19/04/2014
Lễ Phục Sinh
Thứ Bảy Tuần Thánh (Lễ
Ðêm)
Ðêm Thánh Vọng Chúa Phục
Sinh
(Ðề
nghị đọc chín bài đọc, bảy bài Trích ở Cựu Ước và hai bài trích ở Tân Ước. Nếu
hoàn cảnh không cho phép, và khi có lý do đặc biệt, có thể bớt số bài đọc.
Nhưng phải đọc ít là ba bài trích ở Cựu Ước trước Thánh Thư và Tin Mừng; còn nếu
gấp quá, thì đọc ít là hai bài đọc trước Thánh Thư và Tin Mừng. Nhưng không khi
nào được bỏ bài trích sách Xuất Hành (Xh 14, 15 - 15, 1) nói về việc qua Biển Ðỏ.)
Bài
Ðọc I: St 1, 1 - 2, 2 {hoặc 1,
1. 26-31a}
"Thiên
Chúa thấy mọi sự Người đã làm thật là tốt đẹp".
Trích
sách Sáng Thế.
Từ
nguyên thuỷ Thiên Chúa đã tạo thành trời đất. Ðất còn hoang vu trống rỗng, tối
tăm bao trùm vực thẳm, và thần trí Thiên Chúa bay sà trên mặt nước.
Thiên
Chúa phán: "Hãy có ánh sáng". Và có ánh sáng. Thiên Chúa thấy ánh
sáng tốt đẹp, Người phân rẽ ánh sáng khỏi tối tăm. Thiên Chúa gọi ánh sáng là
ngày, tối tăm là đêm. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
Thiên
Chúa phán: "Hãy có một vòm trời ở giữa nước, phân rẽ nước với nước";
và Thiên Chúa làm nên vòm trời, và phân rẽ nước phía dưới vòm trời với nước
phía trên vòm trời. Và xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là trời. Qua một
buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.
Thiên
Chúa phán: "Nước dưới trời hãy tụ lại một nơi, để lộ ra chỗ khô cạn. Và đã
xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ khô cạn là đất, và Người gọi khối nước là biển.
Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: "Ðất hãy trổ sinh thảo mộc
xanh tươi mang hạt giống; và cây ăn trái phát sinh trái theo giống nó, và trong
trái có hạt giống, trên mặt đất. Và đã xảy ra như vậy. Tức thì đất sản xuất thảo
mộc xanh tươi mang hạt theo giống nó, và cây phát sinh trái trong có hạt tuỳ
theo loại nó. Và Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi
sáng: đó là ngày thứ ba.
Thiên
Chúa còn phán: "Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày
và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm
trời và giãi sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên
hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm
chủ ban đêm; Và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời
để soi sáng trên mặt đất, và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối
tăm. Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là
ngày thứ tư.
Thiên
Chúa lại phán: "Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát, và loài chim bay
trên mặt đất, dưới vòm trời. Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật
sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống.
Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy
sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt
đất". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.
Thiên
Chúa lại phán: "Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc,
loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại". Và đã xảy ra như vậy. Thiên
Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc, và mọi loài bò sát dưới
đất tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán:
"Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm
chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển
trên mặt đất".
Vậy
Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa, Chúa tạo thành con người
giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ.
Thiên
Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy mặt
đất, và thống trị nó; hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di
chuyển trên mặt đất". Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm
thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh
trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi
loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất".
Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một
buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
Thế
là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa
đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm,
thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi.
Ðó
là lời Chúa.
Hoặc
bài vắn này: St 1, 1. 26-31a
Trích
sách Sáng Thế.
Từ
nguyên thuỷ Thiên Chúa đã tạo thành trời đất. Và Thiên Chúa phán: "Chúng
ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển,
chim trời, dã thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất".
Vậy
Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa, Chúa tạo thành con người
giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ.
Thiên
Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều, đầy mặt
đất, và thống trị nó; hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di
chuyển trên mặt đất". Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm
thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh
trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi
loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất".
Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 32, 4-5. 6-7. 12-13. 20 và 22
Ðáp: Ðịa cầu đầy
ân sủng Chúa (c. 5b).
Xướng:
1) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu
chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
2)
Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng
Người. Chúa thu nước biển lại như để trong bầu, Người đặt những ngọn sóng trong
kho chứa đựng.- Ðáp.
3)
Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng
mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái loài người.
- Ðáp.
4)
Linh hồn chúng tôi mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng
tôi. - Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin
cậy ở nơi Ngài. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: St 22, 1-18 (Bài
dài)
"Của
lễ hiến tế của Abraham, Tổ phụ chúng ta".
Trích
sách Sáng Thế.
Trong
những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham,
Abraham". Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy
đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ
dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi". Sáng ngày,
Abraham dậy sớm, thắng lừa và đem theo hai đứa đầy tớ của ông, cùng với Isaác
con ông, ông chẻ củi dùng vào lễ thượng hiến, đoạn ông lên đường đến chỗ Thiên
Chúa đã tỏ cho ông.
Ngày
thứ ba, Abraham ngước mắt lên và thấy chỗ ấy từ đàng xa. Abraham mới bảo tôi tớ:
"Các anh ở lại đây với con lừa; còn ta và đứa trẻ, chúng ta phải đi tới đằng
kia mà thờ lạy, rồi chúng tôi sẽ về lại với các anh". Abraham lấy củi lễ
thượng hiến và cho Isaác vác đi, còn ông thì cầm lấy lửa và dao phay, rồi cả
hai cùng bước. Isaác cất tiếng nói với Abraham cha cậu rằng: "Cha!"
Ông đáp: "Ta đây, con!" Cậu hỏi: "Này đây đã có lửa và củi, vậy
hy sinh thượng hiến ở đâu?" Abraham đáp: "Chính Thiên Chúa sẽ tự liệu
ra hy sinh thượng hiến, con ạ". Rồi cả hai cùng bước.
Khi
hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi
trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế
con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham!
Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết
con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi
không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy
sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó
và tế lễ thay cho con mình. Chỗ ấy Abraham gọi tên là "Thiên Chúa sẽ liệu",
khiến ngày nay người ta còn nói: "Trên núi Thiên Chúa sẽ liệu".
Thiên
thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì
ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho
Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi. Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao
trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi
dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời
Ta".
Ðó
là lời Chúa.
Hoặc
đọc bài vắn này: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18
Trích
sách Sáng Thế.
Trong
những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham".
Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa
con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ
toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi".
Khi
hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi
trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế
con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham!
Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết
con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi
không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy
sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó
và tế lễ thay cho con mình.
Thiên
thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì
ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho
Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi. Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao
trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi
dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời
Ta".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 15, 5 và 8. 9-10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, xin
bảo toàn con, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1a).
Xướng:
1) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của
con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ
không nao núng. - Ðáp.
2)
Bởi thế, lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của
con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng
không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. - Ðáp.
3)
Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên
nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Bài
Ðọc III: Xh 14, 15 - 15, 1
"Con
cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn".
Trích
sách Xuất Hành.
Trong
những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Có gì mà kêu đến Ta? Hãy bảo con
cái Israel cứ lên đường. Còn ngươi, đưa gậy lên, và giơ tay trên biển, hãy phân
rẽ biển ra, cho con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Còn Ta, Ta sẽ làm
cho lòng người Ai-cập ra chai đá, chúng sẽ rượt theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta
sẽ tỏ vinh quang cho Pharaon, toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy
biết. Người Ai-cập sẽ biết Ta là Chúa khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon, chiến
xa và kỵ binh của vua ấy biết".
Sứ
thần Thiên Chúa thường đi trước hàng ngũ Israel, liền bỏ trở lại sau họ. Cột
mây thường đi phía trước, cũng theo sứ thần trở lại phía sau, đứng giữa hàng
ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel. Và đám mây thường soi sáng ban đêm trở thành mù
mịt, đến nỗi suốt đêm, hai bên không thể tới gần được. Môsê giơ tay trên biển,
thì bằng một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, Chúa dồn biển lui và làm cho biển
khô cạn. Nước rẽ ra và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước dựng
lên như bức thành hai bên tả hữu.
Người
Ai-cập đuổi theo, toàn thể binh mã của Pharaon, chiến xa và kỵ binh đi theo sau
Israel vào giữa lòng biển. Lúc gần sáng, qua cột mây lửa, Chúa nhìn xuống hàng
ngũ Ai-cập, gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người lật đổ bánh xe, khiến xe
tiến tới thật vất vả. Người Ai-cập nói: "Ta hãy chạy trốn Israel, vì Chúa
chiến đấu giúp họ, chống chúng ta".
Chúa
phán bảo Môsê: "Hãy giơ tay trên biển để nước trở lại vùi dập người Ai-cập,
chiến xa và kỵ binh của chúng". Môsê giơ tay trên biển, và lúc tảng sáng,
biển trở lại như cũ. Người Ai-cập chạy trốn, gặp ngay nước biển ập lại. Chúa xô
chúng ngã giữa lòng biển. Nước trở lại, vùi dập chiến xa và kỵ binh. Toàn thể
quân lực của Pharaon đã theo dân Israel xuống biển, không còn tên nào sống sót.
Còn con cái Israel đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước dựng như bức thành hai
bên tả hữu. Ngày đó Chúa cứu Israel khỏi tay Ai-cập. Và họ thấy xác người Ai-cập
trôi dạt đầy bờ, và thấy cánh tay oai hùng của Thiên Chúa đè bẹp Ai-cập. Toàn
dân kính sợ Chúa, tin vào Chúa và vào Môsê tôi tớ người.
Bấy
giờ Môsê cùng với con cái Israel hát mừng Chúa bài ca này:
(Không
đọc: Ðó là lời Chúa).
Ðáp
Ca: Xh 15, 1-2. 3-4. 5-6. 17-18
Ðáp: Tôi sẽ ca tụng
Chúa, vì Người uy linh cao cả (c. 1a).
Xướng:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả. Người đã ném ngựa và người xuống
biển khơi. Chúa là sức mạnh và là khúc ca của tôi, chính Người đã cho tôi được
cứu thoát. Người là Thiên Chúa tôi, tôi sẽ tôn vinh Người; Người là Chúa tổ phụ
tôi, tôi sẽ hát ca mừng Chúa. - Ðáp.
2)
Chúa như là người chiến sĩ, danh thánh Người thật toàn năng. Người đã ném xe cộ
và đạo binh của Pharaon xuống biển, và dìm xuống Biển Ðỏ các tướng lãnh của
ông. - Ðáp.
3)
Các vực thẳm đã chôn sống họ, họ rơi xuống đáy biển như tảng đá to. Lạy Chúa,
tay hữu Chúa biểu dương sức mạnh; lạy Chúa, tay hữu Chúa đánh tan quân thù. -
Ðáp.
4)
Chúa đem con cái Israel trồng trên núi gia nghiệp Chúa, nơi vững chắc Chúa làm
nơi cư ngụ, ôi lạy Chúa, là cung thánh tay Chúa đã lập nên; Chúa sẽ thống trị
muôn đời muôn kiếp. - Ðáp.
Bài
Ðọc IV: Is 54, 5-14
"Trong
tình yêu vĩnh cửu, Chúa Cứu Chuộc đã xót thương ngươi".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Ðấng
đã tạo thành ngươi thống trị ngươi, danh Người là Chúa các cơ binh, Ðấng Cứu
Chuộc ngươi là Ðấng Thánh Israel, Người sẽ được tôn xưng là Thiên Chúa khắp địa
cầu.
Thiên
Chúa ngươi đã phán: "Chúa gọi ngươi như gọi người thiếu phụ bị bỏ rơi và sầu
muộn, và như người vợ bị bỏ rơi lúc còn xuân xanh. Trong một thời gian ngắn, Ta
đã bỏ ngươi, nhưng Ta sẽ lấy lượng từ bi cao cả mà tụ họp ngươi lại. Trong lúc
nóng giận, Ta tạm ẩn mặt Ta, nhưng vì lòng nhân từ vô biên, Ta thương xót
ngươi, Chúa là Ðấng cứu chuộc ngươi đã phán như vậy.
Cũng
như trong thời Noe, Ta đã thề rằng nước lụt Noe sẽ không tràn ngập đất nữa, thì
Ta cũng đã thề rằng Ta sẽ không giận ngươi, không quở trách ngươi nữa.
Dù
núi có dời, đồi có di chuyển, tình yêu của Ta đối với ngươi không thay đổi, và
giao ước bình an của Ta cũng sẽ không lay chuyển, Chúa nhân từ của ngươi đã
phán như vậy.
Hỡi
thành vô phúc, bị bão táp tàn phá và không ai an ủi, này đây Ta sẽ sắp xếp các
viên đá của ngươi cho trật tự, sẽ đặt nền móng ngươi trên ngọc thạch, sẽ lấy đá
hồng xây cửa đồn ngươi, sẽ lấy thuỷ tinh làm cửa thành ngươi, sẽ dùng đá quý
xây tường thành ngươi.
Tất
cả con cái ngươi sẽ được Chúa dạy bảo, chúng sẽ vui hưởng một nền hoà bình lâu
dài. Ngươi sẽ đứng vững trong công lý, và xa mọi đàn áp, ngươi sẽ không còn sợ,
và sống xa mọi khủng bố, vì sẽ không có ai hãm hại được ngươi nữa".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11 và 12a và 13b
Ðáp: Lạy Chúa, con
ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ
về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi
số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2)
Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì
cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có
suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ.-
Ðáp.
3)
Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp
con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; lạy Chúa là Thiên
Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Bài
Ðọc V: Is 55, 1-11
"Hãy
đến cùng Ta và hồn các ngươi sẽ được sống.
Ta
sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Ðây
Chúa phán: Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền
bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền,
không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không
dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ và
các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mĩ vị.
Hãy
lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với
các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Ðavít: Ðây Ta đặt
ngươi làm nhân chứng cho các dân, làm tướng lãnh tôn sư cho các dân tộc. Này
ngươi sẽ kêu gọi dân mà trước ngươi không biết, và các dân trước chưa biết
ngươi, sẽ chạy đến cùng ngươi, vì Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng Thánh
Israel, bởi vì Chúa làm cho ngươi được hiển vinh.
Hãy
tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác,
hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về
với Chúa, thì Người sẽ thương xót, hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa
rộng lòng tha thứ. Vì tư tưởng Ta không phải tư tưởng các ngươi, và đường lối các
ngươi không phải đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế
nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt
trên tư tưởng các ngươi thể ấy.
Như
mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất,
làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người
ta có cơm bánh ăn; cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà
không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ
thác.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6
Ðáp: Các ngươi sẽ
hân hoan múc nước nơi suối Ðấng Cứu Ðộ (c. 3).
Xướng:
1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không
khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi
phần rỗi. - Ðáp.
2)
Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người, hãy công bố cho các dân biết kỳ công của
Chúa, hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang. - Ðáp.
3)
Hãy ca tụng, vì Người làm nên những việc kỳ diệu, hãy cao rao việc đó trên khắp
hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng
Thánh Israel ở giữa ngươi. - Ðáp.
Bài
Ðọc VI: Br 3, 9-15. 32 - 4, 4
"Ngươi
hãy đi trong đường ánh sáng của Chúa".
Trích
sách Tiên tri Barúc.
Hỡi
Israel, hãy nghe các giới răn ban sự sống; hãy lắng tai nghe để hiểu biết sự
khôn ngoan.
Hỡi
Israel, bởi đâu ngươi ở trong đất nước quân thù, ngươi mòn mỏi trên đất khách,
nhiễm lây nhơ bẩn của người chết, bị liệt vào kẻ phải xuống địa ngục? Ngươi đã
lìa bỏ nguồn khôn ngoan. Vì chưng nếu ngươi theo đường lối Chúa, thì ngươi đã
luôn sống trong bình an. Ngươi hãy học xem đâu là sự khôn ngoan, đâu là sức mạnh,
đâu là sự thông hiểu, để ngươi cũng hiểu biết đâu là trường thọ và sự sống, đâu
là ánh sáng con mắt và bình an. Ai là người sẽ tìm được nơi cư ngụ của sự khôn
ngoan, ai đi vào trong kho tàng của nó? Chính Ðấng thấu suốt mọi sự, Người biết
nó: Người thấu suốt nó do đức khôn ngoan của Người.
Người
là Ðấng đã an bài vũ trụ đến muôn đời, và cho các gia súc và các thú bốn chân sống
đầy mặt đất. Người sai ánh sáng đi thì nó đi, gọi nó lại thì nó run sợ vâng lời
Người. Các ngôi sao ở vị trí mình mà chiếu sáng và đều vui mừng. Người gọi
chúng thì chúng trả lời rằng: "Có mặt". Chúng vui mừng chiếu sáng trước
mặt Ðấng sáng tạo chúng.
Người
là Thiên Chúa chúng ta, và không có chúa nào khác sánh được với Người. Người đã
biết mọi đường lối khôn ngoan, đã ban nó cho Giacóp tôi tớ Người và cho Israel
kẻ người yêu mến. Sau đó, Người xuất hiện trên mặt đất và sống giữa loài người.
Ðó
là sách ghi các giới răn Chúa và lề luật tồn tại muôn đời, tất cả những ai tuân
giữ lề luật thì được sống, còn ai bỏ thì phải chết. Hỡi Giacóp, hãy trở về và nắm
giữ lề luật; hãy nhờ ánh sáng của Người mà tiến đến sự huy hoàng của Người. Ðừng
trao vinh quang ngươi cho kẻ khác, cũng đừng trao đặc ân ngươi cho dân ngoại. Hỡi
Israel, chúng ta có phúc, vì chúng ta đã được biết những gì là đẹp lòng Chúa.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa,
Chúa có lời ban sự sống đời đời (Ga 6, 69).
Xướng:
1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ
dốt. - Ðáp.
2)
Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng
soi con mắt. - Ðáp.
3)
Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực,
công minh hết thảy. - Ðáp.
4)
Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật
chảy từ tàng ong. - Ðáp.
Bài
Ðọc VII: Ed 36, 16-17a. 18-28
"Ta
sẽ đổ trên các ngươi nước trong sạch và sẽ ban cho các ngươi quả tim mới".
Trích
sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây
lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, khi dân Israel cư ngụ trên đất
mình, họ đã làm dơ bẩn đất ấy bằng đời sống và việc làm của họ. Và Ta đã nổi giận
họ, vì họ đã đổ máu trên phần đất ấy, và vì các thần tượng họ thờ làm dơ bẩn phần
đất ấy. Ta đã phân tán họ đi khắp các dân tộc, và cho họ sống rải rác trong các
nước; Ta đã xét xử theo đời sống và việc làm của họ. Họ đã đi đến các dân tộc
và ở đó họ xúc phạm thánh danh Ta, vì thiên hạ nói về họ rằng: "Này là dân
của Chúa, họ bị đuổi ra khỏi đất của Người". Và Ta đã thương hại thánh
danh Ta mà nhà Israel đã xúc phạm nơi các dân tộc họ đến cư ngụ.
Vì
thế, ngươi hãy nói với nhà Israel rằng: "Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: Hỡi
nhà Israel, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, nhưng vì thánh danh Ta đã
bị các ngươi xúc phạm nơi các dân tộc mà các ngươi đi đến cư ngụ. Ta sẽ thánh
hoá danh cao cả Ta đã bị xúc phạm giữa các dân tộc, nơi mà các ngươi đã xúc phạm
danh thánh Ta, để các dân tộc biết Ta là Chúa, Thiên Chúa các đạo binh phán,
khi Ta tự thánh hoá nơi các ngươi trước mặt họ.
Ta
sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi từ các nước, và dẫn dắt
các ngươi trên đất các ngươi. Ta sẽ dùng nước trong sạch mà rảy trên các ngươi,
và các ngươi sẽ được rửa sạch mọi vết nhơ. Ta sẽ thanh tẩy các ngươi sạch mọi vết
nhơ các bụt thần.
Ta
sẽ ban cho các ngươi quả tim mới, đặt giữa các ngươi một thần trí mới, cất khỏi
xác các ngươi quả tim bằng đá và ban cho các ngươi quả tim bằng thịt. Ta đặt thần
trí Ta giữa các ngươi, làm cho các ngươi thực thi các huấn lệnh Ta, làm cho các
ngươi tuân giữ và thực hành các lề luật Ta. Các ngươi sẽ cư ngụ trong xứ Ta đã
ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ là dân Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa
các ngươi".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 41, 3. 5bcd; Tv 42, 3. 4
Ðáp: Như nai rừng
khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi! (c. 41, 2)
Xướng:
1) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống: ngày nào con được tìm về ra mắt
Chúa Trời? - Ðáp.
2)
Tôi nhớ lúc xưa đi giữa muôn người, tôi đứng đầu đưa dân tiến vào nhà Ðức Chúa
Trời, giữa muôn tiếng reo mừng, ca ngợi.- Ðáp.
3)
Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn
con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4)
Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ
mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con.
- Ðáp.
Hoặc
(khi có Rửa tội): Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19
Ðáp: Ôi lạy Chúa,
xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).
Xướng:
1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương
nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh
Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
2)
Xin Chúa lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng
con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với
Ngài. - Ðáp.
3)
Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng.
Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng
tan nát, khiêm cung. - Ðáp.
Bài
Ðọc Thánh Thư: Rm 6, 3-11
"Chúa
Kitô, một khi tự trong cõi chết sống lại, Người không chết nữa".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã
chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với
Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển
của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời
sống mới như thế.
Vì
nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết
của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống
như vậy. Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ
giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi
nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi.
Mà
nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống
với Người, vì biết rằng Ðức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết
nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần
dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em
cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho
Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Ðáp: Alleluia,
alleluia, alleluia.
Xướng:
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà
Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.
2)
Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi
không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3)
Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó
đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Ðáp.
Phúc
Âm Năm A: Mt 28, 1-10
"Ngài
đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Qua
chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna
và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ
trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp
và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như
chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: "Các bà đừng sợ.
Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì
Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người
và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ
Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Ðây Ta đã báo trước cho các
bà hay".
Hai
bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ
Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà".
Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo:
"Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi
ở đó, họ sẽ gặp Ta".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Chúng
Ta Ðang Ði Trong Sự Sống Mới
Rm
6,3-11; Mt 28,1-10
Chúng
ta không thể ghi nhớ mọi lời Kinh Thánh đã nghe trong Phụng vụ đêm nay. Càng
không thể đúc kết được quá nhiều giáo lý sâu xa như vậy. Nhưng chúng ta phải thấy
rõ mình đang đứng ở chỗ nào và trong trạng thái nào để cử hành mầu nhiệm Chúa
Phục sinh.
A.
Chúng Ta Ðang Ði Trong Sự Sống Mới
Bài
thư Phaolô xác định vị trí và hoàn cảnh của chúng ta hiện nay. Chúng ta đã chịu
phép Rửa trong Ðức Kitô, đã cùng chịu mai táng với Người trong sự chết cho tội
lỗi, thì bây giờ chúng ta đang đi trong sự sống mới.
Quả
thật, Phụng vụ đêm nay đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Lúc đầu khi vào nhà thờ,
chúng ta như bị dìm trong bóng tối sự chết. Nhưng rồi ánh sáng Ðức Kitô đã bừng
lên, dẫn chúng ta vào Nước ánh sáng huyền diệu của Người để tất cả chúng ta trở
nên con cái sự sáng, chan hòa ánh sáng mới mẻ của mầu nhiệm Phục sinh.
Rồi
chúng ta cũng đã dần dần được soi sáng trong tâm trí. Các bài Cựu Ước từ từ mạc
khải cho chúng ta con đường lịch sử cứu độ, để chúng ta thấy nhân loại đã được
Chúa dẫn dắt đi vào con đường mỗi ngày một sáng.
Nhất
là qua nghi lễ Rửa tội và tuyên lại lời hứa của Bí tích Thánh tẩy, chính chúng
ta đã quyết tâm nhờ ơn Chúa từ bỏ nếp sống cũ kỹ tối tăm đi vào sự sống ân sủng
và chân lý của Con Thiên Chúa.
Bài
thư Rôma đúc kết mọi tư tưởng trên và cho chúng ta thấy rõ nền tảng của tình trạng
hiện nay của chúng ta. Chúng ta được như vậy là vì đã đồng hóa với sự chết của
Ðức Kitô, đã đóng đinh xác thịt vào Thập giá của Người, đã chết cho tội lỗi
trong sự mai táng của Người: chính việc kết hợp với Ðức Kitô nhờ lòng tin cậy mến
biến chúng ta nên những con người khác thường. Bề ngoài chúng ta như tất cả mọi
người; nhưng giờ đây tin Ðức Kitô và liên kết với Người, chúng ta đã cùng Người
ra khỏi quyền lực sự chết và hưởng ánh sáng mới của sự sống phục sinh. Tất cả
thân phận chúng ta tùy thuộc vào niềm tin và ý chí kết hợp đó. Ra khỏi bầu khí
đức tin hiện tại và rời khỏi tình liên kết mật thiết với Ðức Kitô, chúng ta lại
trở thành phàm nhân trần tục. Mà bầu khí đức tin và tình liên kết này không giả
tạo. Nó căn cứ trên ý chí dứt khoát của chúng ta đã từ bỏ tối tăm tội lỗi và lựa
chọn đi vào Nước ánh sáng thánh thiện của Con Thiên Chúa. Nó tồn tại mãi mãi
trong đời sống của chúng ta, bao lâu trong thực hành chúng ta vẫn từ khước tội
lỗi và chạy theo sự thánh thiện. Và chúng ta chỉ sẵn lòng và phấn khởi làm như
vậy khi chúng ta tin mãnh liệt vào việc Chúa sống lại. Thế nên chúng ta luôn cần
suy nghĩ về sự kiện này.
B.
Mầu Nhiệm Chúa Phục Sinh
Bài
Tin Mừng Matthêô bề ngoài như muốn thuật lại việc Chúa sống lại. Nhưng đọc kỹ,
chúng ta chỉ thấy những sự việc trước và sau khi Chúa sống lại. Còn chính sự kiện
Chúa Phục sinh là một mầu nhiệm, vượt ra ngoài sự hiểu biết khả giác vì chẳng
ai đã thấy Chúa sống lại lúc nào và như thế nào. Matthêô chỉ thuật truyện
"như" đã xem thấy mà thôi. Ông kể: sáng sớm Ngày thứ nhất trong tuần
hai bà đã thấy mộ trống. Nhưng ông đã lợi dụng lúc hai bà đang đi trên đường đi
để hình dung việc Chúa sống lại theo các hình ảnh quen thuộc trong Cựu Ước. Nói
đúng hơn, ông dùng lối văn hiển linh để diễn tả việc Thiên Chúa Phục sinh Ðức
Kitô. Trước hết phải có động đất để báo hiệu có hiển linh, tức là có việc Thiên
Chúa can thiệp mạnh mẽ vào đời sống nơi dương gian. Rồi đến chính sự hiển linh,
tức là hành động của Thiên Chúa: Thần sứ Người từ trời xuống, vần tảng đá ra,
ngồi lên trên nó trong trạng thái bá chủ hoàn toàn. Rồi những nét tả về Khuôn mặt
và Y phục cũng chỉ lấy lại mọi hình ảnh quen thuộc của các cuộc hiển linh.
Thành
ra, Matthêô đã không mô tả việc Ðức Kitô sống lại. Ông chỉ diễn tả niềm niềm
tin Thiên Chúa đã phục sinh Người bằng những hình ảnh quen thuộc của các cuộc
hiển linh. Ông cũng không quên nói đến tác động của những cảnh tượng như thế
nơi con người, ông viết: bọn lính canh mộ khiếp sợ và ra như chết. Nhưng có thể
nói đó chỉ là những điều mà Matthêô đã suy diễn từ niềm tin vào mầu nhiệm Phục
sinh và diễn tả theo lối văn hiển linh. Thật sự ông đã thấy gì?
Ông
đã thấy hai bà ra viếng mộ. Và tới nơi họ thấy mồ trống. Họ chẳng hiểu gì và muốn
được giải thích. Lúc đó thần sứ Chúa đã bảo họ hãy nhớ lại Lời Người đã nói, đã
hứa sẽ sống lại và đi đón họ ở Galilê. Matthêô đã tâm lý khi mô tả họ vội vã bỏ
mồ, vừa sợ vừa vui, chạy về báo tin cho môn đệ. Họ sợ vì gặp chuyện quá sức
không ngờ; nhưng lại vui vì niềm tin vào Lời Chúa đã nhóm lên ở trong lòng. Và
để khẳng định niềm tin chắc chắn của mình vào việc Chúa sống lại, Matthêô kể
thêm chuyện Chúa hiện ra với hai bà và việc hai bà thờ lạy Người.
Như
vậy, Matthêô đã cố gắng truyền đạt niềm tin của mình vào việc Chúa sống lại.
Ông căn cứ vào sự kiện mồ trống và vào việc Chúa hiện ra với các phụ nữ. Ðó
không phải là chính việc Chúa phục sinh, nhưng chỉ là những sự kiện làm chứng
cho Lời Người đã nói sẽ sống lại và sẽ đi đón môn đệ ở Galilê. Chính Lời Thánh
Kinh giúp các môn đệ hiểu sự kiện mồ trống và việc Chúa hiện ra. Niềm tin vào
việc Chúa phục sinh cuối cùng vẫn tựa vào lời tiên tri vậy.
Ðến
lượt chúng ta phải tin và truyền đạt niềm tin vào việc Chúa phục sinh. Chúng ta
đã tin rồi. Và niềm tin ấy căn cứ vào chứng từ của các Tông đồ khiến chúng ta
tin vào Lời Chúa. Thì đến lượt chúng ta cũng chỉ truyền đạt được niềm tin nếu
chứng từ của chúng ta khiến người ta tin vào Sách Thánh. Ở nhà thờ này, tham dự
thánh lễ này, chúng ta là những người tin. Và hôm nay đặc biệt tin Chúa đã phục
sinh . Ra khỏi buổi lễ phụng vụ ở đây, chúng ta phải truyền đạt niềm tin ấy bằng
chứng từ của đời sống. Thế mà theo thư Phaolô, muốn làm chứng Ðức Kitô đã phục
sinh, chúng ta phải nhận thức mình đã chết cho tội lỗi và đang sống cho Thiên
Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Thánh lễ này đang mang chúng ta vào trong Ðức Yêsu
Kitô để chúng ta nên một với Người hầu chúng ta sẽ luôn sống cho Thiên Chúa. Cầu
chúc anh chị em dự lễ sốt sắng để thật sự từ nay sống mới mẻ trong Ðức Yêsu
Kitô phục sinh.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần Thánh, Vọng
Phục Sinh
Bài đọc: Gen 1:1-2:2; Exo
14:15-15:1; Isa 54:5-14; Isa 55:1-11; Eze 36:16-28; Rom 6:3-11; Mk 16:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lịch sử Cứu Độ của
Thiên Chúa
Thiên
Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa duy nhất trong vũ trụ này. Sự kiện Ngài cho Con
của Ngài, Đức Giêsu Kitô, từ cõi chết sống lại một lần nữa chứng tỏ điều này.
Nhìn lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ và điều khiển
muôn loài. Ngài đã chọn Israel như dân riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời.
Ngài trung thành trong những gì Ngài đã hứa với con người cho dù con người đã
phản bội Ngài. Ngài luôn tìm cách để cứu độ con người qua biến cố Xuất Hành,
qua việc giải phóng và cho dân hồi hương từ các nơi lưu đày. Nhưng sự kiện nổi
bật nhất trong lịch sử cứu độ là gởi Đấng Thiên Sai tới mang lấy thân xác con
người để chuộc tội cho mọi người. Đấng Thiên Sai đã trải qua cuộc khổ nạn và sống
lại vinh quang là trọng tâm của Mầu Nhiệm Phục Sinh chúng ta cử hành đêm nay.
Trong
phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn các tín hữu nhìn lại lịch sử Cứu
Độ của Thiên Chúa, bắt đầu với việc tạo dựng vũ trụ và con người, và kết thúc bằng
biến cố Phục Sinh của Đức Kitô. Nơi nào hòan cảnh cho phép, Giáo Hội khuyến
khích đọc cả 7 bài; nơi nào hòan cảnh không cho phép, phải đọc đọc 3 bài: Biến
cố Xuất Hành, ý nghĩa của Bí-tích Rửa Tội trong Thư Rôma, và Biến cố Phục Sinh
theo Marcô. Thông thường, các giáo xứ đọc 5 bài: trình thuật tạo dựng trong Sáng
Thế Ký, trình thuật tái tạo một quả tim mới và thần khí mới của tiên tri
Ezekiel, và 3 bài phải đọc. Hai bài từ Sách Isaiah về sự trung thành yêu thương
của Thiên Chúa, và những gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai tới, cho
những nơi có hòan cảnh đọc cả 7 bài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Thiên
Chúa sáng tạo trời đất và mọi lòai trong đó.
Trình
thuật tạo dựng này rất quan trọng cho những ai đang muốn tước quyền sống của
thai nhi, người già cả, và các bệnh nhân phải chịu bệnh lâu ngày. Con người
không có quyền trên sự sống, họ được trao quyền để bảo vệ sự sống mà thôi.
Lương thực Thiên Chúa dựng nên không bao giờ cạn, vì các hạt giống đều có tiềm
năng sinh nhiều hạt giống khác, chim trời không ngừng đẻ trứng, cá biển mang những
buồng trứng khổng lồ, súc vật cũng có khả năng sinh sôi nẩy nở vô số. Vì thế,
Thiên Chúa cũng truyền cho con người phải sinh sản cho đầy mặt đất. Con người
không được nhân danh thiếu đồ ăn để tước đi quyền sống của bất cứ ai.
(1)
Ngày thứ nhất, Thiên Chúa dựng nên ánh sáng và bóng tối: “Lúc khởi đầu,
Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối
bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa
phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh
sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng
là "ngày," bóng tối là "đêm." Qua một buổi chiều và một buổi
sáng: đó là ngày thứ nhất.
(2)
Ngày thứ hai, Thiên Chúa dựng nên trời: “Thiên Chúa phán: "Phải có một cái vòm ở giữa
khối nước, để phân rẽ nước với nước." Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân
rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi vòm
đó là "trời." Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ
hai.”
(3)
Ngày thứ ba, Thiên Chúa dựng nên đất và các lòai thảo mộc: “Thiên Chúa phán:
"Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có
như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất," khối nước tụ lại là
"biển." Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa phán: "Đất phải
sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra
trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo
mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống
tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi
sáng: đó là ngày thứ ba.”
(4)
Ngày thứ tư, Thiên Chúa dựng nên mặt trời, mặt trăng, và các tinh thể trên vòm
trời: “Thiên
Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với
đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng
trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra
hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để
điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng
trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ
ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một
buổi sáng: đó là ngày thứ tư.”
(5)
Ngày thứ năm, Thiên Chúa dựng nên chim trời, cá biển: “Thiên Chúa phán:
"Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay
lượn trên mặt đất, dưới vòm trời." Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng
lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống
chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc
cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải
sinh sản cho nhiều trên mặt đất." Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó
là ngày thứ năm.”
(6)
Ngày thứ sáu, Thiên Chúa dựng nên thú vật và con người.
-
Tạo dựng thú vật: “Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ
theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới
đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
-
Tạo dựng con người: Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo
hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời,
gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." Thiên Chúa
sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc
lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều,
cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi
giống vật bò trên mặt đất." Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho các
ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang
hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời
và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh
tươi để làm lương thực. Liền có như vậy." Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã
làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ
sáu.
(7)
Ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi: “Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất.
Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi
công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.”
2/
Bài đọc II: Israel
thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập.
Cuộc
xuất hành của Israel ra khỏi Ai-cập: Sau khi ông Giuse qua đời, vị vua mới,
Pharaoh, lên ngôi. Ông không còn nhớ gì tới công ơn của Giuse; nhưng hành hạ
người Do-thái sống trên đất Ai-cập, bắt họ sống kiếp nô lệ cho người Ai-cập.
Dân chúng kêu cầu lên Thiên Chúa, và Ngài đã chọn ông Moses và Aaron để cứu dân
thóat khỏi tay người Ai-cập.
(1)
Kế họach cứu độ dân được mặc khải cho ông Moses: “Đức Chúa phán với
ông Moses: "Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ nhổ trại.
Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô
ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Israel đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng
người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ
vang hiển hách khi đánh bại Pharaoh cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh
của vua ấy. Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang
hiển hách vì đã đánh bại Pharaoh cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy."
(2)
Dân Israel đi qua Biển Đỏ ráo chân: Để thóat khỏi đất Ai-cập, dân chúng phải vượt Biển Đỏ.
Làm sao dân chúng có thể vượt biển mà không có thuyền bè, nhất là cho một đám
đông dân Do-thái như vậy? Thiên Chúa làm rẽ nước biển làm hai, dựng đứng như
hai bức tường thành để dân Ngài đi qua: “Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước
hàng ngũ Israel, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà
đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel. Bên kia,
mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm
không xáp lại gần nhau được. Ông Moses giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một
cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn.
Nước rẽ ra, và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như
tường thành hai bên tả hữu.”
(3)
Chúa tiêu hủy toàn bộ quân đội của Pharaoh trong Biển Đỏ: Thấy dân Do-thái đi
qua Biển Đỏ. “Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của
Pharao tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Israel. Vào lúc gần sáng, từ cột lửa
và mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ
chúng. Người làm cho chiến xa kẹt bánh khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi.
Quân Ai-cập bảo nhau: "Ta phải trốn bọn Israel, vì Đức Chúa chiến đấu chống
lại người Ai-cập để giúp họ."”
Đức
Chúa phán với ông Moses: "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên
quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng." Ông Moses giơ tay
trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy
trốn thì gặp nước biển, Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập xuống,
vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pharaoh đã theo dân
Israel đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót.”
(4)
Dân Israel nhận ra quyền lực của Thiên Chúa và tin vào Ngài: “Con cái Israel đã
đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. Ngày
đó, Đức Chúa đã cứu Israel khỏi tay quân Ai-cập. Israel thấy quân Ai-cập phơi
thây trên bờ biển. Israel thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập.
Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Moses, tôi trung của
Người. Bấy giờ ông Moses cùng với con cái Israel hát mừng Đức Chúa bài ca sau
đây. Họ ca rằng: "Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng
chiến mã, Người xô xuống đại dương.””
3/
Bài đọc III: Thiên
Chúa trung thành yêu thương dân Ngài đến muôn đời.
3.1/
Tình nghĩa chồng vợ giữa Thiên Chúa và Israel:
-
Thiên Chúa được ví như người chồng: “Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt
chính là Đấng đã tác thành ngươi, tôn danh Người là Đức Chúa các đạo binh; Đấng
chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Israel, tước hiệu Người là Thiên Chúa
toàn cõi đất.”
-
Israel được ví như người vợ bất trung: “Phải, Đức Chúa đã gọi ngươi về, như người
đàn bà bị ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn. "Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai
mà rẫy cho đành?" Thiên Chúa ngươi phán như vậy. Trong một thời gian ngắn,
Ta đã ruồng bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp.
Lúc lửa giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì
tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót, Đức Chúa, Đấng cứu chuộc
ngươi, phán như vậy.”
3.2/
Tình yêu Thiên Chúa với Israel sẽ bền vững muôn đời.
-
Chúa đánh phạt rồi Ngài lại xót thương: “Ta cũng sẽ làm như thời Noah: lúc đó,
Ta đã thề rằng hồng thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa, cũng vậy, nay Ta thề sẽ
không còn nổi giận và hăm doạ ngươi đâu. Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có
lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của
Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy.”
-
Ngài sẽ cho dân về để tái thiết thành Jerusalem: “Hỡi thành đô khốn đốn, ba
chìm bảy nổi, không người ủi an! Này, đá của ngươi, Ta lấy phẩm màu tô điểm, nền
móng ngươi, Ta đặt trên lam ngọc, lỗ châu mai tường thành, Ta xây bằng hồng ngọc,
các cửa thành ngươi, bằng pha lê, tường trong luỹ ngoài, toàn đá quý.”
-
Ngài sẽ bảo vệ con cái của Israel: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ, chúng sẽ
được vui hưởng thái bình. Nền tảng vững bền của ngươi sẽ là đức công chính;
ngươi sẽ thoát khỏi áp bức, không còn phải sợ chi, sẽ thoát khỏi kinh hoàng, vì
kinh hoàng sẽ không đến gần ngươi nữa.”
4/
Bài đọc IV: Những
gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai tới.
4.1/
Lời tiên đóan về Bí-tích Thánh Thể: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn
đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải
trả đồng nào. Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công vất vả vào
thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được
ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe
thì các ngươi sẽ được sống.”
4.2/
Lời tiên đóan về giao ước mới: Giòng dõi David sẽ làm vua cai trị dân Người.
(1)
Giao ước mới và vĩnh cửu: “Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân
nghĩa với David. Này, Ta đã đặt David làm nhân chứng cho các dân, làm thủ lãnh
chỉ huy các nước. Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân tộc ngươi không quen biết; một
dân tộc không quen biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, vì Đức Thánh của Israel đã làm cho ngươi được vinh hiển.”
-
Người sẽ là Vua của các dân tộc, chứ không phải chỉ là Vua của Israel mà thôi.
(2)
Kêu gọi dân trở về với Thiên Chúa: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người
lúc Người ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất
lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa - và Người sẽ xót
thương - về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.”
4.3/
Sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người:
(1)
Về tư tưởng và đường lối họat động: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của
các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta - sấm ngôn của
Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối
các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.”
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.”
(2)
Hiệu quả của Lời Chúa: “Cũng
như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho
người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ
không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa
chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
5/
Bài đọc V: Ta
sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi.
5.1/
Israel đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng: Tiên tri Ezekiel và
dân tộc Israel phải sống trong các nơi lưu đày vì tội lỗi của họ đã xúc phạm đến
Thiên Chúa. Sống trong nơi lưu đày, Thiên Chúa kêu gọi họ hãy bỏ đàng tội lỗi
và quay về với Lề Luật của Thiên Chúa; nhưng họ đã không nghe: cuộc sống của họ
nơi đất khách quê người càng làm ô danh Thiên Chúa và làm cho đất đai, nơi họ
đang sinh sống, ra ô uế.
Tiên
tri Ezekiel tường thuật những gì Thiên Chúa phán với ngài: “Có lời Đức Chúa
phán với tôi rằng: Hỡi con người, con cái nhà Israel đang cư ngụ trên đất của
chúng, đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng; lối sống
của chúng trước mặt Ta cũng ô uế như người đàn bà trong thời kinh nguyệt. Ta đã
trút xuống trên chúng cơn thịnh nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và
làm cho đất ấy ra ô uế vì các việc ô uế của chúng. Ta đã tung chúng đi các dân
và gieo chúng vào các nước. Ta đã căn cứ vào lối sống và các hành vi của chúng
mà xét xử. Chúng đã làm cho Danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến,
khiến người ta nói về chúng rằng: "Đó là dân của Đức Chúa, chúng đã phải
ra khỏi xứ của Người." Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Israel
xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến.”
5.2/
Vì Danh Thánh, Thiên Chúa sẽ thanh tẩy dân Ngài: “Vì thế, ngươi hãy nói với nhà
Israel: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Israel, không phải vì các
ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa
các dân các ngươi đã đi đến.
Ta
sẽ biểu dương Danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh
mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là
Đức Chúa - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng - khi Ta biểu dương sự thánh
thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng.” Ba điều Thiên Chúa sẽ làm cho
Israel:
(1)
Cho dân Israel hồi hương: “Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các
ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi.”
(2)
Thanh tẩy dân chúng: “Rồi
Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các
ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả
tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi
thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần
trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh
chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.”
(3)
Ngài sẽ nối lại mối liên hệ với Israel: “Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên
các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.”
6/
Bài đọc VI: Nếu
chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.
6.1/
Ý nghĩa của Bí tích Rửa Tội: Thánh Phaolô nhấn mạnh đến hai chiều kích của Bí-tích:
(1)
Chiều đi xuống là dìm mình trong cái chết của Đức Kitô: “Anh em không biết
rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là
chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái
chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người.”
(2)
Chiều đi lên là cùng được sống lại vinh hiển với Người: “Bởi thế, cũng như
Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì
chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với
Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người,
nhờ được sống lại như Người đã sống lại.”
6.2/
Làm thế nào để sống đức tin của Bí tích Rửa Tội?
(1)
Phải từ bỏ con người cũ và nếp sống tội lỗi: “Chúng ta biết rằng: con người
cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người
do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi
nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.”
(2)
Phải mặc lấy Đức Kitô và sống đời sống mới cho Thiên Chúa (nhân đức và ân sủng):
“Nếu chúng ta đã
cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của
chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết,
thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người.
Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống
cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi,
nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.”
7/
Phúc Âm: Người
đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa.
7.1/
Lối suy nghĩ của con người: Các bà này là những người đã chứng kiến cuộc tử nạn, tháo đanh,
và táng xác Chúa Giêsu trong hang đá. Khi táng xác, các bà không kịp ướp xác
Chúa, vì là ngày Sabbath; nên các bà nóng lòng chờ đến ngày hôm sau để ra mộ ướp
xác Ngài. Truyền thống Do-thái tin: người chết mà không được ướp xác là điều xỉ
nhục.
(1)
Chuẩn bị ướp xác Chúa: “Vừa
hết ngày Sabbath, bà Maria Magdala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê,
mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần,
lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.”
(2)
Nỗi lo sợ không đủ sức để lăn tảng đá khỏi cửa mộ: Các tông đồ đã bỏ
trốn cả vì sợ người Do-thái. Các bà có thể đi lại dễ dàng, nhưng không thể tìm
một người đàn ông để giúp mình lăn tảng đá ra khỏi mộ, vì là một tảng đá nặng.
Đang khi đi đường, các bà bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm
ta đây?" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi,
mà tảng đá ấy lớn lắm.
7.2/
Tin Mừng Phục Sinh: Các
bà không thể hiểu “từ cõi chết sống lại có nghĩa gì;” vì truyền thống Do-thái
tin chết là hết. Các bà không thể tin Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
(1)
Thiên thần cắt nghĩa cho các bà: “Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi
bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói:
"Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazareth, Đấng bị đóng đinh chứ gì!
Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!” Đã không
thấy xác Chúa, lại còn gặp một thanh niên lạ mặt, các bà còn hỏang sợ hơn nữa.
Làm sao có thể tin những lời thanh niên này nói? Nhưng vì quá sợ, nên các bà
không dám hỏi. Có lẽ các bà nghĩ như Maria trong trình thuật Gioan: chắc ông
này đã lấy xác Chúa!
(2)
Các tông đồ sẽ được nhìn thấy Chúa tại Galilee: Người thanh niên nói tiếp: “Xin
các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilee trước các
ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông."
-
Phản ứng của các bà: “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn
hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa thật; Ngài có uy quyền dựng nên tất cả,
giải thoát dân khỏi mọi nguy hiểm, và trung thành yêu thương chúng ta đến cùng.
-
Thiên Chúa dựng nên con người với một mục đích là cho con người được chung hưởng
vinh quang với Ngài sau cuộc đời trên dương thế này.
-
Vì Đức Kitô đã chịu chết và sống lại vinh hiển, cho nên, nếu chúng ta đã cùng
chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng được sống lại vinh hiển với Người.
-
Chúng ta phải cố gắng để đạt tới đích điểm là chung hưởng cuộc sống vinh quang
với Thiên Chúa trên thiên đàng.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
19/04/14 THỨ BẢY TUẦN THÁNH
CHÚA CHẾT
Người gục đầu xuống và trao
thần khí. (Ga 19,30)
Mời Bạn đồng hành với Chúa Giê-su trên con đường thập
giá và dừng lại trước cái chết của Người. Ai cũng mong có mặt bên người thân
của mình trong những khoảnh khắc cuối cùng của người ấy. Dù là một bệnh nhân
đang hấp hối trên giường hay một tử tội đang bị dẫn ra pháp trường xử bắn, đó
bao giờ cũng là một khoảnh khắc hết sức thiêng liêng, một khoảnh khắc mầu
nhiệm. Người thân của ta đang trải nghiệm nỗi chết! Kinh nghiệm này là của
riêng người ấy, thuộc về một mình người ấy. Ta đứng đó, thiết tha muốn san sẻ,
nhưng hiểu rằng mình không thể nào san sẻ được. Ta đứng đó, như để cho người
thân mình vơi bớt nỗi cô đơn, nhưng kỳ thực là để nhìn ngắm nỗi cô đơn được
người thân mình uống cạn. Ta đứng đó, lặng nhìn… Chúa Giê-su đã chết vì yêu ta.
Tình yêu ấy trước hết gọi mời ta nếm cảm. Rồi, trong cuộc ‘đối thoại thinh lặng’này,
tình yêu của Người sẽ chinh phục và biến đổi ta, vừa trực tiếp vừa sâu xa hơn
bất cứ thứ xúc cảm nào. Xin Chúa Thánh Thần giúp ta biết ‘buông mọi khí giới
xuống’, và để cho Ngài làm việc...
Suy niệm: Đọc chậm rãi, trình thuật khổ
nạn theo Ga 18,1 – 19,42 với tất cả ý thức và tâm tình.
Sống Lời Chúa: Gác lại việc vui đùa, tiết chế ăn uống, gia
tăng việc bác ái để đồng cảm với cuộc khổ nạn của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su khổ nạn, Chúa đã đi đến cùng con đường vâng phục
Thánh ý Cha, và đã san sẻ đến cùng thân phận kiếp người. Xin cho chúng con, từ
nay, dù trong bất cứ cảnh ngộ nào của cuộc sống, cũng đừng bao giờ quên rằng: ‘Chúa đã chết vì yêu tôi’. Để từ nay, chúng con chỉ còn một nghĩa sống và một nghĩa chết mà
thôi.
Chào
chị em!
Giáo Hội hôm nay cần những người có kinh nghiệm gặp Chúa, để
loan báo Tin Mừng và giúp người khác gặp Chúa. Lúc nào Giáo Hội cũng cần những
Maria cháy bỏng một tình yêu.
Suy niệm:
Thật lạ lùng khi vào thời
Đức Giêsu,
thời người ta không coi lời
chứng của phụ nữ là có giá trị pháp lý,
Mátthêu lại kể cho chúng ta
chuyện hai phụ nữ làm chứng về Chúa phục sinh.
Nếu chuyện ấy không có thật,
chẳng ai bịa đặt ra một
chuyện vô bổ như thế.
Hai bà Maria này đã chứng
kiến cái chết của Thầy Giêsu (Mt 27, 56),
đã dự việc chôn cất Thầy và
biết rõ vị trí ngôi mộ (27, 61).
Suốt ngày sabát, trong đau
đớn và nhớ nhung,
hai bà như sống trong một
cuộc canh thức dài.
Họ chỉ mong cho chóng sáng
để ra viếng mộ.
Các bà là những người đến mộ
đầu tiên,
nên được diễm phúc chứng
kiến những điều kỳ diệu.
Đất rung chuyển dữ dội, một
thiên thần chói ngời từ trời xuống,
lăn tảng đá che cửa mộ ra và
ngồi lên trên.
Quyền năng uy nghi của Thiên
Chúa đè bẹp sức mạnh của tử thần.
Tảng đá nặng nề chẳng cầm
giữ được Đấng bị đóng đinh.
Các bà đi tìm Đấng đã chết
nơi nấm mộ.
Nhưng Đấng ấy đâu có ở đây,
vì Đấng ấy đã trỗi dậy rồi (v. 6).
Thiên thần mời các bà đến
xem chỗ Người nằm để kiểm chứng.
Quả thực, chẳng còn thân xác
Người ở đó, ngôi mộ trống trơn.
Nhưng sự trống trơn này lại
thật là một tin mừng.
Vì nếu Người còn nằm đó thì
ai dám nói Người đã sống lại.
Ngôi mộ trở nên trống là do
bàn tay quyền năng của Thiên Chúa Cha.
Cha đã nâng con trỗi dậy và
cho con được phục sinh.
Đấng bị đóng đinh đã chết và
đã nằm xuống.
Đấng nằm xuống đã được nâng
dậy và sẽ đi gặp môn đệ ở Galilê (c. 7).
Lòng vui như mở hội, các bà
vội vã chạy về báo tin cho các môn đệ.
Đang khi chạy về thì chính
Đấng phục sinh hiện ra đón gặp họ.
Ngây ngất vì cuộc gặp gỡ quá
đỗi bất ngờ,
các bà chỉ biết phủ phục
dưới chân Người mà thờ lạy (c. 9).
Thầy Giêsu không dặn điều gì
khác với vị thiên thần ngoài mộ.
Chỉ có điều Thầy vẫn gọi các
môn đệ là anh em (c. 10),
dù họ đã bỏ rơi Thầy trong
lúc Thầy cần đến họ nhất.
Rõ ràng Thầy Giêsu phục sinh
muốn tha thứ và làm hòa với họ.
Các phụ nữ đã trở nên những
chứng nhân đầu tiên của sự phục sinh.
Họ đã thấy ngôi mộ trống,
hơn nữa, họ còn được gặp Đấng sống lại.
Nhờ họ mà có cuộc gặp gỡ
giữa Thầy Giêsu và các môn đệ ở Galilê.
Giáo Hội hôm nay cần những
người có kinh nghiệm gặp Chúa,
để loan báo Tin Mừng và giúp
người khác gặp Chúa.
Lúc nào Giáo Hội cũng cần
những Maria cháy bỏng một tình yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Chúa đã sống đến cùng cuộc
Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống
cuộc Vượt qua mỗi ngày của
con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang
kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và
nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn
của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải
của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến
con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm
vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua
thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và
hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh
liệt của Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy
niệm
Sứ điệp của Đấng Phục
Sinh trong đêm nay là “Đừng sợ”.
Trong khi quân lính: “Thấy
người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi” (Mt 28,4). Thì
thiên thần Chúa trấn an các phụ nữ: “Này các bà, đừng sợ!” (Mt
28,5). Những lời đầu tiên của Đấng Phục Sinh cũng là: “Chị em
đừng sợ” (Mt 28,10).
Lính canh sợ hãi vì họ
vừa hành hình một con người vô tội, nay thấy người đó sống lại.
Điều này thật khủng khiếp, với cái nhìn bình thường thì đây là ma
quỷ hoặc oan hồn, về để hãm hại mình.
Còn mấy người phụ nữ
trong bài Tin mừng hôm nay lại háo hức, chờ đợi đến sáng để được
gặp một con người mình thương mến, để làm những cử chỉ thương mến
cuối cùng. Cử chỉ này có lẽ bình thường chúng ta không dám làm,
đặc biệt là các bà: Ra mộ vào sáng sớm tinh sương, tìm người lăn
tảng đá ra, ướp lại xác chết cho cẩn thận hơn... Các bà chỉ mong
trọn tình vẹn nghĩa trong giây phút cuối cùng cho xong.
Thế nhưng Đấng Phục Sinh
đã cho các bà niềm vui sâu xa và vĩnh cửu, là cho các bà được gặp
gỡ Ngài. Nhưng muốn gặp gỡ Đấng Phục Sinh các bà phải vượt qua được
nỗi sợ hãi. Chính vì vậy mà Đấng Phục Sinh chẳng những sai thiên
thần, mà đích thân Ngài cũng đã trấn an các bà: Đừng sợ.
Trong cuộc sống hiện tại
có nhiều nỗi sợ hãi khiến tâm hồn tôi không được bình an. Mà một khi
không bình an thì chắc chắn không thể có niềm vui trong tâm hồn.
- Sợ hãi vì kinh tế của
gia đình.
- Sợ hãi không biết tôi
có sống trọn lời cam kết trong bí tích Hôn phối không?
- Sợ hãi vì việc giáo
dục con cái ngày hôm nay khó khăn quá.
- Sợ hãi vì có nhiều
cám dỗ khiến đức tin của tôi bị lung lay…
Chúa đã Phục Sinh và
Ngài cũng sẽ nói với tôi: Đừng sợ! Vì có Chúa luôn ở bên. Nếu tôi
vững tin vào Chúa thì chắc chắn tôi sẽ vượt qua được tất cả những
nỗi sợ hãi trong cuộc sống đang ám ảnh tôi.
Lạy Chúa, xin cho con tin
tưởng vào mầu nhiệm Tử Nạn- Phục Sinh của Đức Kitô, để con cũng
biết chết đi con người của mình mỗi ngày, hầu có thể đón nhận niềm
vui Phục Sinh trong Chúa. Lúc đó con sẽ không còn sợ hãi bất cứ điều
gì, vì con đã chiến thắng được chính bản thân con bằng sức mạnh của
Ngài.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19
THÁNG TƯ
Thoát
Khỏi Ách Thống Trị Của Sự Chết
Nếu
chúng ta không thuộc về Thiên Chúa như các chứng nhân và các môn đệ của Đức
Kitô, thì chúng ta sẽ hoàn toàn thuộc về thế giới đã sa ngã này. Toàn bộ cuộc sống
của chúng ta sẽ dẫn đến sự chết. Qua cái chết, thế giới vật chất sẽ khống chế
hoàn toàn phẩm giá của chúng ta trong tư cách là những con người, làm cho chúng
ta trở thành ‘bụi đất’ không hơn không kém. Nếu không có đức tin vào Chúa Kitô,
thì đấy sẽ là viễn tượng duy nhất của cuộc sống con người. Sự hiện hữu của con
người sẽ thật là ảm đạm.
Cuộc
Phục Sinh của Đức Kitô giải thoát chúng ta khỏi một viễn tượng tối tăm như thế.
Cuộc Phục Sinh ấy giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của sự chết. Đó là lý
do tại sao niềm vui Phục Sinh của chúng ta tiên vàn là một niềm vui bật ra từ mầu
nhiệm sáng tạo. Bởi đó, chúng ta vui mừng, vì Chúa là Thiên Chúa, vì Ngài đã dựng
nên chúng ta, vì chúng ta thuộc về Ngài.
Chúng
ta vui niềm vui Phục Sinh vì chúng ta là dân của Thiên Chúa, là đàn chiên do
Ngài dẫn dắt. Trong Mùa Phục Sinh, hình ảnh Đức Kitô là Chúa Chiên Lành hiện
lên rõ ràng. Người nói về chính mình: “Ta là mục tử tốt lành. Ta biết các chiên
Ta, và các chiên Ta biết Ta.” (Ga 10,14)
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 19-4
THỨ BẢY TUẦN THÁNH
CANH THỨC VƯỢT QUA
Ed 36, 16-17a.18-28; Rm 6, 3-11; Mt 28,
1-10.
LỜI SUY NIỆM: “Các bà vội vã rời khỏi mộ,
tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho các môn đệ Đức
Giêsu hay.”
Hình ảnh của hai bà Maria và Bà Maria Mácđala, từ sáng
sớm đã đi ra mộ Chúa Giêsu; mặc dù biết Chúa đã chết thật, các bà vẫn giữ
nguyên tình yêu mến Chúa, và muốn phục vụ Chúa tốt hơn khi còn có thể phục vụ
Chúa. Với lòng nhiệt thành các bà, Chúa Giêsu đã ban ân thưởng lớn lao đó là:
được gặp Chúa Phục Sinh trước hết mọi người, và được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng
Chúa Phục Sinh cho Các Tông Đồ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi người trong gia đình chúng
con luôn biết hướng về Chúa từ sáng sớm cho đến chiều hôm, trong cầu nguyện với
việc làm và trong việc làm với cầu nguyện, để luôn gặp được Chúa.
Mạnh
Phương
19
Tháng Tư
Trò Chơi Hòa Bình
Một
ngày kia, trên con đường đi bách bộ ngang qua một sân chơi, ông Marschak, một
nhà văn Liên Xô, dừng lại quan sát các trẻ em vừa lên sáu, lên bảy đang chơi
đùa với nhau trên sân cỏ.
Thấy
chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi: "Này các em, các em đang chơi
trò gì đó?". Bọn trẻ nhôn nhao trả lời: "Các em chơi trò đánh
nhau".
Nghe
thế, ông Marschak hơi cau mày. Rồi ra dấu cho các em đến gần, ông ôn tồn giải
thích: "Tại sao các em chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các em biết chứ, đánh
nhau hay chiến tranh có gì đẹp đẽ đâu. Các em hãy chơi trò chơi hòa bình xem
nào".
Ông
vừa dứt lời, một em bé reo lên: "Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình
một lần xem sao". Rồi cả bọn kéo nhau chạy ra sân, chụm đầu nhau bàn tán.
thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn Marschak tỏ vẻ hài lòng, mỉm cười
tiếp tục cất bước. Nhưng không được bao lâu, ông nghe có tiếng chân chạy theo.
Và chưa kịp quay lại, ông nghe một giọng trẻ em hỏi: "Ông ơi, trò chơi hòa
bình làm sao? Chúng cháu không biết".
Vâng,
làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình khi chúng chỉ thấy người lớn
"chơi trò chiến tranh". Khi chúng thấy các anh lớn lên đường thi hành
nghĩa vụ quân sự trong lúc đất nước không còn một bóng quân thù.
Làm
sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi mỗi ngày chúng thấy trên truyền
hình, trên các mặt báo hình ảnh của những người lớn bắn giết nhau, thủ tiêu
nhau, ám sát nhau.
Làm
sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi trong chính gia đình chúng thấy
anh chị, thậm chí đôi khi cả cha mẹ chúng lớn tiếng cãi vã, mắng chửi nhau. Có
khi họ dùng cả tay chân để thay lời nói. Trong thức tế, bầu khí người lớn tạo
ra để cho các trẻ em lớn lên không phải là bầu khí hòa bình.
Ðến
bao giờ thế giới của người lớn mới hiểu và thực tâm tìm phương thế giải quyết sự
mâu thuẫn: là hằng ngày thế giới của người lớn bỏ ra cả tỷ Mỹ kim cho việc
nghiên cứu và trang bị về vũ khí.
Trong
khi đó, trên thế giới có 800 triệu người sống dưới mức tối thiểu cần thiết cho
con người, nghĩa là họ đang bị đe dọa chết đói. Có 600 triệu người trên thế giới
đang bị mù chữ. Chỉ có 4 trong số 10 trẻ em được cắp sách đến trường tiểu học
trong hơn ba năm. Và cứ 10 đứa trẻ sinh ra trong cảnh cơ hàn thì 2 trẻ bị chết
trong năm đầu tiên.
Vâng,
thế giới người lớn phải bắt đầu loại bỏ chiến tranh và xây dựng hòa bình, nếu họ
muốn trẻ con cũng noi gương chơi trò chơi ấy.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét