỉ là rửa tội
cho người ta gia nhập cơ cấu hữu hình của GH thì truyền giáo quả là một thất bại
lớn. Nhưng nếu quan niệm truyền giáo chính là truyền bá và làm thấm nhuần những
giá trị Tin mừng vào môi trường mình sống thì truyền giáo vẫn còn là một thành
công. Cả hai cách truyền giáo đều cần và bổ sung cho nhau. Nghĩa là GH ngày nay
vẫn còn phải tiếp tục đón nhận những ai đến xin lãnh nhận bí tích Rửa tội và
gia nhập vào cơ cấu hữu hình của GH, nhưng GH không nên tự mãn với việc Rửa tội,
mà quan trọng hơn là làm cho tinh thần Tin mừng thấm nhiễm vào thế giới. Thiết
nghĩ, ngày nay phải nhấn mạnh hơn vào cách thứ 2 này, bởi vì :
. Việc dạy giáo lý, việc
Rửa tội hầu như chỉ thích hợp hơn cho các linh mục tu sĩ. Vậy thì giáo dân khỏi
phải truyền giáo ư ? Không, giáo dân vẫn truyền giáo được bằng nếp sống tỏa chiếu
tinh thần Tin mừng cho mọi người chung quanh mình.
. Rồi có những hoàn cảnh
không tiện nói về đạo, về Chúa, về Giáo Hội. Dù không tiện như thế nhưng ta vẫn
có thể truyền giáo được bằng nếp sống của ta.
. Và cũng có thể có những
người không chịu Phép Rửa tôi được, không đi đến nhà thờ được, nhưng họ vẫn sống
theo những giá trị tinh thần tốt đẹp của Tin mừng. Làm sao cho có được những người
như thế cũng là một điều đáng mừng rồi. Thần học gia Karl Rahner đã gọi những
người đó là những "Kitô hữu ẩn danh", nghĩa là tuy họ không có danh
hiệu là Kitô hữu, nhưng thực chất họ sống y như một người Kitô hữu.
Có lẽ ngay từ ngày xưa
Đức Giêsu đã nghĩ tới cách truyền giáo đó và đề cao các đó khi Ngài giảng những
dụ ngôn về Nước Trời : Nước Trời giống như men vùi trong thúng bột. Tuy men âm
thầm không ai thấy nhưng nó dần dần làm cho cả thúng bột dậy men. Nước Trời giống
như một cái hạt gieo xuống lòng đất, cho dù chủ có biết hay không, cho dù chủ đất
thức hay ngủ, hạt giống ấy cứ ngày đêm đâm chồi mọc lên và cuối cùng thành một
cây to lớn.
Công đồng Vaticanô để
kêu gọi "Truyền giáo là bổn phận của mọi Kitô hữu". Với hoàn cảnh, khả
năng và phương tiện của một người giáo dân, chúng ta có thể đáp lời kêu gọi của
công đồng để truyền giáo bằng cách sống như một hạt men như một hạt giống giữa
những người khác, nghĩa là bằng cuộc sống của mình, Chúng ta cho người ta thấy
được sự tốt đẹp của tinh thần Tin mừng và người ta ham thích sống theo đó, dù ý
thức hay vô ý thức cũng tốt. Cụ thể, chúng ta hãy sống như những lời kinh Hoà
Bình mà thỉnh thoảng chúng ta vẫn đọc :
Đem yêu thương vào nơi
oán thù.
Đem thứ tha vào nơi lăng
nhục.
Đem an hoà vào nơi
tranh chấp.
Đem chân lý vào chốn lỗi
lầm.
Đem niềm tin vào nơi
nghi ngờ.
Đem cậy trông vào nơi
tuyệt vọng.
Đem ánh sáng vào chốn
tối tăm.
Đem niềm vui vào nơi sầu
thảm.
* 4. Thiên Chúa là
Tình yêu
Thánh Gioan đã định
nghĩa "Thiên Chúa là Tình Yêu".
Thiên Chúa là Tình yêu
nghĩa là Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi tình yêu, Thiên Chúa là mẫu mực
cho mọi Tình yêu.
Thiên Chúa là Tình yêu
có nghĩa là không có nơi nào Tình yêu được trọn vẹn hoàn hảo cho bằng Tình yêu
nơi Thiên Chúa. Vì thế suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa có thể giúp ta rút ra được
những gương mẫu cho Tình yêu loài người.
Vậy hôm nay, dịp lễ
Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa
có những đặc điểm gì ?
1/ Đặc điểm thứ nhất
là Tình yêu của Thiên Chúa không cô độc.
- TC không phải chỉ có
một Ngôi tự yêu thương mình, nhưng TC có Ba Ngôi yêu thương nhau.
- Điều đó cho thấy Yêu
thương phải có đối tượng. Yêu thương thì là phải yêu thương ai khác mình, ngoài
mình. Yêu thương không có đối tượng là yêu thương chính mình, đó là ích kỷ, nếu
không muốn nói là bệnh hoạn. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không
yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm
nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động
quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau
người ta đặt tên chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.
- Nhưng tại sao yêu thương
cần phải có đối tượng ? Thưa cần có đối tượng để mà chăm sóc, phục vụ, âu yếm,
ban phát... nói tóm lại để mà cho đi. Yêu thương là cho đi. Khi ta yêu thương
ai, ta thích cho người đó hoặc cái này hoặc cái nọ : khi thì cho một món quà,
khi thì cho một sự chăm sóc, khi thì cho một cử chỉ âu yếm, yêu thương cao độ
nhất là cho người ấy chính bản thân mình. Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh nhận.
Vì thế ai yêu thương thật thì thích cho đi, trái lại kẻ nào thích lãnh nhận hơn
thì là dấu kẻ đó còn ích kỷ chưa yêu thương thật.
2/ Đặc điểm thứ hai của
Tình yêu Thiên Chúa là vừa có sự khác biệt vừa có sự hợp nhất.
- Chỉ có một TC nhưng
lại có Ba Ngôi. Tuy có 3 Ngôi nhưng chỉ là một TC.
- Có câu thơ "Mình
với ta tuy 2 mà 1, ta với mình tuy 1 mà 2".
Áp dụng vào Tình yêu
Thiên Chúa thì câu này có thể đổi lại là : Mình với ta tuy 3 mà một", hơi
gượng ép một chút nhưng cũng đồng một ý nghĩa.
- Ý nghĩa đó là : TC
có Ba Ngôi hoàn toàn riêng biệt nhau : Ngôi Cha là đấng tạo dựng vũ trụ, Ngôi
Con là Đấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Đấng Thánh hóa loài người.
Nhưng dù khác biệt nhau mà 3 Ngôi không đối nghịch nhau, trái lại hoàn toàn hợp
nhất với nhau đến nỗi cả 3 chỉ là một TC.
- Điều đó có ý nghĩa
là : Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau. Tuy
nhiên những kẻ yêu thương nhau thì cho dù khác biệt nhưng không được đối nghịch
xung khắc với nhau, mà phải hoà hợp với nhau.
Xin tóm lại những gì
đã phân tích được từ Tình yêu của TC Ba Ngôi :
. Yêu thương là cho đi.
. Yêu thương là chấp
nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau.
. Yêu thương là dù có
khác biệt nhưng vẫn hoà hợp với nhau.
* 5. Tình yêu hiệp nhất
Trong cuộc đời của nghị
viên Rémaud có một giai thoại lý thú sau đây : Lần đầu tiên từ Pyrénées đến
Paris với tư cách là nghị viên, ông Rémaud thuê phòng trong một khách sạn và trả
tiền trước một tháng : 150 quan Pháp. Chủ khách sạn hỏi :
- Ông có cần biên nhận
không ?
- Không, không cần thiết.
Thiên Chúa nhìn thấy hết chúng ta.
- Ngài tin vào Thiên
Chúa ư ?
- Lẽ dĩ nhiên ! Ông
cũng thế chứ ?
- Tôi thì không, thưa
ngài.
- A ! Vậy xin ông cho
tôi ngay một tờ biên nhận !
*
Người ta thường nói :
"Tin đạo chứ đừng tin người có đạo". Quả thật, khi gặp người có đạo
chúng ta thấy tin tưởng hơn, yên tâm hơn. Nhưng thực tế, không hẳn là như vậy !
Ở đây, chúng ta muốn nói đến niềm tin vào Thiên Chúa, tin các mầu nhiệm trong đạo.
Đã tin là có liều lĩnh, mạo hiểm. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm
cao sâu, trí khôn con người khó mà hiểu thấu.
Chúng ta thường dùng một
vài hình ảnh loại suy để hiểu một phần nào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đó là
hình ảnh của nước. Nước có thể hiện hữu dưới ba dạng : thể hơi, thể rắn, và thể
lỏng. Hoặc ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất. Tuy nhiên tất cả những so
sánh ấy không tránh khỏi thiếu sót, vụng về khi nói về Thiên Chúa. Chỉ có Đấng ở
trong cung lòng Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã vén mở cho chúng ta biết có một
Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị : là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Ba Ngôi khác nhau nhưng cùng một Thiên Chúa.
Câu Kinh Thánh nổi tiếng
về Ba Ngôi chính là "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép Rửa cho họ,
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt.28,19). Và hình ảnh đặc trưng nhất
về Ba Ngôi được mạc khải khi Đức Giêsu chịu phép rửa : Một hình chim bồ câu bay
lượn trên mình Người, và một tiếng từ trời phán : "Con là Con Ta yêu dấu"
(Mc.1,11). Đó là hình ảnh sống động về chân dung của Chúa Ba Ngôi. Theo thánh
Tôma Aquinô thì trong cuộc Hiển Dung, tất cả Ba Ngôi đã xuất hiện : "Chúa
Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong Con người, Chúa Thánh Thần trong ánh mây
sáng chói".
Thánh Luca nhìn lịch sử
cứu độ như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi : Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của
Chúa Cha, thời loan báo Tin mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời hậu Tin mừng
mà Công vụ Tông đồ ghi lại là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần. Kinh Tin Kính duy
trì mẫu tuyên xưng này : Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc, và Chúa Thánh
Thần ban nguồn sống.
Tin vào mầu nhiệm Ba
Ngôi là chúng ta dựa vào thế giá của Đức Giêsu, Người là sự thật (x. Ga.8,32)
nên Người chẳng lừa dối ai.
Tin vào mầu nhiệm Ba
Ngôi là chúng ta sống hiệp thông, chia sẻ và yêu thương. Vì "Ai ở trong
Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy"
(1Ga.4,16).
Tin vào mầu nhiệm Ba
Ngôi là chúng ta làm dấu thánh giá trên thân xác, là in dấu Chúa Ba Ngôi trên
cuộc đời mình, là họa lại hình ảnh Ba Ngôi trong tâm hồn tha nhân.
*
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
Thiên Chúa là một cộng đồng Tình yêu Hiệp nhất. Xin cho Giáo hội tìm thấy bản
tính của mình trong bản tính của Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con hiệp nhất
trong tình yêu, để minh chứng cho Tình yêu Hiệp nhất của Chúa. Amen. (Thiên
Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em
thân mến, Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của tình yêu, một tình yêu sáng tạo cứu
độ và thánh hóa chúng ta ; một tình yêu muốn hiệp thông với tất cả mọi người.
Chúng ta hãy dâng lên Ba Ngôi lời cầu xin của chúng ta :
1. Hiệp thông được
phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi, và Hội thánh phải qui hướng về Thiên Chúa Ba
Ngôi / Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hội thánh luôn là dấu chỉ và dụng cụ của
tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Thế giới và vũ trụ
cũng phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu xin cho các
nhà cầm quyền cũng như mọi dân tộc / biết nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn gốc và
là cùng đích của mọi người mọi vật.
3. Trong xã hội còn đầy
dẫy những chia rẽ, bè phái, kỳ thị, hận thù, giết hại nhau / Chúng ta hãy cầu
xin cho mọi người sớm nhận biết rằng / người trong bốn bể đều là anh em con Một
Chúa trên trời.
4. Hội thánh có sứ vụ
đem mọi người về hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu xin cho cộng
đồng xứ đạo chúng ta luôn sống hiệp thông với Chúa và với nhau / để có thể đem
mọi người chung quanh về hiệp thông trong gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chủ tế : Lạy Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần
Ba Ngôi chí thánh luôn hiệp thông với nhau ; xin cho mỗi người chúng con biết dẹp
bỏ mọi chia sẻ, kỳ thị, hận thù ; để chúng con luôn sống hiệp thông với nhau,
như anh em trong một gia đình Thiên Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Chủ tế chú ý nhấn mạnh
tất cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
- Trước kinh Lạy Cha :
Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo
như Đức Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
VII. Giải tán
Chúng ta đã dâng Thánh
lễ tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. "Xin chúc anh chị em được
đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp
của Chúa Thánh Thần".
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét