25/05/2018
Thứ Sáu tuần 7 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm
II) Gc 5, 9-12
"Kìa quan toà
đã đứng trước cửa".
Trích thư của Thánh
Giacôbê Tông đồ.
Anh em đừng kêu trách
lẫn nhau, để khỏi bị lên án. Kìa quan toà đã đứng trước cửa. Anh em hãy học
gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã
nói nhân danh Chúa. Ðây chúng ta gọi những người đã kiên nhẫn đau khổ là có
phúc. Anh em đã nghe nói đến sự kiên nhẫn của Gióp và đã thấy kết cuộc Chúa
dành để cho ông, vì Chúa đầy lòng thương xót và lân mẫn.
Anh em thân mến, trước
hết, anh em đừng (có) thề, dầu viện trời, dầu viện đất hay viện một hình (vật
gì) khác. Lời nói anh em phải là: Có rằng có, không rằng không, để anh em khỏi
bị toà án luận phạt.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102, 1-2.
3-4. 8-9. 11-12.
Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng: 1) Linh hồn tôi
ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người.
Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. -
Ðáp.
2) Người đã tha thứ
cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi
khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.
3) Chúa là Ðấng từ bi
và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh
triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.
4) Nhưng cũng như trời
xanh cao vượt trên đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ
Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng
ta. - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! -
Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 10, 1-12
"Sự gì Thiên
Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến
địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông Giođan. Dân chúng lại tụ họp bên Người
và Người lại dạy dỗ họ như thường lệ. Những người biệt phát đến gần và hỏi thử
Người rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp:
"Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép
làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự
cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc
sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người
nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì
thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp,
loài người không thể phân rẽ".
Về đến nhà, các môn đệ
lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ
khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy
chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Mối giây bất khả phân ly
Tin Mừng hôm nay như
muốn đưa chúng ta về những trang đầu tiên của lịch sử nhân loại, trong đó Thiên
Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ để họ chung sống với nhau trong mối giây
bất khả phân ly của đời sống đôi lứa. Có thể nói, đó là gia đình đầu tiên của lịch
sử loài người. Chúa Giêsu đã nại đến sự kiện này để giải đáp vấn nạn của người
Biệt phái: "Người ta có được phép rẫy vợ không?", và như vậy một cách
nào đó, Ngài đã đề cập đến hôn nhân, đến giá trị và đòi hỏi của hôn nhân.
Trước hết, hôn nhân là
một sự tự do trao đổi yêu thương giữa người nam và người nữ, một sự cam kết sống
chung suốt đời. Chiếc nhẫn mà họ trao cho nhau trong ngày cưới là dấu chứng
tình yêu, và từ ngày đó mọi hành vi đi ngược với lời cam kết đều bị coi là ngoại
tình, bởi vì hôn nhân là do Thiên Chúa thiết lập và con người không thể phân ly
những gì Ngài đã kết hợp.
Hôn nhân còn là một cộng
đồng kết hợp hai tâm hồn và được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Hôn nhân là
giây tình yêu liên kết hai người phối ngẫu, và tình yêu này phản chiếu tình yêu
thần diệu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở: "Chồng
hãy yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và phó nộp mình đi".
Trong đời sống hôn nhân, hai người nương tựa vào nhau, bổ túc và tài bồi lẫn
nhau. Thiên Chúa thấy người nam ở một mình không tốt, Ngài đã dựng nên cho nó một
người nữ, rút từ cạnh sườn người nam, và người nam sẽ bỏ cha mẹ để nên một với
vợ mình, đó là hình ảnh của một tình yêu kết hợp. Nhờ tình yêu kết hợp trong
hôn nhân, người nam và người nữ sẵn sàng chấp nhận việc sinh dưỡng và giáo dục
con cái thành những đứa con ngoan của Thiên Chúa, của Giáo Hội, của gia đình và
xã hội.
Nhưng một cuộc hôn
nhân chỉ thành công khi người nam và người nữ thực tình yêu nhau, có sức hiến
thân cho nhau, sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách mà hoàn cảnh đè nặng trên con
người, trong tâm tình chúc tụng tạ ơn. Thật vậy, việc cam kết trước bàn thờ là
một lời khấn trọng thể, một lời hứa thánh thiêng đặt nền tảng trên tình yêu,
tình yêu mà Thánh giá là biểu hiện rõ nét nhất, tình yêu mà Chúa Kitô hiến mình
cho Giáo Hội đến cùng mức. Hôn nhân không phải luôn luôn là một khúc tình ca, một
cuộc ve vãn suốt đời, nhưng là một cuộc sống chung nhiều khi khó khăn. Do đó chỉ
có tình yêu đích thực khi đôi bạn có khả năng và muốn giữ lời gắn bó với nhau
cho đến chết. Những hy sinh từ bỏ, sự trung tín qua những thử thách, những lần
nhượng bộ, đều là bằng chứng của đức tin và sức mạnh nhận được từ Thánh Thần.
Chính vì những giá trị
cao đẹp của hôn nhân như thế, nên thái độ của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân thật
dứt khoát. Ngài xác định lại nền tảng thánh thiêng cũng như tính cách bất khả
phân ly của giây hôn phối. Ngài mạnh mẽ lên án tội dâm bôn ngoại tình, cả việc
rẫy vợ nữa, trừ phi là nố gian dâm, nhưng điều đó có lẽ không nhằm biện minh
cho việc ly dị, mà chỉ là đuổi người vợ bất chính, hoặc là ly thân rồi sau đó không
được tái hôn nữa. Như thế, chính nhờ Chúa Giêsu, hôn nhân đã được nâng lên hàng
Bí Tích và mặc một sắc thái mới phản ánh vẻ đẹp ban đầu đã bị lu mờ vì tội lỗi
nhân loại.
Chúng ta hãy cầu xin
cho các gia đình được luôn gắn bó với nhau trong tình yêu thương hợp nhất, để
làm chứng cho tình yêu duy nhất và vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 7 TN2
Bài đọc: Jam
5:9-12; Mk 10:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên nhẫn và trung thành
giữ lời hứa.
Càng ngày chúng ta càng chứng kiến những cảnh con người bất trung với Thiên
Chúa và phản bội lẫn nhau nhiều hơn: bỏ đạo, không thực hành đạo, hồi tục, ly dị,
ly thân, cha mẹ giết con, từ con, con cái giết cha mẹ. Có rất nhiều lý do đưa đến
những thảm cảnh này, nhưng hai lý do nổi bật là con người ngày nay không còn biết
kính sợ Thiên Chúa và hy sinh chịu đựng đau khổ.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật những lý do đưa tới sự phản bội và những đức
tính cần thiết để trung thành với Thiên Chúa và với nhau. Trong bài đọc I,
thánh Giacôbê nhấn mạnh tới đức tính kiên nhẫn để chịu đựng đau khổ để có thể sống
chung với nhau trong khi chờ đợi Ngày Chúa đến. Chịu đựng đau khổ là phương thức
cần thiết để con người chứng tỏ niềm tin yêu của họ dành cho Thiên Chúa và dành
cho nhau. Trong Phúc Âm, những người Pharisees muốn thử xem Chúa Giêsu có dạy
khác với luật của Moses về vấn đề ly dị. Chúa thẳng thắn trả lời họ Luật không
được ly dị là Luật bất khả phân ly của Thiên Chúa ngay từ đầu. Lý do ông Moses
cho phép ly dị là vì lòng chai dạ đá của con người, chứ không phải trong ý định
của Thiên Chúa. Nếu con người biết kính sợ Thiên Chúa, họ không bao giờ dám làm
chuyện này.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì Ngày Chúa quang lâm
đã gần tới.
1.1/ Phải chuẩn bị và luyện
tập nhân đức: Thánh Giacôbê dùng ví dụ của
nhà nông, trong khi chờ đợi mùa gặt hái, họ phải bón phân, tỉa cành, giết sâu bọ,
để cây có thể cho nhiều trái và hoa quả tốt tươi. Con người cũng thế, họ không
chỉ kiên nhẫn chờ đợi Ngày Chúa đến, nhưng còn phải kiên trì cầu nguyện và tập
luyện các nhân đức cần thiết. Thánh Giacôbê liệt kê những điều cần thiết phải
làm:
(1) Phải ăn ở thuận hòa: Con người thường có thói quen lấy mình làm tiêu chuẩn
để phán xét tha nhân, dù nhiều khi rất thiển cận và bất công. Cách tốt nhất để
giúp con người ăn ở thuận hòa là đừng bao giờ phán xét người khác khi không có
trách nhiệm, để rồi sẽ không bị phán xét bởi Thiên Chúa; vì chúng ta đong đấu
nào cho tha nhân, Thiên Chúa sẽ dùng đấu ấy mà xét xử chúng ta. Ngài khuyên các
tín hữu: "Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị
xét xử. Kìa vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa."
(2) Noi gương các ngôn sứ: "Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn,
anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa." Các
ngôn sứ không sợ chấp nhận hậu quả của việc nói sự thật, các ngài sẵn sàng chấp
nhận sự ghét bỏ và truy tố của con người. Hơn nữa, con người không dễ thay đổi,
các ngài phải kiên nhẫn chờ đợi để thay đổi và giúp con người làm hòa với Thiên
Chúa.
1.2/ Mục đích của đau khổ:
Tác giả nhắc lại câu truyện ông Job. Thiên
Chúa để Satan hành hạ ông mọi cách để xem ông có trung thành tin tưởng và yêu
thương Ngài không. Ông Job đã chiến thắng mưu kế của Satan và trung thành với
Thiên Chúa. Ngài đã thưởng công cho ông xứng đáng với lòng kiên trì. Hơn nữa,
theo thánh Giacôbê (1:2-4) và Phaolô (Rom 5:3-4), đau khổ còn rèn luyện con người
quen chịu đựng để trở nên thập toàn; không gì có thể làm lung lay đức tin của
người đã quen chịu đựng đau khổ.
Về việc thề hứa, Giacôbê lặp lại những lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ (Mt
5:33-37). Chúa Giêsu có cấm con người không được thề dưới bất cứ hoàn cảnh nào
không? Theo văn mạch, Ngài không cấm điều đó, nhưng nhấn mạnh tới việc con người
phải nói sự thật: Hễ "có" thì phải nói "có",
"không" thì phải nói "không;" thêm điều đặt chuyện là bởi
ma quỉ mà ra. Vì thế, khi con người nói “có” với Thiên Chúa hay với tha nhân,
con người phải giữ lời cho dẫu có phải hy sinh, và ngay cả thiệt hại tới tính mạng.
Với một người luôn trung tín với những gì mình nói, thề hứa là chuyện dư thừa.
Với những kẻ không trung tín với những gì mình nói, thề hứa cũng là chuyện dư
thừa, vì họ nói mà không làm.
2/ Phúc Âm: Vấn đề ly dị
2.1/ Yếu đuối của con người:
Có mấy người Pharisees đến gần Đức Giêsu và
hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?" Họ hỏi thế là
để thử Người.
(1) Luật của Moses: Chúa Giêsu hỏi: "Thế ông Moses đã truyền dạy các ông
điều gì?" Họ trả lời: "Ông Moses đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ."
Đức Giêsu nói rõ lý do có luật này của Moses:: "Chính vì các ông lòng chai
dạ đá, nên ông Moses mới viết điều răn đó cho các ông.''
(2) Tại sao Giáo Hội cho phép ly dị, nếu đó là Luật Thiên Chúa? Chúng ta cần
phân biệt hai điều: Thứ nhất, lý tưởng mà Thiên Chúa muốn con người đạt tới. Lý
tưởng này không bao giờ thay đổi; và thực tế cũng chứng minh nhiều người đã đạt
tới lý tưởng này. Nhiều cặp vợ chồng đã trung thành với nhau đến khi chết, dù
phải trải qua bao gian khổ. Thứ hai, yếu đuối và tội lỗi làm con người không đạt
tới lý tưởng của Thiên Chúa. Khi con người không đạt được lý tưởng, không có
nghĩa là lý tưởng của Thiên Chúa muốn không thể thực hiện được, hay Lề Luật của
Thiên Chúa sai; nhưng con người phải khiêm nhường thống hối vì yếu đuối tội lỗi
của mình. Hội Thánh gỡ dây hôn phối là vì những tội lỗi, yếu đuối, và cứng lòng
của con người.
2.2/ Những lý do để Giáo
Hội dùng tháo gỡ dây Hôn Phối: Có nhiều lý
do để gỡ; một cách tổng quát là con người không chịu học hỏi hay coi thường
Bí-tích Hôn Phối như:
- Cha mẹ ép buộc con cái phải lấy người chúng không muốn, vì cha mẹ tham quyền
cao, chức trọng, hay lợi nhuận vật chất. Trường hợp này, con cái thiếu tự do để
kết hôn.
- Con người kết hôn bừa bãi: Đa số trường hợp Giáo Hội giải quyết là trường hợp
"lack of form," có nghĩa: không kết hôn theo Lề Luật của Giáo Hội; vì
thế, không thành Bí-tích. Chẳng hạn, làm hôn thú giả vì muốn xuất ngoại, vì
tham tiền, hay vì bất cứ lý do nào khác.
- Vợ chồng không chịu tìm hiểu nhau kỹ lưỡng trước khi kết hôn: Lấy người đã có
gia đình, lấy người bị ngăn trở không được kết hôn, lấy người không cùng tôn
giáo.
- Vợ chồng không sống đức tin và không chịu lãnh nhận ơn thánh từ các bí-tích:
Làm sao có khôn ngoan, sức mạnh để vượt qua khó khăn trong cuộc sống?
- Con người không có sức chịu đau khổ: Trường hợp của những người bị người phối
ngẫu ly dị. Với ơn thánh, con người có thể vượt qua sự cô đơn và những đòi hỏi
của thân xác.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đau khổ không thể thiếu trong cuộc đời, vì chúng là phương tiện để chúng ta
chứng tỏ niềm tin yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa và cho tha nhân.
- Khi Thiên Chúa truyền chúng ta làm điều gì, Ngài biết chúng ta có khả năng
làm chuyện đó. Chúng ta cần phải tin tưởng và làm theo những gì Chúa dạy, tập
luyện để sống nhân đức, và tận dụng các ơn thánh Thiên Chúa ban qua các
bí-tích.
- Nếu chúng ta trung thành với Thiên Chúa, Ngài sẽ trung thành với chúng ta;
nhưng nếu chúng ta phản bội Ngài, Ngài cũng sẽ không nhận chúng ta trong Ngày
sau hết.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
25/05/2018 – THỨ SÁU TUẦN 7 TN
Th. Bêđa khả kính, linh mục, tiến sĩ HT
Mc 10,1-12
NÊN MỘT TRONG TÌNH YÊU
“Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con
người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,
và cả hai sẽ thành một xương một thịt.” (Mc 10,6-8)
Suy niệm: Nhà văn Nga I. Tourguéniev
tâm sự: “Tôi sẵn sàng đổi hết tài năng và tác phẩm của tôi để được cái thú êm đềm
biết rằng ở một nơi nào đó có một người đàn bà lo âu vì tôi về trễ.” Không gì hạnh
phúc cho bằng biết rằng mình được yêu, cũng như không có gì chua xót cho bằng từ
tình yêu chuyển thành thù hận. Hôm nay, Chúa Giê-su nhắc ta hai điều: 1/ Con
người cần có người bạn đời chung sống với mình (“sỏi đá cũng còn có nhau”, huống
gì con người !). 2/ Hai người nam nữ hợp nhất nên một, không phải chỉ nên một
trong thân xác, nhưng còn trong trách nhiệm, trong việc xây dựng hạnh phúc gia
đình… Nhờ vậy, vợ chồng vừa đem lại hạnh phúc cho nhau, vừa dìu nhau tiến về hạnh
phúc Nước Trời.
Mời Bạn: Nhớ rằng hôn nhân không phải
chỉ đem lại thú vui, mà còn mang đến trách nhiệm. Bạn chỉ tìm thấy niềm vui thật
sự khi nào bạn chu toàn trách nhiệm của mình trong gia đình.
Chia sẻ: Trong đời sống gia đình, tôi tìm thú vui riêng cho bản
thân, hay tôi quên mình để chăm lo hạnh phúc của những người thân?
Sống Lời Chúa: Làm một việc nhỏ để phục vụ,
giúp đỡ vợ, chồng, cha mẹ tôi.
Cầu nguyện: Lạy Cha nhân ái,
xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của Thánh Gia thất, từng
trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ. Xin Cha sai Thánh Thần tình yêu đem
đến hạnh phúc cho mọi gia đình trên mặt đất; xin cho chúng con nhớ hạnh phúc
luôn ở trong tầm tay từng người chúng con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Một
xương một
thịt (25.5.2018 – Thứ
Sáu Tuần 7 Thường
niên B)
Suy niệm:
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài
người không được phép
phân
ly.”
Lời của Đức
Giêsu đã vang vọng
qua hai mươi thế kỷ,
và vẫn thường được
chọn để in
trên
thiệp cưới.
Phải chăng người
ta ngầm nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có
trong từ điển của các đôi vợ chồng.
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu đã gia tăng đáng
kể.
Sống với nhau đến đầu bạc răng
long lại trở thành một
giấc mơ.
Có mấy người Pharisêu đến hỏi Đức
Giêsu
về chuyện chồng ly dị vợ.
Đức Giêsu hỏi
ngược họ xem ông Môsê đã truyền dạy thế nào (c. 3).
Những người Pharisêu trích
sách Đệ Nhị Luật (24, 1)
để cho thấy ông
Môsê cho phép viết
giấy ly dị và sau đó ly dị (c. 4).
Dĩ nhiên, cho phép không phải là
truyền dạy!
Đức Giêsu đã trích
sách Sáng Thế (2, 24)
để nhấn mạnh sự hiệp nhất vĩnh
viễn giữa đôi vợ chồng.
“Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác (c. 8),
mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động.
Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (c. 6)
và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên
Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 5).
Đức Giêsu mới là Đấng đến để hoàn
chỉnh Luật Môsê
và khai mở ý muốn
trọn vẹn của Thiên
Chúa về hôn
nhân.
Trong xã hội,
văn hóa và Do
Thái
giáo
thời Đức
Giêsu,
người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới.
Vì vợ là một
thứ tài sản thuộc sở hữu của người chồng,
nên thực tế chỉ vợ mới có thể phạm tội ngoại tình đối với chồng,
và chỉ người chồng mới có
quyền ly dị vợ.
Đức Giêsu không chấp nhận chuyện coi vợ như một món hàng,
mua về, thích thì dùng,
không
thích
thì bỏ đi.
Vợ đã trở nên xương
thịt của chồng, ngang hàng với chồng,
nên khi chồng
thiếu chung thủy với vợ, ly dị vợ mà cưới vợ khác
thì anh ta cũng phạm tội ngoại tình đối với vợ (c. 11).
Hôn nhân không phải
chỉ là
chuyện của hai người yêu
nhau và lấy nhau.
Trong Lễ Cưới có sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp.
Ngài tiếp tục bảo vệ tình
yêu, cả
khi hai người cùng
muốn chia tay.
Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng
mà hai bên được
phép xé bỏ
khi muốn.
Chung thủy mãi mãi là
chuyện khó đối với con người thời nay.
Khi thịnh vượng, lúc
gian nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu,
khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không
sao hàn gắn được,
khi đời sống vợ chồng thành
như hỏa ngục trần gian…
khi ấy người ta cần Thiên Chúa để tiếp tục yêu thương
và kính trọng nhau.
Xin bớt một chút ích kỷ tự ái,
thêm một chút khiêm hạ yêu thương,
bớt một chút tự do đam
mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
để gìn giữ tình nghĩa vợ chồng như quà tặng
mong manh của trời cao.
Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG NĂM
Giấc Mơ Xa Vời Bỗng
Thành Hiện Thực
Kể từ ngày Lễ Hiện Xuống,
cuộc giao hòa của tất cả các dân tộc trong Thiên Chúa không còn là một giấc mơ
xa xăm nữa. Cuộc giao hòa ấy đã trở thành hiện thực – và mở rộng không ngừng
theo nhịp lan rộng của Giáo Hội mang trong mình Tin Mừng cứu độ. Chúa Thánh Thần,
Đấng là Thần Khí tình yêu và hiệp nhất, hiện thực hóa mục tiêu của cuộc hiến
thân cứu chuộc của Đức Kitô – bằng cách qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác
về một mối.
Khi Thánh Thần hiệp nhất
mọi người trở thành Dân Thiên Chúa, có hai điều quan trọng được ghi nhận rõ
ràng. Bằng cách dẫn đưa người ta gắn kết với Đức Kitô, Thánh Thần đem họ vào
trong mối hiệp nhất của Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô. Như vậy, Thánh Thần
giao hòa con người với nhau trong tình huynh đệ – dù giữa họ có những nét khác
biệt về địa dư và về văn hóa. Nói cách khác, Thánh Thần làm cho Giáo Hội trở
thành một nguồn hiệp nhất và hòa giải. Hơn nữa, Chúa Thánh Thần hòa giải cả những
người bên ngoài Giáo Hội – bằng một cách nào đó. Ngài khơi lên trong mọi người
niềm khát vọng hiệp nhất sâu rộng hơn và Ngài thúc đẩy những cố gắng của người
ta để họ vượt qua những mối xung đột ngổn ngang vẫn còn phân rẽ thế giới.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 25/ 5
Thánh Bêđa Khả
kính, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
Thánh Grêgôriô VII,
Giáo hoàng
Thánh Maria
Madalêna Pazzi, trinh nữ
Gc 5, 9-12; Mc 10,
1-12.
Lời suy niệm: “Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và
hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?”
Ly dị và tái hôn sau ly dị là một vấn nạn của mọi thời đại, với con người,
không thể nào làm thỏa mãn được lòng người để xây dựng một gia đình hạnh phúc đầm
ấm và một xã hội an vui lành mạnh được. Chỉ có giáo huán của Chúa Giêsu: “Lúc
khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì
thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một
xương một thịt. Như vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được
phân ly.”
Lạy Chúa Giêsu, với điều Luật ly dị của Môsê, Chúa cho thấy có vấn đề lỏng lẽo
về đạo đức hôn nhân, cần phải hàn gắn và sửa đổi, vì với điều luật đó, nó thiếu
đi vấn đề bổn phận và trách nhiệm trong hôn nhân gia đình đối với: Thiên Chúa,
với người phối ngẫu và với con cái của họ. Xin cho mọi gia đình trong nhân loại
biết lắng nghe và tuân giữ giáo huấn của Chúa, đặc biệt là đối với các gia đình
Công Giáo.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 25-05: Thánh
BÊ-ĐA Đáng Kính
Linh mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (673 – 735)
Chính thánh Beđa kể
cho chúng ta biết mọi điều về cuộc đời thơ ấu của Ngài. Trong vài câu thêm vào
cuốn lịch sử Giáo hội, thánh nhân sinh năm 673 hay là 674. Tên Bêđa theo từ ngữ
Saxon có nghĩa là cầu nguyện. Cuộc sống của Ngài rất gương mẫu nên người ta
thêm cho Ngài biệt danh Vênêrabilê có nghĩa là khả kính. Lên bảy tuổi Ngài bị mồ
côi cha mẹ và được giao phó cho tu viện trưởng Bênêdictô Biscop săn sóc giáo dục.
Lúc 18 tuổi Ngài được thụ phong chức phó tế và năm 702 hay 703 tức là lúc 29 tuổi
Ngài được thụ phong linh mục.
Cuộc sống của Ngài
trong tu viện rất cực nhọc. Chúng ta có thể tóm lược cuộc sống ấy bằng chính lời
Ngài: – “Tôi đã sống trọn đời nỗ lực học hỏi kinh thánh và trong khi tuân thủ
luật dòng cũng như bổn phận hàng ngày và hát thánh ca tại nhà thờ, tôi sung sứơng
được học hành, dạy dỗ và viết lách”.
Đây quả là tổng hợp
chính xác trọn cuộc sống của thánh Bêđa, Ngài rất ít rời bỏ nhà dòng. Chúng ta
chỉ nghe biết có hai chuyện du hành của Ngài. Một lần Ngài đi thu tập tài liệu
về đời thánh Cuthbert, Ngài ở lại Lindisfanne và từ đó đến viếng Farne Islanol
để khảo sát những di tích trong căn phòng của vị thánh. Một lần khác, Ngài đến
York để thăm Đức tổng giám mục Egbert, và để quan sát các trường học nổi tiếng ở
đó.
Dạy học, thánh Bêna tỏ
ra là một bậc thầy lỗi lac. Ngài không quan tâm suy tư và ao ước được nổi bật.
Tài năng của Ngài là cố gắng không cùng để tự đào luyện mình rồi truyền thông
không phải chỉ có những gì mình đã học mà còn cả cảm thức về giá trị của điều
đã được hiểu biết, đặt tầm quan trọng của việc giảng dạy. Tuy nhiên chúng ta
không thể nói nhiều về điểm này. Nhưng các sách đủ loại Ngài viết đều là kiểu mẫu
trong việc trưng dẫn các tài liệu. Chính cách trình bày cẩn thận và điều độ và
gắng để được chính xác và đúng đắn làm cho các sách ấy có thế giá. Các tác phẩm
của thánh Bêda có thể xếp thành ba loại. Các bút tích về thần học của Ngài
chính yếu gồm những phần dẫn giải thánh kinh của một thầy dạy phần lớn dựa trên
các sách giáo phụ Tây phương. Dầu thiếu sự độc sáng trong cách trình bày, nhưng
những dẫn giải của thánh Bêda ngày nay còn là phương tiện tốt đẹp nhất để hiểu
về các giáo phụ.
Các tác phẩm về khoa học
của Ngài một phần là những giải thích cổ truyền về các hiện tượng tự nhiên, một
phần bàn về niên lịch và cách tính của Đông phương. Cách tính niên lịch của
Ngài kể từ thời Chúa Giêsu Giáng sinh đã được Kitô giáo Tây phương chấp nhận rộng
rãi hơn cả.
Các tác phẩm về lịch sử
của thánh nhân có lẽ ngày nay được nhớ tới nhiều hơn hết. Cuốn “Lịch sử Giáo hội
của dân Anh” là một trong những tác phẩm quan trọng nhất về lịch sử về thời đầu
Trung cổ. Ngài đã viết cách khách quan và phê phán cách quân bình, dựa trên những
tài liệu và nhân chứng đáng tin cậy, Ngài cũng viết một tiểu sữ về các tu viện ở
Wearmonth và thơ văn về cuộc đời thánh Cuthbert.
Kể từ năm 679, Ngài ở
hai tu viện Wearmonth và Jarrow, chăm chú thi hành bổn phận thuộc đời sống tu
trì và vẫn không ngừng viết lách và dạy học. Lời kinh ở cuối cuốn “Lịch sử Giáo
hội” trình bày lý tưởng của Ngài: – “Lạy Chúa Giêsu nhân từ, con khẩn cầu Chúa,
khi đã cho con được vui hưởng những lời khôn ngoan của Chúa thì xin Chúa cho
con một ngày kia được đến gần bên thánh nhan Chúa”.
Đương thời, không ai
nghi ngờ sự thánh thiện của thánh nhân, nhưng Ngài đã không làm một phép lạ,
không được một thị kiến và không mở ra một đường lối tu đức mới mẻ nào. Mùa hè
năm 735 vào tuổi 63, sức khỏe suy giảm, Ngài còn bị đau khổ bị bệnh suyễn. Dầu
vậy, Ngài vẫn làm việc đến giây phút cuối cùng, đọc cho thầy thơ ký hoàn tất cuốn
sách Chú giải Phúc âm thánh Gioan và 48 giờ cuối cùng trên giường bệnh. Đúng
ngày lễ Thăng thiên 27 tháng 5 năm 735, thánh Beda từ trần.
*********************
Ngày 25-05: Thánh GRÊGORIÔ VII
Ngày 25-05: Thánh GRÊGORIÔ VII
Giáo Hoàng (1028 –
1085)
Thánh Gregoriô hay là
Hildebrand theo tên rửa tội, sinh khoảng năm 1028. Gia đình Ngài không thuộc
dòng tộc quí phái và có thuộc gốc Do thái. Thấy con mình thông minh lại hiếu học,
thân phụ thánh nhân gởi Ngài tới thụ huấn với người chú là Tu viện trưởng Đức
Bà Maria ở Aventin, Hildebrand đã trở thành một tu sĩ dòng Bênêdictô.
Tuy nhiên khả năng đặc
biệt của Ngài đã sớm kéo Ngài ra khỏi hàng rào tu viện để phục vụ tại giáo triều.
Khi đắc cử giáo hoàng, trên đường về nhận chức, Đức Leo IX ghé qua Cluny và dẫn
theo thày dòng trẻ tuổi Hildebrand để làm cố vấn cho mình. Đức giáo hoàng đã
trao cho Ngài điều khiển tu viện thánh Phaolô và đặt làm hồng y. Đức giáo hoàng
Leo IX là vị tiên khởi trong cuộc cải cách Grêgoriô, danh hiệu dựa vào khuôn mặt
sáng giá nhất cuộc cải cách này, nhưng chính đức Leo là người khởi xướng.
Kể từ việc đề cử của Đức
Leo IX Hildebrand đã có ảnh hưởng lớn lao trong nhiều triều đại liên tiếp. Khi
được cử làm đặc sứ tại Pháp Đức Hồng y Hildebrand, đã chống lại nhiều tập tục xấu.
Trong hội đồng họp ở Tour, Ngài đã buộc Berenger từ bỏ những lầm lạc của mình.
Thế là chính Ngài đã giữ phần quyết định trong cuộc tranh luận về bí tích Thánh
Thể giữa Lanfranc và Berenger. Ngài ủng hộ giáo thuyết về sự biến thể của
Lanfranc nhưng cũng giảm bớt sức đối kháng để trình bày cách mầu nhiệm hơn.
Dưới ảnh hưởng của Đức
hồng y Hildebrand, chức giáo hoàng ngày càng nghịch với hoàng đế hơn. Một liên
minh hình thành với nhiều nhà cai trị ở miền nam nước Ý chống lại các Hoàng đế
nhà Hohenstanen. Đức giáo hoàng nâng đỡ phong trào quần chúng chống lại hoàng đế
ở Milanô nhưng tâm điểm đường lối chính trị của tòa thánh được diễn tả trong việc
chọn lựa Đức Giáo hoàng, dành riêng cho hồng y đoàn. Nói cách khác, ảnh hưởng của
hoàng để bị rút lại, nếu không nói là bị hủy bỏ. Năm 1073 dưới ảnh hưởng đã trở
nên lớn mạnh, Đức Hồng y Hildebrand đắc cử giáo hoàng với hiệu Gregoriô VII.
Tình hình Giáo hội lúc
này thật đáng buồn với nhiều thảm trạng đang diễn ra. Đích thân giáo hoàng thấy
rõ những điều đó, sống khắc khổ như một thày dòng, Ngài đã sáng ngời như mặt trời
chiếu dãi vào ngôi nhà Giáo hội. Đầy uy quyền trong lời nói và việc làm, Ngài
đã nỗ lực tái lập kỷ lục truyền bá đức tin, diệt trừ các lỗi lầm. Nhất là Ngài
được chống lại hoàng đế Henri IV nước Đức. Ông hoàng này ham mê khoái lạc và
tham lam, đã dám bán quyền giám mục và các chức vụ trong Giáo hội cho những người
bất xứng.
Năm 1075, Đức Gregoriô
VII đã tuyên bố phạt mọi người ở bất cứ địa vị nào dám dùng tiền để mua bán chức
thánh. Với tình phụ tử, Ngài cảnh cáo hoàng đế Henri IV và các lạm quyền của
ông. Tức giận ông bắt cóc Đức Giáo hoàng đang khi Ngài làm lễ và giam ngục.
Nhưng rồi dưới áp lực của dân Roma, ông phải thả Ngài ra. Đức giáo hoàng đã tha
thứ cho ông. Tuy nhiên nhà vua vẫn ngoan cố. Năm 1076, ông triệu tập một số
giám mục rồi đặt Gnibert de Ravenna làm giáo hoàng. Đức Gregoriô VII liền ra vạ
tuyệt thông Henri IV. Hối hận và sợ các quan bất phục, Henri IV lo giữ ngôi bằng
cách đến Canossa làm việc đền tội.
Ngày 28 tháng giêng
năm 1077, Đức giáo hoàng giải vạ cho ông.
Một thời gian sau
Henri IV lại trở mặt, ông cầm quân sang Roma để bắt Đức Giáo hoàng. Nhưng Đức
Gregoriô đã kịp thời rút lui về Sôlerna và qua đời tại đây năm 1085. Trước khi
qua đời Ngài đã nói: – Ta yêu mến điều công chính và chê ghét sự gian tà nên mới
phải chết ở chốn lưu đày này.
Người ta đã nói tới cuộc
cải cách thời Gregoriô. Phải nhận đinh rằng ý tưởng của Ngài rất cao thượng,
Ngài quan niệm hàng giáo sĩ được đặt ra ngoài mọi người khác bởi phép truyền chức
thánh làm thành một cộng đoàn siêu nhiên ấn định bởi quyền ban bí tích và được
cai quản bởi đấng kế vị thánh Phêrô. Họ phải sống xứng đáng với phận vụ thiêng
liêng, Ngài nhiệt hành ủng hộ luật độc thân của giáo sĩ và chống lại mọi thứ
buôn thần bán thánh.
Ngài cũng nỗ lực diệt
trừ mọi can thiệp vào việc chọn giám mục, nhất là sự can thiệp của hoàng đế. Dầu
không thành công trong việc này, nhưng chắc chắn đã làm thay đổi thái độ của mọi
người đối với Giáo hội.
Sau khi đã từ trần, lý
tưởng canh tân Giáo hội của Ngài mới rõ rệt hơn, sắc bén hơn và tiến gần tới hiện
thực hơn.
*********************
Ngày 25-05: Thánh MARIA MADALENA ĐỆ PAZZI
Ngày 25-05: Thánh MARIA MADALENA ĐỆ PAZZI
(1566 – 1607)
Thánh Maria Madalena
Pazzi sinh năm 1566 tại Florence. Khi rửa tội Ngài được đặt tên là Catarina.
Ngay từ nhỏ, Ngài đã ham thích cầu nguyện và làm việc lành. Muốn cho Ngài vui
thích, cứ việc đọc cho Ngài nghe truyện các thánh hay là dẫn Ngài tới nhà thờ.
Lên 7 tuổi lòng thương
người của Ngài đã tiến xa tới độ nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo. Có dịp về miền
quê, niềm vui chính của Ngài là tập họp trẻ em lại để dạy giáo lý cho chúng. Một
lần kia, khi mới bắt dầu dạy đạo cho một em bé con một nông dân, thì Ngài phải
báo cho biết là phải trở về Florence. Ngài đã buồn rầu đến độ không cầm được nước
mắt, Cha Ngài chỉ có thể an ủi Ngài bằng cách dẫn em bé ấy về để dạy cho xong.
Thánh nữ có lòng sùng
kính phép Thánh thể một cách đặc biệt. Lên 10 tuổi, tức là năm 1576, Ngài được
rước lễ lầ đầu. Dịp này, Ngài đã khấn dâng mình trọn vẹn cho Chúa. Năm 13 tuổi
Ngài còn tự ý làm một mão gai để đội đầu mỗi khi đi ngủ để cảm thông với cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Đến 16 tuổi, Catarina
đã ao ước được gia nhập dòng Carmêlô. Sau một thời gian luỡng lự, cuối cùng cha
mẹ Ngài đã chấp nhận, Catarina vào dòng ngày 14 tháng 8 năm 1582 và ngay 30
tháng giêng năm 1583, được mặc áo dòng với danh hiệu Maria Madalena. Cuộc đời
Ngài là một phép lạ liên tục. Một cơn bệnh xâu xé Ngài. Có nữ tu hỏi thánh nữ
xem bí mật nào đã giúp Ngài nhẫn nại chịu đựng như vậy, chỉ vào cây thánh giá
Ngài trả lời: – Hãy xem điều Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc tôi. Những ai nhớ tới
những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng những đau khổ của mình lên Thiên Chúa, họ
chỉ còn thấy êm ái đối với những gì mình phải chịu mà thôi.
Đau đớn vì bệnh hoạn,
thánh nữ lại hay xuất thần. Những yếu tố ấy đều góp phần xây dựng đời sống
thánh thiện của Ngài. Dù suốt năm năm liền kể từ tháng 6 năm 1585, Ngài đã phải
trải qua một cuộc thử thách dữ dằn, Thiên Chúa cho Ngài thấy sự dữ đang diễn ra
trong Giáo hội, những xúc phạm do hàng giáo sĩ và do các giám mục gây nên. Các
tu sĩ trong cộng đoàn vấp phạm vì những khuyến cáo Ngài trình lên Đức gíao
hoàng và các đức giám mục để thực hiện cuộc canh tân. Sự nghi ngờ của họ trở
thành sự khinh bỉ, khi thánh nữ chịu cơn thử thách khủng khiếp này, là thấy
mình bị Thiên Chúa bỏ rơi. Thêm vào đó, Ngài còn bị cám dỗ trở nên kiêu căng thất
vọng.
Dầu vậy, ý chí của
Ngài bám chặt vào Chúa không ngơi, Ngài chỉ còn biết rên rỉ: – Tôi không hiểu
mình có còn trí khôn nữa không. Tôi không thấy mình còn có gì đáng kể ngoài một
chút thiện chí là không bao giờ dám xúc phạm đến Thiên Chúa.
Nhưng nhìn lên thánh
giá Ngài thêm phấn khởi: – Đừng chết, nhưng chớ gì được chịu đau khổ mãi.
Bị cám dỗ quá, Ngài
gieo mình vào bụi gai, bình thường Ngài hãm mình kinh khủng và thường mặc áo nhặm.
Năm năm bão tố trôi
qua nhằm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong khi hát kinh tạ ơn, Maria Madalena
đã bỗng xuất thần và thưa với bề trên trong niềm vui mừng: – Bão tố qua rồi,
xin hãy giúp con cảm tạ Chúa tạo thành khả ái.
Từ đây Ngài chỉ còn ước
muốn vô cùng là được làm việc để tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn.
Ngài luôn tìm kết hiệp với thánh ý Chúa. Thánh Thần đọc cho Ngài những ý tưởng
thâm sâu và hai chị thơ ký đã ghi thành một pho sách được các người nhân đức và
thông thái ở Ý chuẩn nhận.
Với nhiệt tình, Ngài
đã nguyện hy sinh không muốn biết đến một sự dịu ngọt nào nữa. Khi làm phó bề
trên, Ngài bị tật bệnh dày vò lại còn mất ơn an ủi, cha linh hướng tìm cách an ủi,
nhưng Ngài nói: – Không, đó không phải là thứ an ủi con tìm kiếm. Con chỉ ước
mong được đau khổ đến lúc cuối đời. Khi sắp từ trần thánh nữ nói:
– Tôi sắp từ giã mà
không hiểu tại sao một thụ tạo lại quyết tâm phạm tội chống lại Chúa tạo thành
được.
Với các nữ tu vây quanh,
Ngài nói những lời sau cùng: – Tôi sắp từ giã các chị để đi vào vĩnh cửu, tôi
xin các chị như là một ân huệ cuối cùng là chỉ yêu mến một mình Chúa, đăt trọn
niềm hy vọng nơi Ngài và chịu đựng tất cả vì tình yêu Ngài.
Thánh nữ từ trần ngày
25 tháng 5 năm 1607. Thân xác Ngài vẫn còn nguyên vẹn cho tới ngày nay.
(daminhvn.net)
25 Tháng Năm
Cái Bật Lửa
Ðể kỷ niệm một trận
chiến, một quận công bên Anh Quốc đã làm một bữa tiệc khoản đãi một nhóm cựu sĩ
quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông.
Tong bữa tiệc, ông
dem kho một cái bật lửa rất đẹp mà Nữ hoàng Anh đã tặng cho ông. Cái bật lửa đã
được truyền từ tay người này đến tay người nọ để được trầm trồ khen ngợi.
Sau bữa ăn, mọi người
được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công mới đem thuốc lá ra mời mọi
người. Nhưng mặt ông bỗng biến sắc, vì ông lục lạo mãi trong túi áo mà vẫn
không tìm ra cái bật lửa. Ông hỏi quan khách có ai thấy nó ở đâu không. Mọi người
chia nhau đi tìm khắp nơi mà tuyệt nhiên vẫn không thấy cái bật lửa. Lúc bấy giờ,
một viên sĩ quan mới đề nghị cho tất cả mọi quan khách nên lật túi áo của mình
ra may ra mới có thể tìm thấy nó chăng. Lần lượt tất cả mọi người đều kéo tất cả
những gì có trong túi áo của mình ra. Duy chỉ có một người không chịu chấp nhận
công việc này. Mọi người đều đưa mắt nhìn về ông và ai cũng đoán chắc đây là
người đã đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của ông tiều tụy, áo quần của ông
lại rách rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ quan để thề thốt và dứt khóat
không mở túi áo ra cho mọi người xem.
Vài tuần lễ sau,
ông quận công lại mở một bữa tiệc khác và lần này, ông khám phá ra cái bật lửa
trong túi áo của ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho một viên sĩ quan đã từng
chiến đấu bên cạnh mình, ông quận công đã quyết định đến thăm anh ta để xin lỗi.
Nhà của viên cựu sĩ
quan này nằm trong khu phố lầy lội nghèo nàn. Sau khi đã xin lỗi, ông quận công
đã hỏi viên sĩ quan: “Tại sao trong bữa tiệc hôm đó, anh đã khước từ không mở
túi ra cho mọi người xem?”.
Anh ta mới giải
thích như sau: “Hẳn ngài đã thấy được căn nhà tôi đang ở tồi tàn như thế nào. Từ
lâu, tôi đã thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn trong nhà. Ngài đâu có
biết rằng hôm đó, tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ ăn thừa trên bàn để
mang về cho vợ con tôi”.
Sau khi hiểu được
hoàn cảnh đáng thương của một người đã từng vào sinh ra tử với mình, ông quận
công quyết định đền bù bằng cách tìm cho viên cựu sĩ quan một công việc xứng
đáng.
Câu chuyện đáng thương
tâm trên đây có lẽ cũng diễn ra trong cuộc sống chúng ta dưới nhiều cấp độ và
hình thức khác nhau. Nhưng tựu trung, có lẽ mẫu số chung của câu chuyện ấy thường
giống nhau: đó là chúng dễ nhìn và đoán xét người theo bề ngoài. Lại nữa, một
xã hội có quá nhiều lừa gạt đảo điên cũng khiến cho chúng ta có thái độ e dè,
nghi kỵ đối với những người thân thuộc.
Là tín hữu, chúng ta
hãy nhìn ngắm cung cách cư xử của Chúa Giêsu. Ngài không nhìn người bằng nhãn
hiệu có sẵn. Ngài không đến với người bằng những định kiến. Bên kia bộ quần áo
sang trọng hay rách rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy hình ảnh cao quý của chính
Thiên Chúa. Ngài dành yêu thương cho những người nghèo khổ, phường thu thuế, bọn
gái điếm, những kẻ tội lỗi, những ngwòi con bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài muốn
cho mọi người thấy rằng Ngài chỉ có một cái nhìn duy nhất về con người: đó là
cái nhìn của cảm thông, của tha thứ, của yêu thương.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét