Ngày 4 tháng 10
Lễ Thánh Phanxicô
Assisi
Lễ Nhớ
* Thánh nhân sinh năm
1182 tại Assisi. Từ ngày trở lại, gặp Chúa Kitô ở nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô cho
tới ngày từ trần ở Poóc-ti-un-cu-la (1226), thánh nhân -con người được mệnh
danh là Người Nghèo thành Assisi- cùng với các anh em tu sĩ của mình sống nghèo
khó, rảo khắp nơi loan báo tình yêu của Thiên Chúa. Người cũng đặt nền tảng cho
ngành nữ đan sĩ của Dòng và huynh đoàn giáo dân hãm mình. Người còn tha thiết với
việc giảng thuyết cho những người chưa tin. Suốt đời, thánh nhân không có bận
tâm nào khác ngoài mối bận tâm theo Đức Giêsu trong tinh thần vui tươi, đơn sơ,
tha thiết phục vụ Hội Thánh và dịu dàng yêu thương mọi người.
Bài
Ðọc I: Gl 6, 14-18
"Nhờ
cây Thập giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh
em thân mến, phần tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ
về thập giá Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu
đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian. Vì chưng trong Ðức Kitô có cắt bì hay
không cũng chẳng có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới.
Nguyện chúc bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó, và
cho cả Israel của Thiên Chúa nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi
nữa, vì tôi mang trong mình tôi dấu thánh của Chúa Giêsu. Anh em thân mến, nguyện
ân sủng của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng anh em. Amen.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Lạy Chúa,
Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa:
"Ngài là chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính
Ngài nắm giữ vận mạng của con". - Ðáp.
2)
Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ,
cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên
hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
3)
Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên
nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia:
x. Mt 11, 25
Alleluia,
alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, chúc tụng Cha, vì Cha đã mạc khải các mầu
nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 11, 25-30
"Chúa
đã giấu các điều ấy cùng kẻ khôn ngoan thông thái, và đã tỏ bày ra cho những kẻ
bé mọn".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng
Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những
điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như
vậy.
"Mọi
sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng
không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất
cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho
các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm
nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì
êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Ðó
là lời Chúa.
Suy Niệm : Bí
Quyết Trẻ Trung
Hôm
nay Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.
Sống
cách chúng ta trên 7 thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh
trẻ trung. Chưa có vị thánh nào trong Giáo Hội được nhắc nhở, yêu mến như thánh
nhân. Chưa có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật
cho bằng thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách
mạng ca tụng cho bằng thánh nhân.
Sứ
điệp của thánh nhân siêu việt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện
thân của tuổi trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi
luôn biết giữ một tâm hồn tươi trẻ. "Tuổi tác không phải là điều kiện thể
lý cho bằng bầu khí của tâm hồn". Có lẽ thánh nhân không phải là người đã
nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn ngài đã sống theo châm ngôn ấy.
Ngài
biết giữ mãi cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng
cách chống cự lại các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo
lắng, không buồn giận.
Những
khám phá của khoa học tâm lý ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống
một cách trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ,
các nhà tâm lý học khuyên chúng ta như sau:
-
Hãy tập yêu thích những gì không quá đắt giá.
-
Hãy tập yêu thích việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc.
-
Hãy tập yêu thích những thức ăn thanh đạm.
-
Hãy tập yêu thích tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn
rã của trẻ em.
-
Hãy tập yêu thích trồng trọt, làm việc tay chân.
-
Hãy tập yêu thích ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà
cũng như cảnh tuyết rơi.
-
Hãy tập yêu thích những nhu cầu đơn giản nhất.
-
Hãy tập yêu thích công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc.
-
Hãy tập yêu người, dù người không giống ta.
Không
khí, ánh sáng, mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những
yếu tố cần thiết để tạo cho bầu không khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó
không là những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp trong bài ca vạn vật của thánh
Phanxicô Assisi?
Một tâm hồn luôn luôn tươi trẻ: đó không chỉ là một
bí quyết để được hạnh phúc trên đời này, nhưng còn là một đòi hỏi đối với người
Kitô. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: "Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước
Trời thuộc về những ai giống chúng. Ta nói thật với các con: nếu các con không
đón nhận nước Trời như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời".
Thứ Bảy sau Chúa Nhật
26 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) G 42, 1-3. 5-6. 12-16
"Giờ
đây mắt con nhìn thấy Chúa. Bởi đó chính con trách thân con".
Trích
sách ông Gióp.
Ông
Gióp thưa lại cùng Chúa rằng: "Con biết Chúa làm nên mọi sự, và không một
tư tưởng nào giấu được Chúa. Ai là kẻ mê muội che khuất được ý định của Chúa?
Vì thế, con nói bậy về những điều vượt quá sự thông biết của con. Trước kia con
nghe tiếng Chúa, còn giờ đây mắt con nhìn thấy Chúa. Bởi đó, chính con trách
thân con, và ăn năn sám hối trong bụi tro".
Sau
này Chúa giáng phúc cho ông Gióp nhiều hơn lúc ban đầu. Ông có mười bốn ngàn
con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò và một ngàn lừa cái. Ông còn sinh
được bảy trai ba gái. Người con gái thứ nhất ông đặt tên là Nhật, người thứ hai
tên Hương, và người thứ ba tên Bình. Trong khắp nước, không tìm thấy thiếu nữ nào
xinh đẹp như các con gái của ông Gióp. Thân phụ của các cô cũng chia phần gia
tài cho các cô như những anh em trai. Sau đó, ông Gióp còn sống được một trăm bốn
mươi năm nữa, và nhìn thấy con cháu đến bốn đời. Khi cao niên đầy tuổi, ông đã
qua đời.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 118, 66. 71. 75. 91. 125. 130
Ðáp: Lạy Chúa, xin
tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu (c. 135a).
Xướng:
1) Xin Chúa dạy con sự thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị
của Ngài. - Ðáp.
2)
Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
3)
Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. -
Ðáp.
4)
Theo chỉ dụ Chúa mà vũ trụ luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục
vụ Ngài. - Ðáp.
5)
Con là tôi tớ Chúa, xin Chúa dạy dỗ con, để con hiểu biết những lời Ngài nghiêm
huấn. - Ðáp.
6)
Sự mạc khải lời Ngài soi sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 118, 34
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để
con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 10, 17-24
"Các
con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy
thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan
từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết,
bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con.
Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui
mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc
trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng
Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều
này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. -
Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha;
cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được
Chúa Con muốn tỏ cho biết". Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và
phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy,
vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều
các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng
được nghe".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Niềm
Vui Ðích Thực
Chúa
Giêsu chọn 72 môn đệ và sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ gặp nhiều chống đối,
nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công. Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng sau một
thời gian ra đi rao giảng, các ông hớn hở trở về nói lên niềm vui của mình, vì
đã nhờ quyền năng của Chúa mà xua trừ được ma quỉ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho
các ông thấy rằng Ngài đến là để giải phóng con người nô lệ và đưa họ tới tự do
đích thực.
Giải
phóng con người khỏi ách nô lệ và đưa con người vào tự do đích thực, đó là sứ mệnh
mà Giáo Hội tiếp tục thực thi trong thế giới này. Chúng ta có thể nhận ra sứ mệnh
ấy qua diễn văn Ðức Gioan Phaolô II đọc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc vào ngày
5/10/1995. Ðức Thánh Cha ghi nhận rằng con người càng ngày càng tìm kiếm tự do
và đây chính là điểm nổi bật của thời đại chúng ta. Sự tìm kiếm tự do ấy đặt nền
tảng trên các quyền phổ quát của con người. Chính vì phản ứng lại những hành vi
man rợ đối với phẩm giá con người, mà chỉ ba năm sau khi thành lập, Liên Hiệp
Quốc đã công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ðây là một gia sản chung của
nhân loại, nó bắt nguồn từ chính bản tính của con người, trong đó có phản ánh
những đòi hỏi khách quan và không thể hủy bỏ được của một luật luân lý phổ
quát.
Sống
theo những khát vọng cao thượng nhất của mình, con người có thể làm được những
điều xem ra vượt quá khả năng của nó. Ðó là sứ điệp chúng ta có thể đọc thấy
trong Tin Mừng hôm nay: các môn đệ ra đi với hai bàn tay trắng, họ không có một
khí giới nào khác ngoài sự siêu thoát và niềm tin vào quyền năng của Chúa
Giêsu. Vậy mà khi nói về những thành quả của họ, chính Chúa Giêsu đã thốt lên:
"Ta đã thấy Satan như tia chớp từ trời rơi xuống". Ðó chính là sức mạnh
của những người mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn.
Ngày
nay, người Kitô hữu cũng có thể thực hiện được những điều cả thể ấy nếu họ cũng
biết trang bị cho mình một niềm tin vào quyền năng của Chúa, nhất là nếu họ biết
sống theo những khát vọng cao thượng nhất của con người. Những khát vọng đó là
gì, nếu không phải là tự do, công bằng, bác ái, liên đới. Nếu họ thực sự sống
theo những khát vọng thâm sâu ấy và sống tín thác nơi Thiên Chúa ngay cả khi gặp
thất bại khổ đau, lúc đó họ mới có thể hưởng được niềm vui đích thực mà các môn
đệ Chúa Giêsu đã bày tỏ khi gặp lại Ngài.
Ước
gì mỗi người chúng ta luôn nếm được niềm vui đích thực ấy trong cuộc sống hằng
ngày.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Kính Thánh Phanxicô
Khó Khăn
Bài đọc: Gal 6:14-18, Psa
16; Mt 11:25-30
I. CHỦ ĐỀ: Không có gì quí hơn là
Thập Giá của Đức Kitô.
Thánh
Phanxicô là con của một thương gia rất giàu có tại Assisi. Cha của ngài là người
buôn tơ lụa và muốn ngài nối tiếp sự nghiệp của ông; nhưng Phanxicô được Chúa
soi sáng đã sớm nhận ra sự phù hoa của giàu có bằng cách giúp ngài hiểu thấu
đáo về mầu nhiệm Thập Giá. Đức Kitô là Thiên Chúa, Ngài có tất cả mọi sự trên
trời dưới đất; nhưng đã tự huỷ mình ra không để gánh lấy hình phạt của tội lỗi
cho nhân loại. Trên Thập Giá, Ngài nghèo đến nỗi chỉ còn một miếng vải che thân
trong khi gánh mọi đau thương của cực hình chỉ vì yêu thương nhân loại.
Khi
đã nhận ra tình yêu này, Phanxicô đã bắt chước gương Đức Kitô để đáp trả lại
tình yêu vô bờ Đức Kitô đã dành cho ngài bằng cách từ chối không theo nghề nghiệp
của thân phụ. Khi biết rõ ý định của con muốn tận hiến cuộc đời cho Chúa, cha của
ngài đã đuổi ngài ra khỏi nhà; và mỗi khi ngài đi khất thực ngang qua nhà, ông
xua đầy tớ ra đánh đập, chửi rủa với hy vọng làm cho con đổi ý định. Một lần
sau khi đã bị hành hạ, ngài đã cởi bỏ bộ quần áo đang mặc trên người trả lại
cho cha và nói, “Đây là của cha, con xin trả lại cho cha; còn thân xác này của
Chúa dựng nên từ nay thuộc trọn về Thiên Chúa.” Giáo Hội khi tôn phong ngài, đã
gọi ngài là “Nữ Hoàng Khó Nghèo.”
Các
bài đọc hôm nay soi sáng cho chúng ta hiểu mầu nhiệm giầu có và sâu thẳm của Thập
Giá cùng với sự phù hoa của giầu có thế gian. Trong bài đọc I, chắc chắn thánh
Phaolô cũng đã cảm nhận được tình yêu của Đức Kitô dành cho ngài khi suy ngắm về
mầu nhiệm Thập Giá. Một khi đã hiểu được mầu nhiệm này, ngài cảm thấy tâm hồn
bình an; vì nếu Thiên Chúa đã yêu thương con người bằng cách hy sinh Người Con
Một chết cho con người như thế, còn gì có thể làm mà Ngài lại từ chối không ban
cho con người? Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tạ ơn Thiên Chúa đã mặc khải mầu nhiệm
Nước Trời cho những kẻ bé mọn; mà không cho những người khôn ngoan, thông thái.
Chỉ có những ai hiền lành và khiêm nhường mới có thể mở lòng trí để đón nhận những
mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa, hành động theo những chỉ dạy của Ngài và tìm
được sự bình an đích thực cho tâm hồn.
II. PHÂN TÍCH:
1/
Bài đọc I:
Niềm xác tín của người môn đệ: “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá
Đức Giêsu Kitô.”
1.1/
Làm sao để có bình an?
(1)
Thập giá Đức Giêsu Kitô là niềm hãnh diện của người tín hữu: Đây là bốn câu cuối
cùng của Thư Galat, và thánh Phaolô muốn tổng kết những gì Ngài đã nói với các
tín hữu trong toàn Thư. Người tín hữu không được tìm sự hãnh diện nơi bất cứ điều
gì thế gian dâng tặng như: uy quyền, danh vọng, tiền của, hưởng thụ... Niềm
hãnh diện của người tín hữu là ở nơi Thập Giá của Đức Kitô, vì nhờ cây Thập Giá
này mà họ được rửa sạch tội lỗi và được giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Phaolô
tuyên xưng: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá
đối với tôi, và tôi đối với thế gian.”
(2)
Qui tắc để có bình an: Đối
với các Kitô hữu, không phải hệ tại ở việc cắt bì, cũng chẳng phải ở việc giữ
Luật, nhưng là ở chỗ trở nên một tạo vật mới: theo sự hướng dẫn của Thánh Thần
để hoàn toàn sống cho Đức Kitô. Thánh Phaolô dạy: “Quả thật, cắt bì hay không cắt
bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. Chúc tất cả những
ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Israel của Thiên Chúa được hưởng bình an và
lòng thương xót của Người.”
Bình
an này có liên kết mật thiết với niềm tin của người tín hữu vào Đức Kitô: một
khi đã biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu không còn lo lắng về
tội lỗi và về sự chết nữa. Họ biết nếu họ tin và tuân giữ những gì Đức Kitô dạy
bảo, họ sẽ được sống đời đời với Thiên Chúa. Chính sự xác tín này làm cho họ được
bình an trong tâm hồn.
1.2/
Tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giêsu: Trong cuộc đời, người
tín hữu phải đương đầu với biết bao nhiêu những lạc thuyết của thế gian và các
tôn giáo khác nhau. Một khi đã biết rõ ràng Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người
tín hữu đừng để cho bất cứ người nào làm lung lay niềm tin của mình, đừng để
cho bất cứ sự gì lôi cuốn mình khỏi Thập Giá của Đức Kitô, và đừng để cho những
dấu tích của Đức Kitô in trên thân thể bị xóa nhòa. Những “dấu tích” thánh
Phaolô nói ở đây có thể là “5 dấu thánh” mà thánh Phanxicô Khó Khăn, thánh
Catarina Sienna, hay Cha Piô được chịu; cũng có thể là những đau khổ để lại
trên thân xác sau khi đã trải qua những gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô; hay
có thể hiểu một cách thiêng liêng: những chứng tích mà bí-tích Rửa Tội để lại
trong linh hồn các tín hữu.
2/
Phúc Âm:
“Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”
Chúa
Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan và thông thái (sophos, sunetos)
với kẻ bé mọn (nêpios), để nói với khán giả: họ cần có thái độ của trẻ
thơ là tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Ngài chuyển thông cho họ những
kiến thức về Thiên Chúa. Một thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản họ nhận
ra những gì Ngài muốn mặc khải cho họ.
2.1/
Kiến thức về Thiên Chúa:
"Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ
Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con
muốn mặc khải cho."
(1)
Chúa Giêsu là người biết về Chúa Cha rõ ràng hơn ai hết: Động từ Hy-lạp dùng
ở đây là "epiginôskô," biết như một con người hay sự vật là.
Con người hiểu biết về Thiên Chúa với nhiều cấp độ khác nhau; nhưng chỉ có Chúa
Giêsu hiểu biết Thiên Chúa trong cấp độ hoàn hảo nhất. Điều này không ngạc
nhiên, vì Chúa Giêsu là chính Lời hay tư tưởng của Thiên Chúa. Ngài và Cha Ngài
là một.
(2)
Con người biết Thiên Chúa qua mặc khải của Chúa Giêsu: Nếu Thiên Chúa
không chọn để mặc khải cho con người, con người không bao giờ có thể biết Thiên
Chúa. Đức Kitô chính là mặc khải của Thiên Chúa; Ngài đến để mặc khải cho con người
biết về Chúa Cha, như Ngài đã tuyên bố với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy
Cha.” Hơn nữa, để con người có thể hiểu những mặc khải này, họ cần được Thánh
Thần do Chúa Cha sai tới để hướng dẫn và thúc đẩy từ bên trong.
2.2/
Hai điều quan trọng chúng ta cần học hỏi cùng Chúa Giêsu: Người môn đệ tuy vẫn
phải mang ách và mang gánh nặng; nhưng họ không mang chúng theo cách của thế
gian, mà mang chúng theo cách của Đức Kitô. Để biết mang ách và gánh đúng cách,
họ cần phải học với Đức Kitô. Hai nhân đức quan trọng họ cần học nơi Ngài:
(1)
Hiền lành: Đây
là mối thứ hai trong Bài Giảng Trên Núi. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền
tiêu diệt những ai nói những lời xúc phạm, đánh đòn, và giết chết Ngài; nhưng
Ngài đã không làm những chuyện đó. Ngài chọn con đường tha thứ: “Lạy Cha! Xin
tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Ngài hòa giải con người với
nhau và với Thiên Chúa. Ngài dạy phải thương yêu, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ
thù. Con người cũng thường có khuynh hướng yêu thích những ai hiền lành, nhã nhặn,
và tha thứ.
(2)
Khiêm nhường: là
nhân đức diệt trừ tính kiêu ngạo, tội đầu tiên trong bảy mối tội đầu. Không ai
thích người kiêu ngạo và tâm lý chung chẳng ai thích người hay “nổ.” Khiêm nhường
là biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người khiêm
nhường biết mọi sự mình có được là do Thiên Chúa ban, nên họ không huyênh hoang
lên mặt với người khác; nhưng biết dùng tài năng để mở mang Nước Chúa và phục vụ
anh em. Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa và luôn bất an vì sợ người
khác hơn họ. Họ bất an khi không nhận được những gì họ muốn và khó chịu với mọi
người.
III. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta hãy đến và học với Đức Kitô trên Thập Giá, vì Ngài sẽ dạy cho chúng ta
những bài học khôn ngoan mà chúng ta không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu trên thế
gian này.
-
Không một ai trên đời này yêu thương chúng ta bằng Đức Kitô. Ngài đã chứng tỏ
cho chúng ta tình yêu thâm sâu của ngài qua cái chết đau thương trên Thập Giá để
gánh chịu mọi hình phạt thay cho chúng ta.
-
Nếu chúng ta đánh đổi tình yêu của Đức Kitô cho sự giàu có thế gian, chúng ta
đã rơi vào bẫy của ma quỉ và trở thành những kẻ rồ dại và đang thương nhất trên
đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 26
Lc 10,17-24
A. Hạt giống...
1. Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các
môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp
này Đức Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ : Ngài chia vui với họ vì những
thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã
coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”)
2. Chúa Giêsu lại liên tưởng đến những kẻ không
đón nhận Tin Mừng vì lòng trí họ kiêu căng tự mãn. Những người này khác hẳn với
những tâm hồn đơn sơ bé mọn đã đón nhận Tin Mừng do các môn đệ rao giảng. Và
Ngài cảm tạ Chúa Cha về việc đó.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con chớ vui mừng vì các tà thần phải vâng
phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời” : sau những
thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, tôi cũng rất vui. Tôi vui vì
những thành công đó, tôi vui vì được người ta khen ngợi, tôi vui vì đã phục vụ…
Chúa Giêsu nhắc tôi một niềm vui lớn hơn gấp bội : vui vì được kể là công dân
Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn
mai sau.
2. “Con xưng tụng Cha vì đã dấu không cho những
người thông thái khôn ngoan biết những điều ấy…” : Tôi cũng xưng tụng cảm tạ
Thiên Chúa vì đã ban cho tôi được đức tin, được biết Chúa. Nhiều người thông
thái khôn ngoan hơn tôi đã không được những ơn này. Đức tin là một ơn ban chứ
không phải là thành quả của công lao con người.
3. “… nhưng đã tỏ ra cho những kẻ đơn sơ” : xin
cho con càng ngày càng đơn sơ hơn nữa : đơn sơ với Chúa, đơn sơ với lương tâm
con và đơn sơ với mọi người, vì đơn sơ là điều kiện thuận lợi con được Chúa dạy
bảo và ban ơn.
4. “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết : nhiều
ngôn sứ và nhiều vua Chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được
thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc 10,24)
Môsê, Đavít, Êlia tất cả đều sống trong sự chờ
đợi. Chờ đợi lời Thiên Chúa hứa ban Con của Ngài đến được thực hiện. Họ mong
được nhìn thấy Con Thiên Chúa, mong được nghe Ngài giảng dạy về Nước Trời.
Các tông đồ đã sống, đã đồng hành với Ngài trên
mọi nẻo đường. được Ngài dạy dỗ, được sai đi rao giảng Nước Trời. Các ông đã
được thấy phép lạ Người làm. Được nghe Ngài nói về Chúa Cha và Nước Trời, nhưng
các ông vẫn sống trong hoài nghi cho đến khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết.
Ngày nay, Ngài cũng nói với tôi mỗi ngày qua Tin
Mừng, qua anh em tôi. Tôi vẫn thấy Ngài bị treo thánh giá, nơi những người cùng
khổ, những người bị áp bức bất công, nơi những tâm hồn thống hối trở về. Tôi đã
thấy Ngài sống lại vinh quang và những phép lạ Ngài làm trong cuộc sống quanh
tôi. Tôi có thấy mình hạnh phúc hơn các ngôn sứ, các vua Chúa, các tông đồ
không ? Hay tôi cũng là môn đệ của chủ nghĩa hoài nghi ?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết vui mừng và tin
vào những gì Ngài đã làm cho con cũng như nói với con hằng ngày. (Hosanna)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
04/10/14 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 26 TN
Th. Phan-xi-cô Át-xi-di
Lc 10,17-24
Th. Phan-xi-cô Át-xi-di
Lc 10,17-24
Suy niệm: Các nhà tâm lý khám phá ra rằng
khi lòng con người tích cực hướng về đâu thì trong lòng họ sẽ phát sinh một
năng lượng dồi dào giúp họ phát triển tối đa khả năng của mình và đạt được
những thành công khác nhau trong lĩnh vực đó.
Nước Trời được bắt đầu bằng
việc loan báo Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, tẩy trừ các thần ô uế, nhưng mục
đích cao nhất của tất cả những việc đó là để con người được hiệp thông với
chính Thiên Chúa trong hạnh phúc viên mãn. Các môn đệ hết sức hào hứng khi đạt
được kết quả không ngờ trong việc loan báo Tin Mừng: Cả ma quỷ cũng phải khuất phục các ông. Chúa mời gọi họ hướng tới niềm vui cao
hơn: niềm vui vì tên các ông được ghi khắc trên
trời để các ông phát triển hết
mức khả năng của mình và nhắm đến những thành quả cao cả hơn nữa trong công
việc tông đồ.
Mời Bạn: Đâu là những kết quả trong hoạt
động mà bạn tham gia để rao giảng Tin Mừng? Đó là những dấu chứng bạn đã được
đóng ấn niềm vui ơn cứu độ. Bạn hãy khắc ghi niềm vui ơn cứu độ để lòng bạn
tràn đầy một dòng năng lượng giúp bạn vui sống và loan báo Tin Mừng cho mọi
người.
Chia sẻ: Chia sẻ về cách rao giảng Tin
Mừng bằng sự lôi cuốn của niềm vui ơn cứu độ trong cuộc sống của người tín hữu.
Sống Lời Chúa: Hãy luôn nhủ thầm rằng tên con
đã được ghi trên trời.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa Giê-su, chúng con tạ ơn Chúa. Xin khắc ghi trong trái tim con niềm vui ơn
cứu độ. Amen.
Hớn hở vui mừng
Giáo Hội hôm nay cần Mười Hai tông đồ, Nhưng cũng
rất cần Bảy Mươi Hai môn đệ đi tiền trạm cho Chúa Giêsu. Giáo Hội cần những
giáo dân được sai đi để xây dựng Nước Thiên Chúa.
Suy niệm:
Trong
Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã sai nhóm Mười Hai
đi
rao giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh tật (ch. 9).
Họ
là những tông đồ thân tín, sống gần gũi bên Thầy Giêsu.
Nhưng
vì thấy lúa chín đầy đồng, và thợ gặt thì ít,
Đức
Giêsu lại sai thêm bảy mươi hai môn đệ lên đường.
Đây
là một số người khá đông mà Đức Giêsu quy tụ được.
Chắc
họ không luôn luôn ở với Ngài và gần gũi như nhóm Mười Hai,
vì
họ còn phải vất vả lo chuyện gia đình, làm ăn,
nhưng
họ vẫn được Ngài chỉ định và trao phó nhiệm vụ đi tiền trạm.
Ngày
trở về của nhóm Bảy Mươi Hai là một ngày rất vui.
Họ
thi nhau khoe với Thầy về chuyện họ trừ được quỷ dữ,
Họ
đã có kinh nghiệm về Tên của Thầy mình.
“Nhân
danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải lụy phục chúng con” (c. 17).
Những
môn đệ bình thường bắt đầu vui sướng nhận thấy
họ
có thể dũng cảm đối đầu với những mãnh lực đáng sợ
chỉ
nhờ đặt nơi Thầy một lòng tin phó thác đơn sơ.
Đúng
là Xatan đã đến ngày tàn khi Đức Giêsu xuất hiện (c. 18).
Nó
bị sa xuống từ trời, và nước của nó bị đổ nhào bởi Nước Thiên Chúa.
Trước
niềm vui chiến thắng của nhóm Bảy Mươi Hai,
Thầy
Giêsu muốn nhắc họ về một niềm vui khác, lớn hơn nhiều.
Đó
là vui vì tên họ đã được ghi trên trời (c. 20).
Khi
Xatan bị tống khỏi trời, thì các môn đệ có chỗ vững vàng ở đó.
Phúc
cho họ vì được ơn có tên trong sách sự sống (Pl 4,3).
Đây
mới là hạnh phúc và niềm vui đích thật.
Bài
Tin Mừng hôm nay đầy ắp niềm vui.
Niềm
vui từ số đông môn đệ tỏa lan sang Thầy Giêsu.
Vào
ngay giờ ấy, Thầy cũng bất ngờ cảm nếm niềm vui do Thánh Thần,
và
môi Thầy bật lên lời cầu nguyện tự phát.
Vừa
thân thiết, vừa cung kính, Thầy dâng Cha lời tạ ơn:
“Lạy
Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha.”
Thầy
Giêsu ngây ngất trước những việc Cha làm cho các môn đệ.
Tuy
chỉ là những kẻ bé mọn, bình dân,
chẳng
phải là những nhà khôn ngoan thông thái,
nhưng
họ lại được Cha mặc khải những điều mầu nhiệm.
Cha
đã vén mở cho họ tin vàoThầy Giêsu là Con của Cha.
Họ
có niềm tin mà những người kiêu căng tự mãn không có được.
Thầy
Giêsu khâm phục sự sắp đặt kỳ diệu của Cha:
“Vâng,
lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (c. 21).
Chúng
ta có quyền tin rằng,
vào
giây phút cầu nguyện linh thiêng này,
không
phải chỉ các môn đệ và Thầy Giêsu mới đầy ắp niềm vui.
Cả
Chúa Cha trên trời cũng vui, cùng với Chúa Thánh Thần.
Qua
lời cầu nguyện, Thầy Giêsu cho thấy Cha đang mặc khải cho môn đệ.
Và
chính Thầy cũng đang mặc khải về Cha cho họ.
Đây
là giây phút Cha-Con mặc khải về nhau.
Giáo
Hội hôm nay cần Mười Hai tông đồ,
Nhưng
cũng rất cần Bảy Mươi Hai môn đệ đi tiền trạm cho Chúa Giêsu.
Giáo
Hội cần những giáo dân được sai đi để xây dựng Nước Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu,
những
hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm
nay
đã trở thành cây cao
cho
chim trời rủ nhau trú ngụ.
Nhúm
men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột,
đã
làm bột dậy lên,
để
trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới.
Sau
hai mươi thế kỷ,
các
môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ.
Hôm
nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba,
người
công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới.
Chúng
con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian,
cho
đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa.
Xin
cho chúng con đừng mặc cảm
vì
người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam,
nhưng
xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa
trong
việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ.
Hôm
nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa,
gieo
hạt giống để làm nên những cánh rừng,
trở
nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống.
Và
chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công
vì
tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
ĐIỀU ĐÁNG
ĐỂ VUI MỪNG
Sau khi
thực hiện thành công nhiệm vụ mà Chúa Giêsu trao phó, các môn đệ đã trở về vui
mừng phấn khởi và tự hào kể lại cho Chúa Giêsu các thành quả mà các ông đã đạt
được. Khi chia sẻ niềm vui với các môn đệ, Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ
một điều quan trọng hơn và vui mừng hơn đó là các ông nên vui mừng vì “tên
anh em đã được ghi trên trời”. Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ vui mừng vì
là công dân nước trời hơn là những thành công trần thế.
Mỗi khi
tôi hoàn thành một công việc bổn phận hay hoàn thành một điều gì mà người khác
ủy thác, tôi cũng rất vui mừng như các môn đệ trong đoạn Tin mừng này. Lời Chúa
hôm nay cũng là một lời nhắc nhở cho tôi bởi vì:
Có khi tôi
cũng vui mừng vì những thành công trần thế mà quên đi tình thương và ơn lành
của Chúa dành cho tôi, quên điều cần phải vui mừng và biết ơn vì mình là con
của Chúa.
Có khi tôi
chỉ lo chú trọng những việc làm trần thế, những niềm vui trần thế mà quên đi
những bổn phận thiêng liêng, bỏ đi những giây phút gặp gỡ Chúa trong những giờ
cầu nguyện.
Có khi tôi
cũng mải mê chạy theo những nhu cầu vật chất, chạy theo những giá trị trần thế
hay vì danh vọng địa vị trần gian mà tôi đã đánh mất những giá trị thiêng liêng
và đánh mất đời sống thiêng liêng trong cuộc sống thường ngày.
Lạy Chúa,
xin cho con biết đến với Chúa sau những công việc thường ngày, sau những thành
công hay thất bại như các môn đệ ngày xưa, để con được nghe những lời giáo huấn
của Chúa và mỗi ngày con sống đẹp ý Chúa hơn. Amen.
Một
Vị Thánh Khó Nghèo (Lc 9, 57-62)
Nói
về một vị thánh, đề cập đến cuộc đời của một con người là để hiểu biết về người
đó: ca ngợi, bắt chước, noi gương người đó trong những việc làm tốt của họ.
Thánh Phanxicô Assise là vị thánh của tình yêu. Người là một con người triệt để,
vui tươi, trung thực. Cái trung thực của Người đã trở nên nét đẹp nhất của vị
thánh thời danh. Sử gia Joseph Lortz đã từng nói:” Điều mà thế kỷ XX thiếu nhiều
nhất là tính trung thực”. Thánh Phanxicô Assise là người đã làm rõ nét và sự nổi
bật nét trung thực của con người. Chính sự thực tế, bền bỉ, sâu sắc của con người
thánh Phanxicô Assise đã nói lên tình yêu của Ngài đặt nơi đâu? Ngài luôn muốn
họa lại hình ảnh của một Giêsu Nagiarét khó nghèo, một vị vua tình yêu cao vời,
nhưng lại sống chân thực không hoa mỹ, không hời hợt, không lòe loẹt. Thánh
nhân đã sống hết mình, đã sống con người thực nhất của mình. Ngài đã tự ví mình
như “một người điên kiểu mới giữa thế gian”.
Phanxicô
điên vì Ngài nhìn thấy tình yêu của Thiên Chúa chan hòa khắp nơi, khắp chốn, khắp
trời đất, khắp vũ trụ, nhưng tất cả đều xoay chung quanh Chúa Kitô. Vì chính
Chúa Kitô là trung tâm của tất cả mọi sự trên trời dưới đất, trung tâm của lịch
sử cứu rỗi con người. Thánh Phanxicô Assise muốn kéo mọi người lại với Chúa
Giêsu vì Người là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi loài thọ sinh (
Col 1, 15-17).
Vào
khoảng năm 1182, thánh nhân được sinh ra tại Assise trong một gia đình đạo đức.
Cha Ngài là ông Bênađô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng. Mẹ Ngài là bà Pica,
một bà mẹ nổi tiếng đạo hạnh. Cả hai ông bà đã hun đúc Phanxicô trở thành vị
thánh nổi tiếng thời danh. Thánh nhân đã được cảm hóa bởi câu Kinh Thánh:” Lạy
Cha chúng tôi ở trên trời “. Bị bắt, bị cầm tù một năm, bị lâm trọng bệnh và được
chữa lành, thánh nhân đã cảm nghiệm sâu xa lời Thiên Chúa. Ngài quyết định bỏ tất
cả, sống cuộc đời hoàn toàn nghèo khó để nên giống Chúa Kitô năm 1206. Bị Cha
già phản đối, dù rằng hiếu thảo là trên hết, nhưng Phanxicô Assise không dám chống
lại ý Chúa. Ngài đã bán tất cả của cải của mình, phân phát cho những người
nghèo khó và chỉ khoác trên mình một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi đi loan báo Tin
Mừng cho Thiên Chúa. Con đường của Chúa huyền diệu. Ngài được chính Thiên Chúa
thúc đẩy thành lập Dòng Anh em hèn mọn, khó nghèo. Rồi, Ngài lui về Alverne, một
nơi cô tịnh, hoang sơ thuộc phía bắc Assise để suy niệm, ăn chay, cầu nguyện.
Lúc xuất thần, thánh nhân nhìn thấy thiên thần Sêraphim và một cây thánh giá. Tỉnh
dậy, Ngài thấy được Chúa in năm dấu thánh trên thân xác Ngài lúc đó vào năm
1224. Hai năm sau đó, Ngài lâm bệnh nặng. Trước khi ra đi về với Chúa, Ngài đã
khuyên nhủ anh em trong Dòng:” Hãy sống khó nghèo và sống đức tin sâu xa vào Hội
Thánh Chúa”. Ngày 04/10/1226, thánh nhân ra đi về với Chúa trong sự an bình và
thánh thiện tuyệt vời. Đức Thánh Cha Grêgoriô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.
Thánh
Phanxicô đã sống khó nghèo tuyệt đối. Ngài muốn bắt chước Chúa, muốn noi gương
đức Mẹ để sống cuộc đời khó nghèo. Do đó, Ngài đã kéo mọi người, kéo mọi vật, mọi
thụ tạo lại gần Thiên Chúa. Ngài đã gọi nhân đức nghèo là” Bà Chúa nghèo”, Ngài
đã gọi Mặt Trời là Anh Mặt Trời, Mặt Trăng là chị Mặt Trăng, thần chết là chị
chết vv…Ngài muốn nói lên một thực tế là tất cả đều do Tình Yêu của Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, mọi sự, mọi vật, mọi loài, kể cả con người đều hòa quyện nơi
Tình Yêu của Chúa và như thế, tất cả đều trở nên bài ca tình yêu muôn thuở, cảm
tạ tri ân Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin
Chúa ban cho chúng con được bắt chước đời sống khó nghèo của thánh Phanxicô
Assise mà biết lướt thắng vinh hoa phú quý để càng ngày càng gia tăng lòng yêu
mến Chúa và cảm thông chia sẻ với anh chị em nghèo khó. Amen.
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4
THÁNG MƯỜI
Thánh
Phanxicô Assisi,
Một
Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải
Khuôn
mặt Thánh Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc hành trình nhân loại của chúng ta một
sắc thái Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó
ngài giúp những tâm hồn ly cách được hòa giải với Giáo Hội và xã hội.
Lối
sống nghèo của Asissi thật vô cùng phong phú giữa những nẻo đường nên thánh của
Kitô giáo. Không thể chối cãi rằng một trong những sứ điệp cảm kích – mà Thánh
Phan-xi-cô vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm vang dội trong lương tâm của
con người thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy đối với hòa bình.
Sau
khi toàn tâm dấn mình theo tiếng gọi của Thiên Chúa, ngài và các môn đệ đầu
tiên của ngài rảo qua các thành thị, làng mạc. Thầy trò dừng lại ở các quảng
trường và các khu dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết sức đơn sơ nhưng vô cùng
hàm súc: an bình và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói lên không chỉ đơn thuần
như một điều khát khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn thân thúc bách các
thính giả của ngài, những người thường bị rơi vào tình trạng phân hóa và xung đột:
tôn giáo này chống tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với thành phố nọ, xung đột
giữa các xóm thôn, các gia đình.
Ở
nước Ý thời Trung Cổ có một từ ngữ được khơi lên và gây âm vang rất lớn, một từ
rất đơn sơ tầm thường song cũng cưu mang rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng.
Đó là một từ của Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài là một con người được Bà Chúa
Nghèo yêu mến, một con người thực sự là anh em chân tình của bất cứ ai mà ngài
gặp gỡ.
Người
tu sĩ khiêm tốn này được những người đương thời đánh giá là “con người mới, được
gởi xuống từ trời cao” (FF 1212). Trong tinh thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự
nguyện trở thành nhịp cầu nối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng
thăm vua Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ
đích thực để loan báo cho nhà vua sứ điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.
Chúng
ta có thể nói rằng thánh Phanxicô không chỉ là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa,
ngài là nhà xây dựng và là kiến trúc sư của hoà giải và hoà bình. Ngài nói:
“Chúa đã mặc khải cho tôi lời chào mà chúng tôi vẫn sử dụng, đó là ‘Xin Chúa
ban bình an cho bạn’” (FF 121). Tôma Celano, người viết tiểu sử của ngài, đã khắc
họa dung mạo nghèo khó nơi ngài như sau: “Trong các bài giảng, trước khi chia sẻ
lời Chúa cho mọi người, ngài luôn diễn tả khát vọng hòa bình, ngài nói: ‘Xin
Chúa ban bình an cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình an này cách chân thành
cho mọi người nam cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. Bằng cách đó,
nhờ ân sủng Chúa, ngài thường thành công trong việc giúp cho những người chống
lại hòa bình và chống lại ơn cứu độ của chính họ trở thành con cái của hoà bình
và biết khát khao ơn cứu rỗi đời đời” (FF 359).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
04-10
Thánh
Phanxicô Assisi
G
42, 1-3.5-6.12-16; Lc 10, 17-24.
LỜI
SUY NIỆM: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người
Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con,
và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho”
Muốn
Biết về Chúa Giêsu và Chúa Cha. Chỉ có sự mạc khải duy nhất của Chúa Giêsu. Chứ mỗi
người trong chúng ta, không ai được tự hào là đã biết thật về Chúa. Nên mỗi người
cần phải luôn học hỏi, suy niệm Lời Chúa mỗi ngày suốt cuộc đời, dưới sự vâng
phục giáo huấn của Giáo hội. Nếu không, chúng ta sẽ lâm vào cảnh hiểu biết
của các kinh sư và người Biệt phái: khi biết về Chúa Giêsu.
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con được ơn yêu thích học
hỏi Lời Chúa. Để chúng con nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa, và ơn cứu độ
của Chúa đối với chúng con, hầu chúng con ngày càng yêu mến và tôn thờ Chúa
hơn.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
04-10
Thánh
PHANXICÔ ASSISIS
(1181
- 1226)
Thánh
Phanxicô sinh tại Assisi, miền Umbria, năm 1181. Ong Phêrô Bernadone là một
thương gia giầu có, lúc sinh ra thánh nhân, ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho
Ngài theo tên quốc gia này. Thời thơ ấu, thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi
người mẹ nhiệt thành và khả ái. Ngài tỏ ra vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình
dân. Dầu được chuẩn bị để theo nghề buôn bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở
thành hiệp sĩ.
Năm
1201, Phanxicô tham gia cuộc chiến ở Perugia và bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm
đau xót này cùng với cơn bệnh ngặt nghèo là khởi đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu
vậy, năm 1205, Ngài vẫn còn tham dự vào cuộc viễn chinh tại Apulia. Trong một
giấc mơ, Phanxicô được Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục vụ Người. Ngài trở về và
hiến mình chăm sóc các bệnh nhân.
Ngày
16 tháng 4 năm 1206, Phanxicô lại nghe tiếng Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền
thờ thánh Damianô. Luôn mau mắn và tận tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp
nhận sống như một ẩn sĩ. Khi bị cha bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa
con bất phục, thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần
đang mặc nữa.
Hai
năm sau, có lẽ vào ngày 24 tháng 2 năm 1209, Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt
10,9 và thấy mình được ơn gọi đi rao giảng sự thống hối. Đây là giây phút quyết
liệt. Thánh nhân cởi bỏ tu phục ẩn sĩ, mặc áo vải thô, thắt giây lưng và bắt đầu
rao giảng Chúa Kitô. Có hai người bạn đi theo, Ngài cho họ một bản luật gồm ba
câu thánh kinh Mt 20,21; 10,9 và Lc 9,23. Khi con số môn sinh lên tới 11, Ngài
viết cho họ một bản luật vắn (bản Primitiva, nay đã thất lạc), và dân họ tới
Roma để được Đức Giáo hoàng phê chuẩn.
Đức
giáo hoàng Innocentê III, sau phút ngập ngừng, đã nhận ra nơi người giáo dân ngay
thật và nhiệt tình này một tông đồ chân chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6
năm 1210). Nhóm huynh đệ trở về Assisi. Họ sống trong những chiếc chòi ở
Rivetortô. Gần Porziuncola và rao giảng sư thống hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn
sơ, họ làm đủ mọi việc và sống bằng nghề ăn xin. Chính sự đơn sơ như thiên thần
của Phanxicô mà họ coi là hiền huynh và hiền mẫu, là gương sống hứơng dẫn họ
trên đường thiêng liêng. Chưa có một tổ chức nào cả, với phép của Phanxicô, họ
đi khắp nơi, như các anh em thống hối nghèo miền Assisi.
Năm
1212, Phanxicô khích lệ Clara, một thiếu nữ danh giá trong thành phố, thiết lập
nhóm chị em sống đời nghèo khó và cầu nguyện ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở
thành các bà nghèo khó và ngày nay gọi là các nữ tu Clara.
Không
bao giờ Phanxicô muốn lập một "Hội dòng". Ngài chỉ muốn theo Chúa
Kitô trong các sách Tin Mừng một cách hoàn toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy,
nhóm huynh đệ đã theo một hình thức tu dòng nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ
và ăn chung như các tu sĩ. Khi nhóm huynh đệ đã tăng số cách lạ lùng, mau
chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho các người lãnh đạo mà Ngài gọi là "Hiền
mẫu" hay là "tôi tớ" của các nhóm. Hàng năm các anh em họp nhau
một lần tại Porziuncola.
Năm
1216, Phanxicô tham dự đám táng Đ. G.H Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban
ân xá cho thánh đường Perziuncola. Năm sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y
Ugôlinô, là đấng sẽ trung tín bảo trợ Ngài mãivề sau.
Năm
1219. Nhóm huynh đệ tăng số đông đảo và phải chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng
truyền giáo đầu tiên của nhóm vượt qua rặng núi Alpes.
Chính
Phanxicô, bất chấp những cân nhắc khôn ngoan, đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự
quân và đã đến gặp Sultan. Trong khi Ngài vắng mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học
viên mới, có học thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ như con thuyền không lái và rơi
vào cuộc khủng hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết xong khi kêu mời Phanxicô trở về,
nhờ tài khéo léo của Đức hồng y Ugôlinô, và nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông
thường của đời sống tu trì.
Trước
sức ép liên tục, bây giờ Phanxicô phải viết một bản luật chi tiết hơn (bản Regula
Prima) dầu vậy, bản luật này vẫn còn quá đơn sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới
của cộng đoàn về đàng thiêng lêng. Sau khi sửa lại, bản luật mới này được đức
giáo hoàng Honoriô III chấp nhận năm 1223 (bản Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn
còn được xử dụng) Trong khi đó, Phanxicô trở nên yếu đau và lo âu. Ngài trao
quyền quản trị nhóm huynh đệ cho người đại diện. Từ năm 1221, anh Elia đầy bí
nhiệm đảm nhận chức vụ.
Chính
Phanxicô lại lui vào trong núi. Ngày 14 tháng 9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật,
Ngài đã được Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh tình Ngài tăng thêm và trở nên mù
lòa hầu như hoàn toàn. Ngài được bốn anh em trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào
năm 1224, Ngài đã viết "bài ca mặt trời". Năm 1226, Ngài viết chúc
thư (testament) long trọng nhấn mạnh đòi buộc sống nghèo khó tuyệt đối, vâng lời
luật dòng đến từng chữ viết và từ khước mọi đặc ân.
Ngày
02 tháng 10 năm 1226, sau khi viếng thăm Clara cùng các nữ tu và chúc lành cho
thành Assisi, Ngài từ trần tại Porziuncola. Hai năm sau Ngài được bạn cũ là
Ugôlinô bấy giờ là ĐGH grêgoriô IX tôn phong lên hàng hiển thánh. Năm 1228, xác
Ngài được dời về mai táng tại đại giáo đường do anh Elia xây cất.
(daminhvn.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét