27/05/2018
Chúa Nhật tuần 8 Thường Niên năm B
Chúa Ba Ngôi.
(phần I)
Bài Ðọc I: Ðnl 4,
32-34. 39-40
"Chính Chúa là
Thiên Chúa, chớ không có Chúa nào khác".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân
chúng rằng: "Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi
Thiên Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời nọ,
có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ người ta đã
nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một dân tộc đã nghe lời
Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã nghe mà còn sống chăng? Có bao
giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ, điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền
năng mạnh mẽ và những thị kiến khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa
các dân tộc khác, như Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó
trước mặt các ngươi trong đất Ai-cập chăng? Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết
và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chớ
không có Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính
ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh
phúc và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 4-5. 6
và 9. 18-19. 20 và 22
Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng
mình (c. 12b).
Xướng: 1) Vì lời Chúa
là lời chân chính, bao việc Ngài làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều
công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
2) Do lời Chúa mà trời
xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng Ngài. Vì chính
Ngài phán dạy mà chúng được tạo thành, chính Ngài ra lệnh mà chúng trở nên thực
hữu. - Ðáp.
3) Kìa Chúa để mắt coi
những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Ngài, để cứu gỡ
họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.
4) Linh hồn chúng con
mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ
lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 8, 14-17
"Anh em đã nhận
tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: Abba, lạy
Cha!".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, ai sống
theo Thánh Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa. Vì không phải anh em đã
nhận tinh thần nô lệ trong sợ hãi nữa, nhưng đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong
tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: "Abba - lạy Cha!" Vì chính Thánh
Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng: Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy
nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự, nghĩa là thừa tự của Thiên
Chúa, và đồng thừa tự với Ðức Kitô: vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để
rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Kh 1, 8
Alleluia, alleluia! -
Sáng danh Ðức Chúa Cha, và Ðức Chúa Con, và Ðức Chúa Thánh Thần; sáng danh
Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có và sẽ đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 28, 16-20
"Làm phép rửa
cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
Bài kết thúc Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ
đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy
Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng:
"Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy
đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần;
giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng
các con mọi ngày cho đến tận thế".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ba Ngôi đều
chỉ hành động cho ta và chỉ muốn yêu ta
Chúa nhật trước, chúng
ta mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Hôm nay, chúng ta mừng lễ Thiên Chúa Ba
Ngôi. Liên lạc, tương quan giữa hai ngày lễ có thể tìm thấy ngay trong bài đọc
II hôm nay. Thánh Phaolô quả quyết: chúng ta đã nhận được tinh thần nghĩa tử và
trong tinh thần ấy chúng ta kêu lên rằng Abba, lạy Cha. Vì chính Thánh Thần làm
chứng cho tâm trí chúng ta rằng: chúng ta là con cái Thiên Chúa.
Như vậy theo thánh
Phaolô, chính Thánh Thần khi ngự xuống lòng ta, đốt lửa mến Chúa lên trong lòng
ta khiến ta tự nhiên gọi Thiên Chúa là Cha. Rồi trong một đoạn thư khác, thánh
Phaolô lại viết: cũng như trong con người chúng ta, chỉ có một tinh thần chúng
ta mới hiểu biết được những sự thâm sâu ở trong mình; thì cũng vậy, chỉ có Thánh
Thần mới hiểu biết được mầu nhiệm sâu xa nơi Thiên Chúa. Thế mà Thánh Thần đã
hiện xuống trên chúng ta, hành động nơi tâm hồn chúng ta, nên sau lê Chúa Thánh
Thần Hiện xuống, chúng ta mừng lễ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi thật là phải lẽ. Chính
Chúa Yêsu cũng đã tuyên bố: khi Thánh Thần đến Người sẽ dạy dỗ chúng ta tất cả
sự thật và nhắc nhở, soi sáng để chúng ta hiểu lại mọi điều Chúa Yêsu đã nói với
chúng ta. Thế mà sứ mạng giáng trần của Chúa Yêsu cũng là mạc khải danh Chúa
Cha cho loài người, tức là làm cho loài người hiểu biết về Thiên Chúa. Do đó
sau Chúa nhật lãnh nhận Thánh Thần, hôm nay chúng ta được hiểu biết về mầu nhiệm
Chúa Ba Ngôi để mến yêu nhiều hơn và được hạnh phúc.
Như hôm lễ Hiện xuống,
chúng ta đã thấy sau khi nhận được Thánh Thần, các tông đồ trở nên sốt mến, nói
lên những lời ca tụng các kỳ công của Thiên Chúa. Ðó là các tác động đầu tiên của
ơn Thánh Thần. Không phải vô lý mà Người đã lấy hình lưỡi lửa để hiện xuống. Lửa
vừa soi sáng vừa sưởi nóng. Thánh Thần soi sáng để chúng ta biết Chúa và sốt sắng
yêu mến Chúa. Người là tình yêu. Tình yêu tràn ngập lòng ai sẽ làm cho người đó
kêu lên những lời ân ái. Mà lời ân ái chúng ta tự nhiên kêu lên Thiên Chúa khi
hiểu tình thương của Người là "Abba, lạy Cha".
Thiên Chúa thật là Cha
chúng ta và là Cha của mọi tạo vật. Chính Người đã dựng nên trời đất và sinh ra
tất cả mọi loài. Người yêu thương loài người hơn hết, nên đã dựng nên họ sau hết
mọi loài, để vừa sinh ra con người đã có đủ mọi sự cần dùng. Người còn yêu
thương ta đến nỗi đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Người và sinh ra loài người
có nam có nữ để ngay từ đầu con người đã biết sống bằng tình thương. Sách thánh
còn kể Thiên Chúa dựng nên địa đàng cho Adong Evà. Và nếu chúng ta biết nhìn
thì sông kia núi nọ chim trời cá nước, tất cả đều nói lên sự phong phú hùng vĩ
tươi đẹp của thiên nhiên, chứng tỏ khả năng tạo dựng sinh sản kỳ diệu của Ðấng
hóa công. Ai nhìn thấy giang san gấm vóc và các cảnh núi non hùng vĩ mà không gọi
trời là Cha?
Nhưng Thánh Thần ở
trong lòng ta không phải chỉ muốn kêu lên chữ "Cha" tự nhiên ấy...
Người cũng đã ở trong lòng và nơi môi miệng Môsê để ông còn nhắc đi nhắc lại
trong bài đọc I hôm nay: Thiên Chúa là Cha của dân. Người đã coi dân như con
cái, không phải chỉ giải phóng dân khỏi ách đô hộ, ban đất chảy sữa và mật cho
dân, nhưng nhất là làm cho dân những kỳ công mà ai nhìn vào cũng thấy ngay. Người
cưng dân như cha như mẹ. Có lần Người tuyên bố rõ hơn: Người đã ghi tên dân vào
lòng bàn tay đến nỗi dù có người mẹ nào quên được con cái thì Người cũng chẳng
bao giờ quên dân. Môsê bảo người Dothái đừng bao giờ quên điều đó. Hạnh phúc
cho họ nếu họ luôn luôn nhớ rằng, không những Chúa là Cha của họ vì đã sinh ra
họ, nhưng nhất là vì Chúa đã chọn họ giữa muôn ngàn dân để yêu chiều họ như con
cưng trìu mến.
Người Kitô hữu còn có
lý do sâu xa hơn nữa để kính thờ Thiên Chúa là Cha. Bởi vì sang thời Tân Ước
Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi sai Con Một yêu quý Người xuống thế
để làm cho tất cả những ai tin vào Con yêu quý Người, trở nên nghĩa tử của
Thiên Chúa Cha. Mà quả vậy, từ ngày tin Chúa Yêsu, chúng ta đã được cầu xin
Thiên Chúa rằng: lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúa Yêsu đã sát nhập chúng ta
vào trong cơ thể Người, để ở trong Người, chúng ta được xưng Cha - con với
Thiên Chúa. Việc xưng hô này sâu xa khác hẳn khi lương dân gọi trời là Cha và
khi người Dothái kêu Ðức Yavê là Cha. Chúng ta kêu Thiên Chúa là Cha khi chúng
ta ở trong cơ thể Ðức Kitô là Con Một yêu dấu của Thiên Chúa. Như lời Thánh Thư
hôm nay nói: chúng ta là con Chúa một cách đặc biệt, nên chúng ta là người thừa
tự tất cả những gì mà Thiên Chúa có và đã làm ra, như con cái trong nhà sẽ được
lãnh nhận tất cả gia sản mà cha mẹ đã tạo dựng. Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất.
Thiên Chúa đã làm những kỳ công trong lịch sử. Tất cả bây giờ thành sản nghiệp
của chúng ta vì chúng ta đã là con cái Chúa trong Ðức Yêsu cứu thế.
Như vậy, ngày lễ Thiên
Chúa Ba Ngôi hôm nay trước hết chúng ta hãy thờ lạy, kính yêu cảm tạ Thiên Chúa
Cha. Người thật là Cha vì hằng nuôi dưỡng chúng ta và nhất là vì Người không ngừng
ban ơn nghĩa tử để chúng ta được làm con Người ở trong Ðức Kitô. Và chúng ta chỉ
có thể hiểu được tình Cha của Người khi nhìn vào tương quan giữa Người với Ðức
Kitô.
Phúc Âm cho ta thấy Ðức
Kitô không phải chỉ là một nhà tiên tri xuất chúng, một vị sáng lập ra một tôn
giáo mới. Từ khi đầu thai tới khi vượt qua về trời, để gửi Thánh Thần xuống, tất
cả cuộc đời của Người nói lên Người chỉ là Chúa Con lệ thuộc hoàn toàn vào
Thiên Chúa Cha. Chính Người đã nói: Người không có gì riêng cả. Mọi sự ở nơi
Người, cho đến sự sống và sự chết, giáo lý cũng như việc làm hết thảy đều của
Chúa Cha ban cho và trao cho. Thấy Chúa Cha sống làm sao, Người làm y hệt như vậy,
đến nỗi Người nói với Philipphê: "Ai thấy Thầy cũng thấy Cha Thầy",
vì thật ra Người chỉ là hình ảnh Chúa Cha. Người với Chúa Cha là một. Người xuống
trần gian đâu có phải để làm việc riêng. Ý của Chúa Cha là lương thực nuôi dưỡng
Người hằng ngày và Người chỉ sống để mạc khải Danh Chúa Cha, để hoàn tất mọi điều
Chúa Cha đã viết về Người. Cuối cùng Người đã phải chết nhục nhã khổ sở cũng chỉ
vì Người dám quyết mình với Chúa Cha là một. Người với Chúa Cha là một, bởi vì
giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa hai ngôi vị ấy, tương quan mật thiết sâu xa duy
nhất đến nỗi ai thấy Chúa Con cũng như thấy Chúa Cha, vì Chúa Con không tự mình
có gì cả nhưng Chúa Cha đã ban tất cả những cái gì Chúa Cha có cho Chúa Con.
Thành ra chúng ta chỉ thật sự được làm con cái Thiên Chúa nếu chúng ta được ở
trong cơ thể Chúa Con. Và đó là điều chúng ta đã được từ ngày rửa tội. Và mỗi khi
đến với Mình Thánh, chúng ta lại được đồng hóa hơn với Chúa Con, để khi hợp nhất
với Chúa Con, chúng ta được thật là con cái Chúa Cha.
Và như vậy để làm gì?
Như thánh Phaolô đã
nói trong bài thư hôm nay, để chúng ta được đồng thừa tự với Ðức Kitô. Và muốn
biết Ðức Kitô đã được thừa tự gì, chúng ta hãy xem ngày Người sống lại và lên
trời. Người đã được đầy Thánh Thần đến nỗi thân thể của Người đã trở nên sáng
láng vinh quang y như vinh quang của Thiên Chúa Cha. Và Người đã sai Thánh Thần
đó xuống cho các môn đệ trong ngày Hiện xuống. Chúng ta chỉ cần nhìn vào đó mà
hiểu biết Chúa Thánh Thần� Người vô hình nhưng hành động
mãnh liệt. Người hành động như Chúa Cha vì Chúa Cha sinh ra muôn vật thế nào,
bây giờ Người đổi mới vũ trụ như vậy. Tất cả đã được tạo dựng lại trong ngày
Người hiện xuống. Người cũng hoàn thành công việc của Chúa Con vì tất cả những
gì Chúa Con muốn làm cho trần gian, bây giờ Người củng cố, đẩy mạnh và hoàn tất.
Người với Chúa Cha và Chúa Con cũng chỉ là một. Và cả ba đều hành động theo một
mục tiêu duy nhất: làm cho tất cả con cái loài người cùng toàn thể vũ trụ được
chia sẻ sự sống đời đời và hạnh phúc bất tận của chính các Người là Ba Ngôi
Thiên Chúa.
Ngày lễ Chúa Ba Ngôi
muốn chúng ta suy niệm chương trình cứu độ đầy tình thương đó. Mầu nhiệm Chúa
Ba Ngôi không được viết trong sách toán, nhưng trong sách Thánh là sách mạc khải
các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Câu tóm tắt sách Thánh, cô đọng mọi mạc khải đã
được Phúc Âm hôm nay gợi lên khi viết: chúng con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm
phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, để hiến dâng họ cho Thiên
Chúa Ba Ngôi.
Như vậy, từ nay chúng
ta hãy quý dấu Thánh giá, hãy làm dấu đó để hiến dâng mình đi vào sự sống phúc
lộc của Thiên Chúa Ba Ngôi. Và mỗi lần muốn hiểu thêm về mầu nhiệm này, đọc tất
cả sách Thánh một lúc không được, nhưng nếu cứ ngẫm suy mọi điều trong kinh Tin
Kính, chúng ta sẽ lần lượt hiểu rõ tình thương của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, khiến chúng ta sẽ thấy đời thật ý nghĩa. Tôi mời anh chị em đứng
lên sốt sắng đọc kinh ấy, để hiểu thêm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, để thấy rõ
ràng Ba Ngôi đều chỉ hành động cho ta và chỉ muốn yêu ta.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật Lễ Ba Ngôi, Năm
B
Bài đọc: Deut
4:32-34, 39-40; Rom 8:14-17; Mt 28:16-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất để lo liệu cho con người.
Vua David, tác giả Thánh Vịnh 8, sau khi đã suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa và sự
bất xứng của con người, đã phải thốt lên: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm
nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” Không phải chỉ có một ngôi, mà cả Ba Ngôi
Thiên Chúa đã cùng cộng tác để lo liệu cho con người. Điều này nhắc nhở cho con
người biết họ có địa vị cao quí trước Thiên Chúa; và họ phải biết sống làm sao
cho xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho con người.
Trong Bài Đọc I, ông Moses nhắc lại hai đặc quyền mà dân tộc Israel được hưởng:
Thiên Chúa đã chọn họ làn dân riêng và ban Thập Giới cho họ. Trong Bài Đọc II,
thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu đặc quyền được làm con Thiên Chúa qua niềm
tin vào Đức Kitô, và họ sẽ được thừa hưởng gia tài của Ngài. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ trước khi Ngài về trời: Các ông phải đi khắp
nơi thu nhận môn đệ và dạy bảo họ tuân giữ những gì Ngài đã dạy dỗ các
ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ có Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa.
Chúng ta phải hiểu tình yêu Chúa dành cho dân tộc Do-thái, trước khi chúng ta
có thể hiểu tình yêu Thiên Chúa dành cho hết mọi người.
1.1/ Tình yêu Thiên Chúa
dành cho dân tộc Do-thái: Người Do-thái rất
hãnh diện được Thiên Chúa chọn làm dân tộc riêng của Ngài từ muôn dân tộc trên
thế giới. Họ cũng hãnh diện về Thập Giới, vì không một dân tộc nào được thần
minh của họ thân hành hiện đến để ban Lề Luật cho. Trình thuật hôm nay nhắc nhở
cách đại cương tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân tộc Do-thái:
(1) Thiên Chúa tỏ mình cho dân tộc Israel: Sau khi đã vượt qua Biển Đỏ, Moses dẫn
dân chúng vào trong sa mạc để được thử luyện bởi Thiên Chúa. Trước khi vào Đất
Hứa, Ngài muốn ban cho dân Thập Giới; nhưng để tỏ uy quyền của Ngài cho dân biết
kính sợ, Ngài đã làm cho cả ngọn núi cháy bừng như lửa, và Ngài nói chuyện với
Moses từ đám lửa. Chứng kiến cảnh tượng này, dân Do-thái thất kinh vì mắt và
tai họ không chịu đựng nổi uy quyền của Thiên Chúa. Họ xin Moses để Thiên Chúa
nói với mình ông thôi, rồi ông sẽ nói với họ những gì Thiên Chúa muốn. Truyền
thống Do-thái tin không một ai nhìn thấy Thiên Chúa hay thiên sứ mà còn sống,
như ông Moses nhắc nhở cho dân chúng: “Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa
phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không?”
(2) Thiên Chúa chọn họ là dân riêng của Ngài: Ông Moses hỏi dân: “Có thần nào
đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng
bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy
quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho
anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” Biến cố Xuất Hành ra khỏi Ai-cập là
biến cố đáng ghi nhớ, vì Thiên Chúa tỏ tình yêu và uy quyền của Ngài cho dân tộc
Do-thái, để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của người Ai-cập.
1.2/ Bổn phận của người
Do-thái: Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân
tộc Israel là một giao ước, được ký kết giữa hai bên: Thiên Chúa sẽ yêu thương,
bảo vệ, và ban ơn cho họ; đổi lại, họ cũng phải chu toàn hai bổn phận sau:
(1) Con người phải thờ phượng một mình Thiên Chúa: “Vậy hôm nay, anh em phải biết
và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức
Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa.” Thờ bụt thần khác hay
không thờ phượng Chúa trên hết mọi sự, là vi phạm giao ước với Thiên Chúa.
(2) Con người phải tuân giữ các giới răn của Người: Ông Moses long trọng truyền
lệnh cho dân: “Anh em phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay
tôi truyền cho anh em; như vậy anh em và con cháu anh em sau này sẽ được hạnh
phúc, và anh em sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em,
vĩnh viễn ban cho anh em.” Không tuân giữ Lề Luật, dù nhỏ mọn đến đâu chăng nữa,
cũng vi phạm giao ước này.
Từ một dân tộc Do-thái, tình yêu Thiên Chúa lan rộng đến mọi dân tộc khác, khi
Đức Kitô xuất hiện. Từ nay, ơn được làm con Thiên Chúa và được sống muôn đời là
của mọi người.
2/ Bài đọc II: Ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, người đó là con
cái Thiên Chúa.
2.1/ Vai trò của Chúa
Thánh Thần: Ngài soi sáng và hướng dẫn các
tín hữu.
Chúa Cha là Người ban Thánh Thần: khi Chúa Cha ban Thánh Thần của Người cho ai,
kẻ đó là con cái Thiên Chúa, như Phaolô xác quyết: “Quả vậy, phàm ai được Thánh
Thần Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa.”
Có nhiều thần khí khác nhau trong thế gian; nhưng chỉ có một Thánh Thần duy nhất.
Thần khí mà con người sở hữu trước khi lãnh nhận Thánh Thần, là thần khí của nô
lệ và sợ hãi; nhưng khi đã được lãnh nhận Thánh Thần, con người trở thành nghĩa
tử của Thiên Chúa, và Thánh Thần thúc đẩy để con người có thể kêu lên hai tiếng
“Abba! Cha ơi!” với Chúa Cha.
Thánh Phaolô xác quyết: “Chính Thánh Thần cùng chứng thực với thần trí chúng ta
rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.” Khi chúng ta tuyên xưng đức tin vào Đức
Kitô, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa (Rm 3:28, Jn 1:12). Chúng ta có một
nhân chứng khác nữa là Thánh Thần; vì không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là
Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần hướng dẫn (I Cor 12:3). Một lần nữa, chúng
ta thấy niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa là công việc của Ba Ngôi Thiên
Chúa.
2.2/ Các Kitô hữu là những
người thừa kế gia tài của Thiên Chúa:
(1) Quyền làm con: Như đã nói trên, con người trở thành con cái Thiên Chúa là
nhờ tin vào Đức Kitô, chứ không nhờ bất cứ lý do nào khác (Jn 1:13).
(2) Đồng thừa kế gia tài của Thiên Chúa với Đức Kitô: Thánh Phaolô lý luận: “Vậy
đã là con, thì cũng là người thừa kế; mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức
là đồng thừa kế với Đức Kitô.” Đây là một hồng ân vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa
ban cho con người: Tất cả những gì Thiên Chúa có, con người đều được hưởng; tất
cả những gì Đức Kitô có, con người đều có; tất cả những gì Thánh Thần biết, con
người đều có thể biết. Dĩ nhiên, để được hưởng hồng ân này, con người phải sống
hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa, và trung thành với nghĩa vụ làm con của
mình.
(3) Chung phần đau khổ, chung phần vinh quang: Khi đồng thừa kế gia sản với Đức
Kitô, con người không chỉ chung phần vinh quang, nhưng cũng chung phần với những
đau khổ Ngài chịu. Đau khổ Ngài đang chịu bây giờ là nơi thân thể của Ngài là
Giáo Hội; mà Giáo Hội là tất cả các tín hữu, những chi thể của một thân thể. Điều
này mở ra nhiều lộ trình mới để chúng ta có thể chung phần đau khổ với Đức
Kitô:
– Làm vơi đi đau khổ của anh chị em là làm vơi đi đau khổ cho Chúa;
– Giúp anh chị em yêu thương Chúa và đừng phạm tội là làm vơi đi đau khổ của
Chúa;
– Chịu đựng gian khổ để đưa anh chị em về với Chúa là làm vơi đi đau khổ của
Chúa …
3/ Phúc Âm: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.
Chúa Giêsu truyền lệnh cho các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời
dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa
cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế.”
3.1/ Tiếng gọi truyền
giáo: Các ông phải tiếp tục làm cho tất cả mọi
người trở nên môn đệ của Chúa Ba Ngôi. Hai bổn phận quan trọng nhất các ông phải
làm:
(1) Làm Phép Rửa cho họ: Điều kiện để chịu Phép Rửa là tin vào Đức Kitô. Để một
người tin vào Đức Kitô, cần có những người rao giảng Tin Mừng. Vì thế, bổn phận
quan trọng hàng đầu của người môn đệ là rao giảng Tin Mừng trước khi con người
có thể tin và chịu Phép Rửa để trở thành những người môn đệ mới của Chúa.
(2) Dạy bảo họ tuân giữ các giới răn: Để chứng tỏ niềm tin, các tín hữu cần giữ
các giới răn. Vì thế, bổn phận thứ hai của người môn đệ là tiếp tục dạy bảo để
các tín hữu giữ các giới răn của Chúa. Khi giữ các giới răn, người tín hữu tiếp
tục ở lại trong tình thương của Thiên Chúa.
3.2/ Lời hứa bảo đảm cho
các môn đệ: Lúc nào họ cũng có Ba Ngôi Thiên
Chúa ở với họ.
(1) Chúa Giêsu đã được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời cũng như dưới đất:
Ngài có toàn quyền trên tất cả mọi biến cố xảy ra trên thế gian. Nếu chúng ta
nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, chúng ta sẽ không sợ thua cuộc trước bất cứ một
quyền lực nào của con người, thế gian, và quỉ thần. Điều này sẽ giúp chúng ta
hăng hái trong việc rao giảng Tin Mừng.
(2) Chúa Giêsu ở cùng các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Giêsu không vắng
mặt trong cuộc đời các môn đệ sau khi Chúa về trời. Các môn đệ không những có
Chúa Thánh Thần làm việc từ bên trong, để các ông hiểu thấu những gì Chúa Giêsu
đã nói, và hướng dẫn để các ông am hiểu mọi sự thật. Các môn đệ còn có Chúa
Giêsu trợ giúp và bảo vệ từ bên ngoài. Ngài thấy rõ mọi sự việc xảy ra cho các
môn đệ, vì Ngài đang ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu những trợ giúp cần thiết
cho các môn đệ. Điều gì, các môn đệ xin nhân danh Chúa Giêsu, Chúa Cha sẽ không
bao giờ từ chối (Jn 16:23-26). Nếu các môn đệ xác tín sự hiện diện của Chúa Ba
Ngôi trong cuộc đời, họ sẽ không sợ hãi bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời,
và kiên trung làm chứng cho Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Con người chúng ta có phẩm giá cao quí trước Thiên Chúa; vì thế, chúng ta phải
luôn biết sống làm sao cho xứng với địa vị cao quí này.
– Nếu chúng ta cùng chung phần đau khổ của Chúa Kitô, chúng ta cùng chung phần
vinh quang với Ngài, và ngược lại.
– Tiếng gọi truyền giáo phải luôn thôi thúc chúng ta là những môn đệ của
Chúa. Chúng ta đã làm gì để đáp lại lời mời gọi của Chúa?
– Chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa trong cuộc đời.
Ý thức này sẽ giúp chúng ta có sức mạnh chu toàn các bổn phận của người tín hữu.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
27/05/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 8 TN – B
CHÚA BA NGÔI
Mt 28,16-20
ĐI RA VÙNG NGOẠI BIÊN
“Thầy đã được
trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ…”(Mt 28,19)
Suy niệm: Ngay từ buổi đầu, các môn đệ đã ý thức phải đi ra mới có thể làm chứng
cho Tin Mừng cứu độ được. Nhờ sự nhiệt thành ấy, Lời Chúa được lan rộng đến
cùng bờ cõi trái đất. Ngày hôm nay, việc đi ra ấy vẫn luôn là vấn đề thời sự, một
mệnh lệnh còn cấp thiết với ta hơn bao giờ hết. Quanh quẩn trong nội bộ giáo xứ,
theo phương cách mục vụ bảo tồn con số giáo dân không thích hợp với lời dạy của
vị Cha Chung, Đức Thánh Cha Phanxicô. Hơn nữa, các phương tiện di chuyển và
truyền thông hiện đại như chắp thêm cánh, nối thêm chân cho bước đi ra của người
môn đệ. Trong cuộc hành trình như vô tận này, người môn đệ không đơn độc vì
“Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Có Chúa Giê-su Phục
Sinh đồng hành, chúng ta có gì phải sợ hãi, trái lại vững tin mà bước tới.
Mời Bạn: Mệnh lệnh “hãy đi” của Chúa Ki-tô tạo nên một thách đố không nhỏ cho
toàn thể giáo dân, giáo sĩ Việt Nam hôm nay. Đi đâu và đi ra như thế nào khi
chung quanh lang sói vây bủa, nội bộ chưa vững mạnh? Nói gì khi mọi cách thế
truyền thông có thể bị hiểu sai? Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là hồn tông đồ của
bạn, của tôi còn sống động hay không?
Sống Lời Chúa: Noi gương Thánh Phao-lô, Tông đồ dân ngoại, tôi tự nhủ:
“Ơn Ta đủ cho con” (2 Cr 12,9), để rồi tôi hăng hái loan báo Tin Mừng, vì không
có gì mà Chúa không làm được!
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
cho con được góp phần nhỏ bé nỗ lực của con, để sẻ chia trách nhiệm truyền giáo
của Chúa và của Giáo Hội hôm qua, hôm nay và mãi về sau. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (27.5.2018 – Chúa Nhật - Lễ
Chúa Ba Ngôi)
Suy niệm:
“Nếu bạn đi
khắp cùng
trời cuối đất,
bạn sẽ gặp những dấu vết của Thiên Chúa.
Nếu bạn đi
thẳng vào
cung lòng
bạn,
bạn sẽ gặp chính Thiên Chúa”.
Nhiều người đã gặp thấy Ngài nhờ
chiêm
niệm suy tư.
Nhưng con người không
thể biết hết về Thiên Chúa,
cũng không thể mô tả
cho đủ về Ngài.
Có những thiếu sót,
vụng về và đôi khi sai lạc.
Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên
Chúa?
Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài?
Phải là Ðấng ở nơi cung lòng Thiên
Chúa,
Ðấng ấy là Ðức Giêsu,
Ngôi Lời nhập thể.
Nhờ Ðức Giêsu
mà mầu
nhiệm Thiên
Chúa được vén mở,
nhờ Ngài mà chúng
ta biết
có một Thiên Chúa duy nhất
trong ba Ngôi Vị
là Cha, Con và Thánh Thần.
Ba Ngôi khác nhau nhưng
là cùng một Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Tình Yêu,
Ngài duy nhất
nhưng không đơn độc.
“Ta và Cha là một” (Ga 14,10).
“Ta ở trong Cha và Cha ở
trong Ta”
(Ga 16,15).
Tình yêu khăng khít giữa
Cha và
Con là Thánh Thần.
Trong niềm hạnh phúc
sung mãn,
Ba Ngôi đã dựng
nên con người
giống hình ảnh mình
và muốn đưa con người đi vào hiệp thông với
Thiên
Chúa.
“Ðến với Chúa
Cha, nhờ Chúa
Con
và trong Chúa Thánh Thần”:
đó là hành trình thiêng liêng của mọi Kitô hữu.
Chúng ta cần ý thức về sự hiện diện của Ba Ngôi ở trong ta.
“Ai yêu mến
Thầy thì sẽ giữ lời Thầy
và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy
và Chúng Ta sẽ đến và cư ngụ nơi người ấy” (Ga 14,23).
“Cha sẽ ban cho các anh một Ðấng Phù Trợ khác
để Ngài ở với các
anh luôn mãi” (Ga 14,16).
Chúng ta cần có tương
quan riêng
với từng Ngôi!
Chúa Cha, Ðấng
hằng làm
việc để
duy trì vũ trụ,
con người.
Chúa Con, Ðấng
cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh mạng
sống.
Chúa Thánh Thần, Ðấng thánh
hoá và dẫn dắt Giáo Hội.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
là sống hiệp thông
và chia sẻ,
là ở lại trong Tình Yêu
vì “ai ở
trong Tình
Yêu thì ở lại trong Thiên Chúa
và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”
(1Ga 4,16).
Mỗi ngày chúng ta làm dấu nhiều lần trên thân xác
“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa
Ba Ngôi
trên cuộc đời ta, trên thế giới chúng
ta đang
sống.
Chúng ta đã được
chịu Phép Rửa nhân
danh Chúa
Ba Ngôi,
nhưng làm Phép Rửa cho muôn dân
vẫn còn là ước mơ Ðức
Giêsu
chờ ta thực hiện.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi
nhuận,
xin dạy
con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống
trị và chiếm đoạt,
xin dạy
con biết yêu thương
tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy
con biết cộng
tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy
con biết coi mọi
người như
anh em.
Lạy
Chúa
Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của
thế giới.
Xin dạy
chúng
con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống
cho tha nhân,
biết
quảng đại cho đi
và khiêm nhường
nhận lãnh.
Lạy
Ba Ngôi
chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện
diện của
Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng
con người bé nhỏ.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG NĂM
Thánh Thần Đổi Mới
Bộ Mặt Trái Đất
“Xin sai Thánh Thần
Chúa đến để Ngài đổi mới bộ mặt địa cầu!” Phải chăng lời cầu nguyện ấy chỉ dành
riêng cho các Tông Đồ? Chỉ dành riêng cho nhóm bé nhỏ những người liên kết trực
tiếp với Đức Giêsu thuở ấy? Phải chăng lời cầu xin ấy chỉ dành riêng cho họ?
Không! Đó là lời cầu
xin của cả trái đất này. Hết thảy mọi tạo vật, ngay cả dù không có lời lẫn
không có tiếng, đều kêu lên: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng!…
Những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất … Nếu Chúa lấy sinh khí lại, là chúng
tiêu vong ngay, và trở về cát bụi. Ngài gửi sinh khí tới, là chúng được dựng
nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104, 24. 29 – 30). “Chính Thần Khí mới
làm cho sống” (Ga 6, 63). Chính Chúa Thánh Thần đổi mới bộ mặt địa cầu.
Xin sai Thánh Thần đến
trên chúng con, lạy Chúa!
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 27/ 5
Chúa Nhật VIII Thường
niên
Chúa Ba Ngôi
Đnl 4, 32-34.
39-40;Rm 8, 14-17; Mt 28, 16-20.
Lời suy niệm: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn
núi mà Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy,
nhưng có mấy người lại hoài nghi. Đức Giêsu đến gần nói với các ông: ‘Thầy đã
được toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh
em mọi ngày cho đến tận thế.”
Đây là những giây phút đã được Chúa Giêsu chỉ định trước, đây là cuộc gặp gỡ
sau cùng trước khi Chúa Giêsu về lại cùng Chúa Cha. Trong những giây phút trọng
đại này, cho chúng ta thấy được các Tông Đồ đã tỏ ra tôn thờ Chúa Giêsu là Chúa
của họ: “các ông bái lạy” Và Chúa Giêsu một lần nữa khẳng định về quyền năng của
Người: “Thầy đã được toàn quyền trên trời dưới đất.”, đồng thời các môn đệ nhận
được lệnh sai đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân với Phép Rửa Ba Ngôi Thiên
Chúa, với lời hứa của Người: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con tạ ơn Chúa, đã ban cho Giáo Hội có những vị thừa sai
rao giảng Tin Mừng, mà hôm nay chúng con và gia đình chúng con được Rửa: “nhân
danh Chúa Cha, Chúa Chúa Con và Chúa Thánh Thần” để trở thành con cái của Chúa
trong phép Rửa Tội.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
27-05: Thánh AUGUSTINÔ CANTURBERY
Giám mục (+605)
Thánh Augustinô là tác
nhân của một con người vĩ đại hơn chính Ngài, đức giáo hoàng Grêgôriô Cả, trừ
các tu sĩ Ai Nhĩ Lan, hoạt động truyền giáo không hề được biết đến tại Giáo hội
Tây Pbương và chính Đức giáo hoàng Grêgôriô Cả làm sống lại phong trào này.
Khi làm bề trên tu viện
thánh ANRÊ, Ngài đã muốn sang truyền giáo tại Anh, nhưng vì được đắc cử giáo
hoàng, nên phải từ bỏ ý định. Nước Anh đã được đón nhận đức tin từ thế kỷ đầu,
nhưng rồi cuộc xâm chiếm của dân Saxon vào thế kỷ V và VI đã làm cho đức tin
công giáo bị phai mờ.
Dịp may đưa tới khi
Ethebert, tiểu vương miền Kent phía nam nước Anh thành hôn với người vợ công
giáo là công chúa Berthe và còn tiếp nhận một giám mục xứ Gaule vào triều đình.
Năm 596 Đức giáo hoàng Grêgoriô sai tới Anh quốc một tu sĩ, Augustinô lên đường
với 40 tu sĩ. Khi tới miền nam xứ Gaule họ bị khủng hoảng và sai Augstinô trở về
Rôma xin Đức giáo hoàng gọi họ trở về. Đáp lại, Đức giáo hoàng đã đặt Augustinô
làm Đan viện phụ và bắt mọi người trong nhóm phải vâng phục Ngài.
Với quyền hạn này,
Augustinô vẫn còn truyền giáo tới đảo Thanet. Thoạt đầu, Ethebert được rửa tội
và bàn định với Đức Giáo hoàng một dự án chuẩn bị tái lập toà Giám mục tự
Canterbury (Cantuariô) tới Lôn – Đôn (Luân Đôn) và thiết lập một giáo tỉnh khác
ở York.
Theo chỉ thị của Đức
Giáo hoàng, Augustinô đi Arles để thụ phong giám mục do tay Đức Tổng giám mục
Vigile, đại diện tòa thánh ở xứ Gaule, nhiều biến cố dù ngăn trở những dự tính
trên. Nhưng diễn tiến trong cuộc truyên giáo vẫn tiếp tục cho tới khi thánh
Augustinô qua đời khoảng năm 605.
Thất bại duy nhất của
thánh Augustinô khi Ngài tới nước Anh vì nỗ lực giải hoà với các Kitô hữu miền
Welsh nhằm thuyết phục họ nhận cách tính ngày lễ phục sinh của Roma, sửa lại
vài điều bất thường trong nghi lễ và phục quyền Ngài. Thánh Augustinô mời các vị
lãnh đạo Giáo hội Welsh tới họp, nhưng lại gây cảm giác bất lợi vì Ngài đã ngồi
yên khi họ tới gặp Ngài. Hình như việc này cũng làm cho thánh Bêđa mất thiện cảm
nữa.
Thánh Augustinô không
phải là một nhà truyền giáo anh hùng nhất, khéo léo nhất. Nhưng Ngài đã thực hiện
một công cuộc vĩ đại, là một trong số rất ít người ở Gaule và ở Ý thời đó sẵn
sàng tử bỏ mọi sự để ra đi rao giảng : Tin Mừng cho những miền xa xăm.
(daminhvn.net)
27 Tháng Năm
Thế Giới Trong Tăm Tối
Một cuốn phim mang
tựa đề: “Thế giới trong tăm tối” diễn tả câu chuyện một nhà khảo cổ danh tiếng
tổ chức cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem. Ngọn đồi Calvariô được cẩn thận
đào bới, kể cả những phiến đá và hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được
thăm dò, khám phá kỹ lưỡng, vì theo Phúc Ăm thánh Gioan, xác của Chúa Giesu được
chôn cất trong một phần mộ gần nơi ngài bị xử án tử hình thập tự.
Sau bao công khó
đào xới, khám sát, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông
Giêsu” và ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ với nhiều phóng viên và nhiếp ảnh
viên, dể trình bày thành quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào xới, khảo cứu vất vả.
Ông đã trưng dẫn trước mắt mọi người một xác đã khô đét, nhưng còn có thể nhận
ra tay chân của xác này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu, có cả những dấu chứng
tỏ thân xác này bị nhuộm máu qua những tấm khăn quấn liệm xác.
Cuốn phim quay cảnh
mọi người im lặng theo dõi lời thuyết trình của nhà khảo cổ, tình cờ có một phụ
nữ phát biểu lớn tiếng: “Ðây là một sự thật hiển nhiên: ông ta đã bị đóng đinh,
chết và được xác táng”. Và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, chết và được
an táng, nhưng… làm gì có chuyện phục sinh. Xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến cuốn phim
diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu của nhà khảo cổ này: không ai
còn mừng lễ Phục Sinh nữa, một vị linh mục tắt ngọn đèn chầu, cất Mình Thánh
Chúa và đóng cửa nguyện đường, chuông các nhà thờ im tiếng, các nữ tu cởi khăn
trùm đầu, thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống, đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
Bóng tối chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc
bằng cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông
ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới, chính tôi đã làm xác giả của ông
Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi tôi khởi sự đào bới tìm xác
Ngài”.
Sau lời tuyên bố đó
là cảnh hàng ngàn người tuôn đến mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến
hằng năm trong tuần thánh. Những ngọn nến được thắp lên và những tín hữu đã
mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng, đi khắp nơi để
soi sáng những con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin:
Chúa Giêsu đã Phục Sinh, tình yêu mạnh hơn hận thù, sự sống mạnh hơn cái chết.
Cuộc Phục Sinh của
Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài, nhưng nó cũng ảnh hưởng trực
tiếp đến vận mệnh của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc
sống, đến lòng tin và niềm hy vọng của chúng ta.
Chúng ta hãy chung lời
cầu nguyện cho nhau và với nhau để mỗi người trong chúng ta được cùng chết,
cùng an táng với Chúa Giêsu cho con người cũ ích kỷ và tội lỗi của chúng ta. Chết
thật sự để chúng ta cùng sống lại với Chúa Giêsu trong một con người hoàn toàn
mới, con người Phục Sinh.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét