25/04/2014
Thứ Sáu Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 4, 1-12
"Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, đang lúc Phêrô và Gioan giảng cho dân
chúng (sau khi chữa lành người què), thì các tư tế, vị lãnh binh cai đền thờ và
các người thuộc nhóm Sađốc áp tới, bực tức vì các ngài giảng dạy dân chúng và
công bố việc Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại. Họ ra tay bắt các ngài và đem tống
giam vào ngục cho đến hôm sau, vì lúc đó đã chiều tối rồi. Nhưng trong số những
kẻ nghe giảng, có nhiều người tin, và nguyên số đàn ông cũng đã tới năm ngàn
người. Ðến hôm sau, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ ở Giêrusalem, có cả Anna
thượng tế, Caipha, Gioan, Alexanđê, và tất cả những người thuộc dòng tư tế,
nhóm họp. Họ cho điệu hai ngài ra giữa mà chất vấn rằng: "Các ông lấy
quyền hành và danh nghĩa nào mà làm điều đó?"
Lúc bấy giờ Phêrô được đầy Thánh Thần đã nói: "Thưa
chư vị thủ lãnh toàn dân và kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị
đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con
người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị tất cả, và toàn dân Israel biết cho
rằng: Chính nhờ Danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng tôi, Người mà chư vị đã
đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà
anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính Người là viên đá đã bị chư vị
là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được
ở nơi một ai khác. Bởi chưng không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được
ban tặng cho loài người, để nhờ vào Danh đó mà chúng ta được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1-2 và 4. 22-24. 25-27a
Ðáp: Phiến đá mà
những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi
của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người
muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi
của Người muôn thuở". - Ðáp.
2) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên
tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng
ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. -
Ðáp.
3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban
cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa,
chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. -
Ðáp.
Alleluia: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng
ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 21, 1-14
"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu
lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là
Ðiđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ
nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông
kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống
thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa
Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người
liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp:
"Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì
sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá.
Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó".
Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống
biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa
đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và
bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây".
Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một
trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách.
Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không
ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là
Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như
thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết
sống lại.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Chúa Hiện Ra Trên Biển Hồ Tibêria
Một người da đỏ rời bỏ nơi cư trú ở thôn quê để về thành
phố thăm lại người bạn da trắng. Anh nhìn thấy cuộc sống náo nhiệt và xô bồ của
thành phố đã tạo cho anh không ít ngạc nhiên và thích thú. Lúc hai người đang
dạo chơi trên đường phố, thình lình người da đỏ chợt dừng lại và đập nhẹ vào
vai người bạn da trắng và nói nhỏ: "Chúng ta hãy dừng lại tí chút, anh có
nghe thấy gì không?" Người da trắng quay lại và mỉm cười nói với bạn:
"Tiếng máy nổ, tiếng còi, tiếng gầm của xe buýt, tiếng bước của người qua
lại. Còn anh, anh nghe thấy gì?" "Tôi nghe thấy tiếng kêu của một chú
dế mèn gần đâu đây đang gáy". Anh bạn da trắng đứng lại, lắng tai và chăm
chú nghe kỹ hơn, nhưng rồi lắc đầu đáp: "Tôi nghĩ là anh đang đùa, làm gì
mà có dế mèn ở đây. Mà dù cho có đi nữa thì làm sao anh có thể nghe được tiếng
nó gáy giữa muôn vàn náo động của thành phố sầm uất nhộn nhịp này". Người
da đỏ nghiêm trang trả lời: "Có mà. Tôi nghe tiếng nó gáy chỉ đâu đây thôi".
Nói rồi anh bước lại gần bức tường cách đó vài thước, một dây nho dại đang bò
trên vách tường, dưới gốc nho là một bụi cỏ và vài chiếc lá khô đủ để cho một
chú dế ẩn nấp và đang cất tiếng gáy.
Cuối cùng anh bạn da trắng cũng thấy được con dế. Bấy giờ
anh gật đầu thán phục: "Lỗ tai của người da đỏ các anh quả thật là thính
hơn bọn da trắng chúng tôi nhiều". Thế nhưng, người da đỏ lắc đầu đáp lại:
"Chẳng phải vậy đâu. Tôi sẽ chứng minh cho anh thấy". Ðoạn anh ấy rút
trong túi ra một đồng tiền và cho lăn nhẹ trên vệ đường, tiếng va chạm leng
keng của đồng tiền cũng thật nhỏ, tưởng chừng như mất hút giữa những tiếng động
ồn ào của thành phố. Vậy mà như có một hiệu lệnh, đồng tiền lăn trên đây thì
mọi chiếc đầu, mọi cặp mắt đều quay về đó. Lượm đồng tiền lên và cho vào túi,
người da đỏ mỉm cười với bạn mình. Vì thế, lỗ tai của người nào cũng nghe rõ
như nhau, nhưng có khác chăng là nó chỉ nghe quen với âm thanh và những điều
người ta lưu tâm đến.
Anh chị em thân mến!
Thông thường thì khả năng nghe biết của mọi người như nhau
và có những giọng nói thật giống nhau. Tuy nhiên, giữa những giọng nói giống
nhau đó, có giọng được cất lên, có giọng lại như chìm vào trong thầm lặng.
Thật vậy, trong ba năm theo Thầy trên đường rao giảng Tin
Mừng, chắc hẳn các môn đệ đã quá quen thuộc với giọng nói của Thầy mình. Thế mà
vì những nhọc nhằn suốt đêm chẳng bắt được một con cá nào, các ông đã không
nhận ra Ngài, chỉ có lòng mến sắt son mới cho phép thánh Phêrô nhận ra Thầy
mình, và ông đã thốt lên bằng một câu nói thật vắn gọn: "Thầy đó".
Trước đây, chỉ vì lòng mến đã thôi thúc Gioan chạy đến mồ
trước, nhưng ông lại đợi Phêrô để cả hai cùng vào để xác nhận việc Thầy mình đã
sống lại. Cũng chính do lòng mến mộ mà các ông đã giới thiệu cho các bạn hữu
biết việc Chúa Kitô Phục Sinh.
Ðây là điều mà Kitô hữu ở mọi thời đại đều phải bắt chước
gương của các tông đồ. Vì đến với Chúa là một điều tốt, nhưng sẽ tốt hơn nếu có
nhiều người khác nữa cùng đến với Ngài.
Lạy Chúa, trong cuộc sống con không dám xin Chúa cất đi
những nhọc nhằn, vì đó là thân phận tội lỗi của con người. Con chỉ xin Chúa ban
cho con lòng Tin Mến, để giữa những nghịch cảnh cuộc đời, con có thể nhận ra
được sự hiện diện của Chúa, tìm được niềm vui và hy vọng trong Chúa. Từ đó, con
có thể đem Chúa đến cho người khác, hầu cho họ luôn tin yêu vào sự Phục Sinh
vinh quang của Chúa. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Sáu Tuần I
BNPS
Bài đọc: Acts 4:1-12; Jn 21:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu vẫn đang hoạt động với các tông đồ.
Chúa chết chưa hết truyện, mà là bắt đầu một kỷ nguyên mới;
một kỷ nguyên mà từ nay, Ngài họat động từ trong và với các tông đồ.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng việc Chúa Giêsu vẫn sống và
làm việc với các tông đồ. Trong Bài Đọc I, những người trong Thượng Hội Đồng
rất ngạc nhiên khi thấy hai ông Phêrô và Gioan có thể chữa lành một người què
từ lúc mới sinh. Họ chất vấn hai ông nhờ quyền năng nào và nhân danh ai làm
chuyện đó. Ông Phêrô được đầy quyền năng Thánh Thần đã mạnh dạn tuyên xưng:
chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu Nazareth, Người đã bị các ông đóng đinh vào Thập
Giá. Ngài vẫn đang sống và họat động trong chúng tôi; và không ai có thể được
cứu độ nếu không tin vào Danh Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vẫn hằng theo dõi
cuộc sống của các tông đồ. Khi thấy các ông vất vả suốt đêm mà không bắt được
con cá nào, Người hướng dẫn các ông cách bắt nhiều cá. Khi thấy các ông mệt mỏi
và đói khát, Ngài chuẩn bị đồ ăn thức uống để các ông được tăng sinh lực.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bổn cũ
tái diễn, Thượng Hội Đồng cho bắt Phêrô và Gioan.
1.1/ Phêrô và Gioan đụng độ với Thượng Hội Đồng: Như Chúa
Giêsu, hai ông biết sẽ phải ra trước Thượng Hội Đồng, nếu tiếp tục những gì
Chúa đã từng làm; nhưng hai ông không sợ và bỏ chạy như trong Cuộc Thương Khó
của Chúa Giêsu. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh đã làm cho hai ông can đảm làm
chứng cho Chúa mà không sợ bị bắt bớ, roi vọt, tù đày.
Khi hai ông còn đang nói với dân, thì có các tư tế, viên
lãnh binh Đền Thờ, và các người thuộc nhóm Sadducees kéo đến. Lý do họ bắt các
ông: “Họ bực tức vì các ông giảng dạy cho dân và dựa vào trường hợp Đức Giêsu
mà loan báo kẻ chết sẽ sống lại.” Nhóm Sadducees không tin có sự sống lại, và
càng bực tức với các tông đồ, vì đã đụng chạm đến niềm tin của họ. Họ dùng bạo
lực, bắt hai ông và tống ngục cho đến ngày hôm sau, vì trời đã về chiều.
Nhưng làm sao họ có thể đàn áp mãi sự thật? Vì ngày hôm đó,
trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo hai ông. Điều họ sợ
toàn dân sẽ bỏ họ và theo Chúa Giêsu đã thành sự thật, chỉ riêng số đàn ông đã
lên đến chừng năm ngàn. Họ lo sợ nhưng không làm gì được. Họ
chỉ có thể dùng sức mạnh để đàn áp cá nhân; nhưng không thể áp đảo dân chúng.
1.2/ Phêrô và Gioan làm chứng cho Chúa Giêsu: Hôm sau, các
thủ lãnh Do-thái, các kỳ mục và kinh sư họp nhau tại Jerusalem. Có cả thượng tế
Hannah, các ông Caiaphas, Gioan, Alexandre và mọi người trong dòng họ thượng
tế. Họ cho điệu hai Tông Đồ ra giữa hội đồng và tra hỏi:
(1) Câu hỏi quan trọng họ đặt ra cho Phêrô và Gioan:
"Nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà các ông làm điều ấy?" Điều mà
họ ám chỉ đây là việc chữa lành người què từ lúc mới sinh.
(2) Câu trả lời của Phêrô: Bấy giờ, ông Phêrô được đầy
Thánh Thần, liền nói với họ và toàn dân Israel: “Chúng tôi nhân danh chính Đức
Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào Thập Giá, và Thiên
Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành
mạnh ra đứng trước mặt quý vị. Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ,
chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường.” Lời tuyên xưng của Phêrô cũng
là lời tố cáo tội lỗi họ đã xúc phạm đến Con Thiên Chúa.
Ông Phêrô còn đi xa hơn khi tuyên xưng: “Ngoài Người ra,
không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã
được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ."
2/ Phúc Âm: "Cứ
thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá."
“Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ
Tiberia. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô,
ông Nathanael người Cana miền Galilee, các người con ông Zebedee và hai môn đệ
khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon Phêrô nói với các ông: "Tôi đi
đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi
người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.”
Có nhiều giả thuyết về ý nghĩa của trình thuật này: Có
người cho rằng vì các tông đồ chán nản không biết làm gì sau khi Chúa chết, nên
quay về nghề đánh cá cũ để sinh sống. Người khác cho đây chỉ là biểu tượng nói
về việc các tông đồ phải biết trông cậy vào Chúa thì mới có kết quả trong việc
“đánh cá người.” Dù theo giả thuyết nào đi nữa, chúng ta cũng phải tìm ra ý
nghĩa của trình thuật.
2.1/ Chúa Giêsu chỉ dẫn cho các tông đồ bắt cá: Khi trời đã
sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là
Đức Giêsu. Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?"
Các ông trả lời: "Thưa không."
- Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn
thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao
kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.
- Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô:
"Chúa đó!" Vừa nghe nói "Chúa đó!" ông Simon Phêrô vội
khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.
Các ông vất vả suốt đêm và không bắt được con cá nào. Nhưng
với sự chỉ dẫn, dù chỉ một lời của Chúa, các ông đã bắt được một mẻ cá lớn. Con
người có thể chọn làm theo ý mình, nhưng sẽ không có kết quả bằng chịu vâng lời
và làm theo sự chỉ dẫn của Chúa.
2.2/ Chúa Giêsu dọn bữa ăn cho các tông đồ: Bước lên bờ,
các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức
Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây!" Ông Simôn Phêrô
lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm
mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.
Chúa Giêsu bẻ bánh với các ông: Đức Giêsu nói: "Anh em
đến mà ăn!" Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai?" vì
các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi
cá, Người cũng làm như vậy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu vẫn sống và đang hoạt động trong thế giới, trong
Giáo Hội, trong gia đình, và trong mỗi người chúng ta. Chúng ta có cảm nhận
được sự hiện diện của Ngài không?
- Hãy năng tham dự Thánh Lễ, vì qua đó, chúng ta vẫn đang
được chỉ dạy khi thất bại, và được tăng sinh lực qua chính Mình và Máu Chúa,
sau những giây phút mệt mỏi, chán chường.
- Chúng ta có nhiệm vụ làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng
cách luôn lắng nghe và làm theo những gì Ngài dạy bảo, cho dẫu phải đương đầu
với quyền lực của thế gian và ma quỉ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
25/04/14 THỨ
SÁU TUẦN BÁT NHẬT PS
Ga 21,1-14
Ga 21,1-14
ĐỨC GIÊSU VẪN “TỎ MÌNH RA”
Bấy giờ, Đức
Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở biển hồ Tibêria. (Ga 21,1)
Suy niệm: Thiên Chúa là “Đấng vô hình” (Dt 11,27); Ngài
vốn “ẩn mình” nhưng khi Ngài phán dạy thì không “ẩn mình” nữa (x. Is 45,15.19).
Thật thế, “vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1), vị Thánh Tử đó là Đức Giê-su Ki-tô,
là “hình ảnh của Thiên Chúa vô
hình” (Cl
1,15). Như vậy, Thiên Chúa “vô hình” (“ẩn mình”) đã trở nên “hữu hình” (“tỏ
mình”) để hiện diện với chúng ta qua Đức Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể. Cái
chết của Ngài đã khiến các môn đệ “không trông thấy Thầy” trong một ít lâu,
nhưng rồi “lại trông thấy Thầy” khi Ngài từ cõi chết chỗi dậy (x. Ga 16,16).
Ngài hằng sống, nên hôm nay, tại biển hồ Ti-bê-ri-a, tức là trên biển trần gian
này, Ngài “lại tỏ mình ra cho các môn
đệ”, nghĩa
là cho cả chúng ta nữa. Và Ngài “tỏ mình ra” như thế “để chúng ta không còn sống cho
chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta” (Kinh nguyện tạ ơn IV).
Mời Bạn: “Thiên
Chúa im lặng không có nghĩa là Thiên Chúa vắng mặt” (Đức Bê-nê-đi-tô XVI). Ngài
vẫn hiện diện bên ta trong Lời Chúa, nơi Thánh Thể và nhiều hình thức khác nữa.
Bạn có tin tưởng Ngài vẫn hiện diện Chúa “với chúng ta mọi ngày cho đến
tận thế” (Mt
28,20), nhất là trong lúc chúng ta gặp gian nan thử thách không? Nếu đã tin vào
một Thiên Chúa “tỏ mình” cho con người, thì bạn cũng hãy mạnh dạn “tỏ mình” ra
là người tin vào Đức Ki-tô.
Sống Lời Chúa: Thực
hành Lời Chúa dạy là cách thể hiện lòng tin của bạn vào Chúa Ki-tô phục sinh.
Cầu nguyện: Lạy Đức Ki-tô Phục sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con.
Chúa đó
Hội Thánh
truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể. Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa
tập trung nơi thánh lễ. Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.
Suy niệm:
Bảy
môn đệ trở về với nghề xưa,
trở
về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù
đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.
Ông
không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo:
“Tôi
đi đánh cá đây.”
Các
bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:
“Chúng
tôi cùng đi với anh.”
Có
một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.
Ðây
quả thực là một nhóm bạn lý tưởng.
Họ ở
với nhau, làm việc với nhau cả đêm,
và
lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.
Tuy
nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.
Người
môn đệ được Ðức Giêsu thương mến
thì
nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ.
Nhưng
sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền.
Còn
Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,
nhảy
tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai
phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.
Có
thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.
Hội
Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt.
Sự
hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.
Ðây
không phải là một nhóm bạn khép kín,
nhưng
là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.
Chính
sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài
là
bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.
Hội
Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.
“Không
có Thầy anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15,5).
Nhưng
có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.
Nhóm
bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ,
được
sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.
Chúa
Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.
Ngài
cầm lấy bánh trao cho các ông.
Cử
chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.
Chúng
ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn.
qua
đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài.
Chúng
ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội
Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.
Hội
Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.
Ðó
là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.
Ngài
cầm lấy bánh trao cho các ông và nói: “Anh em đến mà ăn” (c.12).
Chúa
phục sinh vẫn đến với chúng ta giữa đời thường,
giữa
những vất vả lo âu, giữa những thất bại trống vắng.
Chúa
vẫn đứng trên bờ mà ta cứ tưởng người xa lạ.
Ngài
vẫn nhẹ nhàng chạm đến nỗi đau của ta: “Các con không có gì ăn ư?”
Ngài
vẫn mời ta bắt đầu lại dù mệt nhọc và thất vọng:
“Hãy
thả lưới bên phải mạn thuyền.”
Chúa
phục sinh quyền năng vẫn phục vụ như xưa.
Bàn
tay mang dấu đinh là bàn tay bây giờ nhen lửa và nướng cá.
Bàn
tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly
bây
giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.
Hãy
nếm bầu khí huynh đệ của buổi sáng hôm ấy bên bờ hồ.
Các
môn đệ ngồi vòng tròn quanh Thầy xưa.
Họ
hết mệt, hết đói vì có cá và bánh.
Họ
được hong ấm nhờ lửa than hồng, và nhất là nhờ được gần Thầy.
Hôm
nay tôi cũng được mời sống cho người khác như Đấng phục sinh.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con
trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn
đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa
chúng con
như Chúa đã đến đem bình an
cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan
dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông
Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho
chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá
cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG TƯ
Phục Sinh Trong Hiện Tại
Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết tại một thời điểm
nhất định trong thời gian. Tuy nhiên, Người vẫn đang đợi chờ sự Phục Sinh của
Người tác động biến đổi mọi người. Người vẫn đang đột phá vào cuộc sống của mỗi
cá nhân và vào lịch sử của mọi dân tộc. Nhưng tác động chuyển hóa của cuộc Phục
Sinh đối với xã hội và cá nhân còn tùy thuộc vào sự hợp tác của con người nữa.
Trong cuộc Phục Sinh này, người ta phá vỡ sự ràng
buộc của tội lỗi và sự chết. Người ta sống lại trong Đức Kitô như chính Người
đã sống lại vào buổi sáng Phục Sinh cách đây hai mươi thế kỷ ấy. Vâng, bất cứ ở
đâu có một trái tim thắng vượt ích kỷ, bạo lực, và đố kỵ – bất cứ ở đâu có một
trái tim mở ra cho một ai đó đang cần đến mình – thì ở đó Đức Kitô được Phục
Sinh từ cõi chết, được Phục Sinh trong hiện tại hôm nay. Bất cứ ở đâu có người
theo đuổi công lý và hòa bình đích thực, thì sự chết bị đánh bại và cuộc Phục
Sinh của Đức Kitô được khẳng định lại. Bất cứ khi nào một người lìa đời sau khi
đã sống một cuộc sống đầy tràn tin, yêu, và đau khổ vì Đức Kitô … thì ở đấy và
lúc ấy có sự Phục Sinh.
Cuộc Phục Sinh này – được định liệu cho mọi người
– là chiến thắng tối hậu. Đó là câu trả lời của Thiên Chúa cho những đau buồn
và thử thách của con người. Đó không phải là sự chết mà chính là sự sống. Đó
không phải là thất vọng mà chính là hy vọng. Và Giáo Hội mời gọi mọi con người
hôm nay đón nhận niềm hy vọng này.
Giáo Hội nhắc lại với chúng ta, với mọi người, lời
công bố khó tin nhưng rất thật rằng: Đức Kitô đã sống lại! Mong sao cả thế giới
cùng sống lại với Người! Alleluia!
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
25-4
THỨ
SÁU TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Cv
4, 1-12; Ga 21, 1-14.
LỜI
SUY NIỆM: “Tôi đi đánh cá đây. Các ông đáp: chúng tôi cùng đi với anh. Rồi mọi người
ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.”
Trong
đoạn Tin Mừng này giúp chúng ta học được nơi các Tông Đồ của Chúa. Trước hết
vai trò của Thánh Phêrô, một con người trực tính, hăng hái tích cực trong mọi sự,
nhưng cũng rất yếu đuối “Chối Chúa đến ba lần” nhưng biết sám hối, khiêm tốn,
không tự ti mặc cảm vẫn đoàn tụ với anh em Tông Đồ. Hầu hết trong nhóm Tông Đồ
đều tôn trọng Phêrô: Trước ngôi mộ trống Gioan chờ Phêrô vào trong mồ trước, mặc
dầu Gioan tới mộ trước, và hôm nay Phêrô thông báo “Tôi đi đánh cá đây” các
Tông Đồ khác đáp trả: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Phêrô không ra lệnh, nhưng
được sự đồng thuận của tất cả anh em.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mọi người trong gia đình chúng con biết đứng dậy sau những
lần vấp ngã, biết mình biết người để tôn trọng, yêu thương và vâng phục.Đem lại
hạnh phúc cho gia đình.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 25-04
THÁNH MARCÔ THÁNH SỬ
(Thế kỷ I)
Marcô là ai ? Chắc chắn Ngài không phải là một
trong 12 tông đồ. Nhưng một người tên Marcô đã được các cộng đoàn Kitô giáo sơ
khai biết đến, nhiều như là người bạn đồng hành của thánh Phaolô và như người bạn
thân ái của thánh Phêrô ở Roma (Cl 4,10; 1Pr 5,13; 2Tim 4,11). Sách Công vụ ba
lần nói tới một "Gioan cũng gọi là Marcô" (Cv 12,12; 25,15.17) là bạn
thiết của thánh Barnaba.
Các học giả thường đồng ý rằng: Marcô đã được nói
tới trong các thánh thư, Gioan tên Marcô trong sách công vụ và tác giả Phúc âm
thứ II đều chỉ là một người. Đồng ý với sự đồng hóa trên, chúng ta có thể phác
họa hình ảnh của thánh sử như sau:
- Ngài là con của Maria. Một góa phụ giàu có ở
Giêrusalem có một người giúp việc và căn nhà rộng rãi làm nơi tụ họp các tín hữu.
Năm 43, sau khi thoát khỏi ngục tù, thánh Phêrô đã
chọn nhà này làm nơi trú ngụ (Cv 12,12-17). Như thế, Marcô sớm quen thuộc với
những ghi nhận của thánh Phêrô. Hai năm sau, tức là năm 45, chúng ta thấy Marcô
và thánh Barnaba cùng đi trong cuộc hành trình thứ nhất của Phaolô. Nhưng khi
đoàn truyền giáo đi về hướng bắc, Marcô đã từ giã để trở về Giêrusalem (Cv
13,13). Phaolô bất bình và không muốn nhận cho Marcô đi theo trong cuộc hành
trình thứ hai. Năm 50, như Barnaba đề nghị, Barnaba về phe với Marcô, và đáp
tàu về Cyprus là quê hương của Barnaba (Cv 15,36-39).
Chúng ta không thấy nói gì đến Marcô nữa cho tới
năm 61 khi Ngài ở Roma với Phaolô (Cl. 4,10), ba năm sau tức là năm 64 thánh
nhân vẫn có mặt ở Roma vì Phêrô có nhắc tới tên Người trong các lời chào của
mình (1Pr 5,13). Đây là năm thánh Phêrô chịu tử đạo. Ít lâu sau đó có lẽ thánh
Marcô đã bắt đầu viết sách Phúc âm ở Roma, dầu một số tác giả mới đây cho rằng ở
Alexandri. Năm 67, thánh sử ở Ephesô vì một ít tháng trước khi qua đời, thánh
Phaolô dặn dò Timothêô đưa theo Marcô đến Roma (2Tm 4,14). Mối bất hòa xưa đã
được hàn gắn hoàn toàn.
Từ đây, chúng ta phải dựa vào truyền thống để tìm
hiểu về Marcô. Có lẽ sau khi thánh Phêrô qua đời, Marcô đi rao giảng ở
Alaexandria thành lập và làm giám mục giáo đoàn này. Sự kiện không được chắc vì
các bậc tiến sĩ của Alexandria như Clêmente (200), và Origênê (203) không nhắc
nhở gì đến.
Cuốn Chronicon-Pascale không mấy có thế giá cho rằng:
Marcô đã làm giám mục ở Alexandrie và bị thiêu sống dưới thời Trajanô (năm 98 -
117).
Dựa vào bút pháp của Marcô, chúng ta cố gắng tìm
hiểu tính khí của Ngài. Tính chất sống động của Phúc âm thứ II biểu lộ rõ chứng
tích mục kiến của Phêrô, chứ không phải của Marcô, dầu có thể là Marcô đã chứng
kiến việc bắt bớ Chúa Giêsu vì các nhà chú giải đồng hóa Ngài với người thanh
niên vô danh bỏ chạy mình trần (Mc 14,50-52). Dầu vậy, thánh Marcô không phải
là một máy ghi âm diễn lại lời của Phêrô, Ngài là tác giả ghi lại ký ức của
Phêrô với bút pháp riêng. Ngài là người ít lời (673 câu so với 1068 câu nơi Matthêu)
và có giọng văn không chải chuốt.
Người ta có thể cho rằng: Ngài không có đau khả
năng viết văn cho duyên dáng. Nhưng với những khiếm khuyết này, Marcô lại tỏ ra
rất chân thành, Ngài đã ương ngạnh từ chối việc bỏ bớt những sự kiện vụng về
hay là giải thích chúng. Chẳng hạn không thánh sử nào giấu giếm sự chậm hiểu của
các thánh tông đồ, nhưng ở Marcô nhấn mạnh: "Lòng họ ra như chai lại"
( Mc 6,51). Marcô cũng không che dấu tham vọng không thể tin nổi của họ (Mc
9,34). Chính Phêrô cũng rất thẳng thắn: "Ông không biết phải đáp ứng làm
sao" (Mc 9,6). Có lẽ chứng cớ hùng hồn nhất nói lên sự lương thiện của
Marcô là Ngài đã liều tỏ ra mâu thuẫn với chính mình.
Chẳng hạn đối với Ngài Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ "vượt các thiên thần" (3,32)
"có quyền tha tội" (2,10). Nhưng rồi Ngài không ngần ngại viết rằng:
"Ở Nazareth Người đã không làm được phép lạ nào" (6,5) Ngài cũng
không dấu diếm sự kiện bà con Chúa Giêsu nghi ngờ Người thiếu khôn ngoan (3,21)
hay sự kiện Chúa Giêsu thất vọng với cây vả không trái (11,13). Những chi tiết
loại này khiến cho tựa đề của Marcô được nguyên vẹn (Phúc âm Chúa Giêsu Kitô
Con Thiên Chúa) nhưng lại mang dáng vẻ khó hiểu vì Ngài đã không thèm dấu giếm
gì hết. Với một sử gia tài danh như vậy, chúng ta rất an tâm.
Tại đền thờ thánh Marcô người ta nói có chôn dưới
bàn thờ thánh nhân do các thương gia mang từ Alexandria về vào thế kỷ IX. Thánh
sử được biểu trưng bằng hình con sư tử vì Phúc âm của Ngài mở dầu bằng tiếng
nói oai hùng của Gioan tẩy giả từ trong sa mạc. Đọc Phúc âm theo thánh Marcô,
chúng ta như có thể nghe tiếng nói thô sơ của thánh sử "Đừng nhìn tôi, hãy
nhìn Người".
(daminhvn.net)
25 Tháng Tư
Sư Tử Có
Ðôi Cánh
Khách du lịch đến thưởng ngoạn Venezia, một
thành phố mơ mộng nằm trên sông nước và được làm tăng thêm vẻ đẹp bằng những
công trình kiến trúc độc đáo cũng như bằng những tác phẩm nghệ thuật thời danh
nằm ở mạn đông bắc Italia, không thể bỏ qua công trường Marcô, công trình mang
tên của vị thánh bổn mạng của thành phố Venezia và cũng là vị thánh Giáo hội mừng
kính hôm nay.
Trên con đường tiến gần đến công trường Marcô,
du khách nhìn thấy một con sư tử có đôi cánh đứng sừng sững trên một ngọn tháp
cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp viết sách Phúc Âm đầu tiên của thánh
Marcô, như chứng từ của sử gia Papias, sinh sống vào cuối thế kỷ thứ hai viết
như sau:
"Marcô, người thông ngôn của Phêrô, đã viết
ra đúng những gì nhớ được, tuy không theo thứ tự, về những điều Ðức Kitô đã nói
và đã làm. Marcô không trực tiếp nghe Chúa giảng, cũng không phải là môn đệ của
Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô, người đã giảng dạy theo những gì ông cảm thấy
cần thiết, chứ không phải chủ tâm thuật lại lời Chúa một cách có hệ thống".
Marcô là người thông ngôn và lãnh trách nhiệm
chép lại những lời Phêrô giảng, vì thế không lạ gì ở cuối bức thư thứ nhất,
Phêrô gọi ông là "Marcô, người con của tôi".
Ngoài sự gần gũi với thánh Phêrô, Marcô cũng tiếp
xúc lân cận với Phaolô, bắt đầu vào lần gặp gỡ đầu tiên vào năm 44, khi Phaolô
và Barnaba đưa về Giêrusalem số tiền cộng đoàn Antiokia quyên được để trợ giúp
cộng đoàn Mẹ. Khi trở về, Barnaba đem theo Marcô, là cháu của ông.
Sau đó, trong khi đồng hành với Phaolô và
Barnaba để hoạt động truyền giáo ở đảo Cypre, vì một sự bất đồng ý kiến nào đó,
Marcô đã bỏ về Giêrusalem. Vì lý do này, trong chuyến truyền giáo thứ hai,
Phaolô đã nhất quyết không cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự
kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba.
Nhưng trong những ngày cuối đời, khi chờ đợi
ngày hành quyết, Phaolô đã viết thư nhắn với Timôthê: "Hãy đem cả Marcô đến
nữa, vì tôi cần sự giúp đỡ của anh ấy lắm". Bạn bè người ta muốn gặp trong
những ngày cuối đời phải là những người đồng sinh đồng tử!
Những chi tiết khác nhau đó của cuộc đời của
thánh Marcô không lấy gì làm chắc. Có tài liệu cho là thánh nhân chết tự nhiên.
Tài liệu khác lại cho là thánh nhân được phúc tử đạo. Vương cung thánh đường tại
công trường Marcô ở Venezia tự hào là còn giữ lại hài cốt của Ngài.
Trong cuộc sống, Marcô đã chu toàn bổn phận mà mọi
người Kitô được kêu gọi phải thực thi: Ðó là rao giảng Tin Mừng và làm chứng về
Ðức Kitô. Marcô đã thực hiện công việc này đặc biệt qua công tác viết sách Phúc
Âm, những người Kitô khác qua kịch nghệ, âm nhạc, thơ phú hay qua việc dạy đạo
cho con em quanh bàn ăn của gia đình hoặc qua cuộc sống chứng tá trong những
sinh hoạt và nếp sống hằng ngày.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét