08/10/2014
Thứ Tư sau Chúa Nhật
27 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) Gl 2, 1-2. 7-14
"Các
đấng đã nhận biết ơn đã ban cho tôi".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh
em thân mến, mười bốn năm sau, tôi lại lên Giêrusalem cùng với Barnaba và có
đem Titô theo. Tôi đã theo ơn mạc khải mà lên đó, và tôi đã trình bày với các đấng
đó về Tin Mừng mà tôi rao giảng nơi các dân ngoại, tôi bàn hỏi riêng với những
bậc vị vọng, vì e rằng mình đang bôn tẩu hoặc đã bôn tẩu luống công chăng.
Trái
lại, khi các đấng ấy thấy rằng tôi được uỷ nhiệm rao giảng Tin Mừng cho người
không chịu cắt bì, cũng như đã uỷ nhiệm cho Phêrô rao giảng cho những người đã
chịu cắt bì, (vì Ðấng đã ban cho Phêrô làm Tông đồ cho những người đã chịu cắt
bì, cũng đã ban cho tôi làm Tông đồ lo cho các dân ngoại), và khi đã nhận biết
ơn đã ban cho tôi, thì Giacôbê, Kêpha và Gioan, là những vị được kể như cột trụ,
đã bắt tay tôi và Barnaba, tỏ tình thông hảo. Thế là chúng tôi đi sang các dân
ngoại, còn các đấng thì đi đến với những người đã chịu cắt bì. Bấy giờ chúng
tôi chỉ còn phải nhớ đến những người nghèo khổ, và đó là chính điều tôi đã định
tâm thi hành.
Nhưng
khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều
không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa
với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự
lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều
giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ.
Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với
Kêpha trước mặt mọi người rằng: "Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói
người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người
dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng
Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng:
1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người!
- Ðáp.
2)
Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của
Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.
Alleluia:
Mt 4, 4b
Alleluia,
alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng
Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 11, 1-4
"Lạy
Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày
kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ
thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy
môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:
"Lạy
Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ
chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Kinh
Lạy Cha
Cầu
nguyện là một việc quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu: Ngài vào sa mạc 40
ngày để ăn chay và cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ vụ công khai; Ngài đã cầu
nguyện suốt đêm trước khi tuyển chọn các Tông đồ; trong ba năm rao giảng Tin Mừng,
Ngài cũng đã nhiều lần tìm đến nơi thanh vắng để sống những giờ phút thân tình
với Chúa Cha trong cầu nguyện.
Ðược
nhiều lần chứng kiến Chúa Giêsu chìm sâu trong sự kết hiệp với Chúa Cha, và niềm
mong ước được đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha, như Chúa Giêsu, các Tông đồ đã
đến xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện, và Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha.
Trong
Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ gọi Thiên Chúa là Cha. Thực ra, quan
niệm gọi Thiên Chúa là Cha không chỉ phổ thông trong dân tộc Do Thái: Trong Cựu
Ước, nhờ giáo huấn của các Tiên tri, người Do thái gọi Chúa là Cha: Ngài là Cha
của toàn dân; nhưng cả các dân tộc vùng Tiểu Á ngày xưa cũng gọi các thần minh
là Cha. Tuy nhiên, cách xưng hô Cha, tiếng Do thái là Abba, mà Chúa Giêsu dạy
các Tông đồ hoàn toàn khác hẳn với tiếng Cha của người Do Thái trong Cựu Ước.
Ðó là tiếng thông dụng thường ngày nơi miện con trẻ gọi cha mình. Như thế, tiếng
Cha trong Kinh Lạy Cha là nền tảng mạc khải của Chúa Giêsu và là lời tuyên tín
của Cộng đoàn Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập, kêu lên với Thiên Chúa.
Kinh
Lạy Cha là kinh quen thuộc đối với người Kitô hữu chúng ta. Mỗi ngày chúng ta đọc
nhiều lần kinh này, thế nhưng chúng ta đã có thái độ thế nào? Người ta có lý để
bảo rằng chúng ta đọc kinh một cách máy móc, thiếu hồn sống. Sỡ dĩ như vậy là
vì chúng ta chưa ý thức đủ tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, chưa đi vào
quan hệ mật thiết với Thiên Chúa, như con cái đối với cha mình.
Ước
gì những giây phút dành riêng để gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa, giúp chúng ta càng
thêm gắn bó, yêu mến và dấn thân thực thi thánh ý Chúa trong đời sống chúng ta.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 27 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Gal 2:1-2, 7-14;
Lk 11:1-4.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nguyên tắc và hành
động
-
Hành động muốn nhất quán phải theo một nguyên tắc, chứ không tùy hứng lúc nào
muốn làm thì làm khi nào không muốn thì không làm. Trong một cộng đòan cũng thế,
có một số nguyên tắc và qui luật tất cả mọi người phải giữ thì mới có sự hòa điệu
trong cộng đòan. Nếu để mặc ai muốn làm gì thì làm thì cộng đòan sẽ bị xáo trộn
và mất trật tự.
-
Trong việc giáo dục cũng thế, để việc giáo dục các con trong gia đình có hiệu
quả, cha mẹ cần đồng ý với nhau một số qui tắc và triệt để tuân theo. Nếu cha mẹ
giáo dục tùy hứng và không đồng nhất, con cái dễ bị lẫn lộn không biết cái gì tốt
cái gì xấu, không biết phải theo ai và làm khi nào. Kết quả có thể con cái sẽ sống
buông thả mà không cần theo luật lệ.
-
Trong Giáo Hội sơ khai cũng có những vấn đề như thế. Bài đọc I trình bày sự
cách biệt giữa người Do Thái và Dân Ngọai, một bên là Phaolô bên kia là Phêrô,
một số các Tông Đồ, và những người thuộc giới cắt bì. Trong Phúc Âm, khi được
yêu cầu dạy cho các môn đệ biết cách cầu nguyện, Chúa đã dạy cho các ông cách cầu
nguyện trong Kinh Lạy Cha. Kinh này tóm tắt một số các nguyên tắc quan trọng và
cần thiết khi một người cầu nguyện với Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Cần hành động theo qui tắc để bảo vệ sự hiệp nhất trong Giáo Hội.
1.1/
Ý ngay lành của Phaolô:
Sự hiệp nhất trong Giáo Hội là một trong những đề tài quan trọng của các Thư
Phaolô. Trong trình thuật hôm nay, thánh Phaolô muốn hiệp thông với Giáo Hội tại
Jerusalem nên ngài, cùng với Barnaba và Titus, lên đó để trình bày cho Phêrô,
người lãnh đạo Gíao Hội, và một số những người có thế giá trong Giáo Hội, về
Tin Mừng mà ngài rao giảng cho Dân Ngọai. Mục đích của ngài là để cho có sự thống
nhất trong đạo lý để đừng gây ngộ nhận cho các tín hữu mới trở lại theo Chúa.
1.2/
Mỗi người có một sứ vụ khác nhau trong việc rao giảng cùng một Tin Mừng.
-
Trong kế họach của Thiên Chúa, Phaolô được Chúa trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng
cho những người không cắt bì (Dân Ngọai); trong khi Phêrô được Chúa trao sứ vụ
rao giảng Tin Mừng cho những người cắt bì (Do Thái). Sứ vụ tuy có khác nhau
nhưng Đấng đã hoạt động nơi ông Phê-rô, biến ông thành Tông Đồ của những người
được cắt bì, cũng đã hoạt động biến Phaolô thành Tông Đồ các Dân Ngoại.
-
Phải biết tôn trọng sứ vụ của người khác trong việc rao giảng Tin Mừng: Khi nhận
ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho Phaolô, các ông Giacôbê, Phêrô và Gio-an, những
người được coi là cột trụ, đã bắt tay Phaolô và Barnaba để tỏ dấu hiệp thông:
Phaolô và Barnaba thì lo cho các Dân Ngoại, còn Phêrô, Giacôbê và Gioan thì lo
cho những người được cắt bì. Một điều chung tất cả cùng nêu lên là phải nhớ đến
những người túng thiếu.
1.3/
Để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả, những người lãnh đạo phải hành động
theo những nguyên tắc nhất định. Một ví dụ cụ thể là sự xung đột tường thuật hôm
nay: Theo nguyên tắc: “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay
tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô”(Gl
3:28-28), nhưng hành động của các Tông Đồ và đám đông rất khác nhau:
-
Hành động của Phêrô: Ông thường dùng bữa với những người gốc Dân Ngoại trước
khi có những người của ông Giacôbê đến; nhưng khi những người này đến, ông lại
tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì.
-
Hành động của đám đông: Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả
bộ, khiến cả ông Barnaba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.
-
Hành động của Phaolô: Khi ông Phêrô đến Antiôchia, Phaolô đã cự lại Phêrô ngay
trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách và không đi đúng theo chân lý của Tin
Mừng. Phaolô đã sửa sai Phêrô trước mặt mọi người: "Nếu ông là người Do
Thái mà còn sống như người Dân Ngoại, chứ không như người Do Thái, thì làm sao
ông lại ép người Dân Ngoại phải xử sự như người Do Thái?"
2/
Phúc Âm:
Sự quan trọng của cầu nguyện trong Tin Mừng Luca.
2.1/
Không phải ai cũng biết cách cầu nguyện: Theo phong tục của Do Thái, các Rabbi thường dạy cho
các môn đệ một kinh đơn giản để họ có thể dùng hằng ngày để cầu nguyện. Gioan Tẩy
Giả cũng làm như thế cho các môn đệ của ông. Và hôm nay, một người trong nhóm
môn đệ của Chúa Giêsu cũng đến và nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng
con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông." Lý do tại sao
phải dạy là vì các môn đệ không biết cách cầu nguyện làm sao cho đúng: cái gì
cũng xin, xin những điều hại cho người khác, chỉ biết ích kỷ xin cho mình …
2.2/
Chúa Giêsu dạy cho môn đệ cách cầu nguyện: Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy
nói: "Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến,
xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng
con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng
để chúng con sa chước cám dỗ."
Quan
sát những lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy có những nguyên tắc sau:
(1)
Những gì liên quan tới Thiên Chúa: Trước tiên, lời cầu nguyện được dâng lên Thiên Chúa
là Cha chứ không phải bất cứ ai khác; Người luôn yêu thương và quan tâm đến nhu
cầu của con cái mình. Tất cả những gì thuộc Thiên Chúa phải được con người quan
tâm đến trước những nhu cầu của cá nhân con người: xin làm cho thánh danh Cha
vinh hiển chứ không xin làm vinh danh con, xin cho triều đại Cha mau đến chứ
không xin cho triều đại của con đến trước Cha. Cầu nguyện nhưng cũng nhận ra bổn
phận của người con: làm vinh danh Cha và làm cho triều đại Cha mau đến bằng những
công việc và cách sống của mình; để mọi người nhìn thấy và ngợi khen Cha trên
trời.
(2)
Những gì liên quan tới con người: cả quá khứ, hiện tại, và tương lai.
-
Hiện tại: Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy;
-
Quá khứ: Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc
lỗi với chúng con.
-
Tương lai: Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải hành động theo những nguyên tắc nhất định trong đời sống cá nhân,
gia đình, và cộng đòan; để bảo vệ sự hiệp nhất của tập thể. Cần hiểu biết lý do
và sự quan trọng của các nguyên tắc trước khi hành động và dạy người khác làm
như thế.
-
Chúng ta cần phải nhận ra và tôn trọng sứ vụ của mọi người trong kế họach cứu độ
của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 27
Lc 11,1-4
A. Hạt giống...
1. Câu 1b “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu
nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ ông”. Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín
ngưỡng có một bài kinh riêng, đặc trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu
sắp dạy cũng là đặc trưng của Kitô giáo. Nét đặc trưng rõ nhất được thấy trong
một từ chìa khoá lắp đi lặp lại rất nhiều lần, từ “Cha” : kitô hữu được làm con
Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha.
2. Vì là một bài kinh rất ngắn gọn cho nên những
điều được nói trong đó đều là những điều then chốt nhất. Nói cách khác, những
lời xin trong bài kinh này cho ta biết những điều mà kitô hữu cần quan tâm nhất
là gì :
a/ Đối với Chúa : sao cho người ta được biết Chúa
(“Xin làm cho danh Cha vinh hiển”) ; sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa
(“triều đại Cha mau đến”)
b/ Đối với chính bản thân mình : có lương thực
hằng ngày, được Cha tha thứ và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa
chước cám dỗ.
B.... nẩy mầm.
1. Văn mạch : Tin Mừng Mt ghi Kinh Lạy Cha trong
văn mạch Chúa Giêsu đang dạy cho các môn đệ mình cách thi hành những việc đạo
đức (làm việc đạo đức cách kín đáo, đừng phô trương). Còn Tin Mừng Lc ghi kinh
này sau khi một môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cho nhóm môn đệ mình một bài kinh
riêng của nhóm, để phân biệt với các nhóm tín ngưỡng khác. Như thế Kinh Lạy Cha
là kinh nguyện độc đáo của Kitô giáo. Tìm hiểu Kinh Lạy Cha, ta có thể biết
những điểm độc đáo của sự cầu nguyện Kitô giáo là gì. Điểm độc đáo đầu tiên là
Kitô hữu được gọi Thiên Chúa là Cha (Abba) một cách rất thân thương gần gũi.
2. Một cậu bé bệnh nặng sắp chết. Cha cậu bé hỏi
:
- Con sợ chết không con ?
- Thưa ba, không, nếu như Thiên Chúa cũng giống
như ba, cậu đáp (“Sunday school Times”)
3. 2 Sam 18,33 : Thái tử Absalom nổi loạn định
lật đổ cha là Đavít. Nhưng quân đội của Đavít đã phản công và giết chết
Absalom. Khi một người lính từ chiến trường trở về vui mừng báo tin cái chết
của kẻ phản loạn, Đavít đã xé áo mình ra và kêu lên thảm thiết “Absalom con ơi,
Absalom con ơi. Phải chi cha được chết thay cho con !”
4. “Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với
một người bạn : “Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng
không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong
đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ : nếu quả thật Thiên
Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”. Người
bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc
lại Kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mặc khải qua
kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái”
(Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
5. “Cả đời Chúa Giêsu chỉ xoay quanh một nguyên
tắc này “Ta đến để làm theo ý Cha Ta”... Chúng ta hãy thử xem chúng ta có để
cho ý Chúa được nên một với chúng ta không ? Chúng ta có cố tình lầm lẫn ý của
chúng ta thay cho ý Chúa không ? Chúng ta hãy nhớ câu chuyện Giona (bài sách
thánh hôm nay)... “ (trích “TMCGK ngày trong tuần”)
6. “Chúng ta không thể cầu nguyện Kinh Lạy Cha mà
chúng ta không có đóng góp gì vào vinh quang Nước Chúa trị đến. Cũng như chúng
ta không thể xin cho cơm bánh hằng ngày dùng đủ mà lại cứ ngồi há miệng chờ
sung. Kinh nguyện là hành động của lòng tin. Ta phải minh chứng bằng việc làm”
(Trích “TMCGK ngày trong tuần”)
7. Một bác chèo đò chở một thanh niên trên chiếc
thuyền của mình. Chiếc thuyền có hai mái chèo. Trên một mái chèo có chữ “cầu
nguyện”, trên mái chèo kia có chữ “làm việc”. Chàng thanh niên nói với giọng
châm biếm :
- Nếu đã làm việc thì cần gì phải cầu nguyện nữa.
Bác lái đò chẳng nói gì, buông tay không chèo mái
“cầu nguyện” nữa, chỉ chèo bằng mái chèo “làm việc”. Chiếc thuyền cứ quay vòng
vòng chẳng tiến được chút nào cả. Khi ấy chàng thanh niên hiểu rằng ngoài mái
chèo “làm việc” còn cần thêm mái chèo “cầu nguyện” nữa thì thuyền đời mới tiến
được. (Đức Cha Tihamer Toth).
8. Một lần kia cùng dự Thánh lễ với một nhóm sinh
viên, tôi cấm lòng cầm trí đọc chung Kinh Lạy Cha với họ, và bỗng cảm thấy
những điều Chúa Giêsu bảo tôi xin chứa đựng rất nhiều ý nghĩa :
- Lạy Cha chúng con… : tất cả chúng tôi đang ở
đây đều có một người Cha chung.
- Nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đền, ý
Cha thể hiện… : nhưng chỉ có một nhóm nhỏ này được biết Cha, còn biết bao nhiêu
sinh viên học sinh khác nữa…
- Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày : tôi nghĩ đến những bạn chung quanh. Họ ăn cơm tháng, mỗi tháng chỉ hơn
100 ngàn, đồ ăn rất đạm bạc, buổi sáng thường nhịn đói.
- Và tha nợ chúng con : họ là những người trẻ,
nhiều sai sót lỗi lầm, nhiều tội..
- Xin cớ để chúng con sa chước cám dỗ : có biết
bao cám dỗ vây quanh họ, trong trường học, ngoài xã hội, ở chợ đời…
9. Chúa Giêsu bảo các môn đệ : khi cầu nguyện anh
em hãy nói : “Lạy Cha, xin hãy làm cho danh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau
đến.” (Lc 11,2)
Lạy Cha, con biết rằng danh Cha vinh hiển thì mọi
sự thế gian này sẽ tốt hơn ! Con biết rằng Cha dựng nên con nhằm để con làm
sáng danh Cha.
Để làm sáng danh Cha tôi phải làm gì đây ? phải
chăng chỉ lặp lại suông lời nguyện Chúa day tôi ? Không, tôi phải sống chính
lời nguyện ấy. Tôi phải dùng những gì Chúa ban mỗi ngày để danh Cha cả sáng,
dùng của cải vật chất, danh vị, quyền lợi, dùng kiến thức hiểu biết... Danh của
tôi phải nằm trong danh Thiên Chúa. Nếu như danh Cha cả sáng thì mọi sự tốt đẹp
hơn ! Tôi tin như thế và tôi sẽ cố gắng.
Lạy Cha, xin cho con biết dùng lời nguyện của Cha
như là kim chỉ nam để sống mỗi ngày tốt đẹp hơn. (Hosanna)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
08/10/14 THỨ TƯ TUẦN 27 TN
Lc 11,1-4
Lc 11,1-4
Suy niệm: Con
người tội lỗi giống như mắc nợ Thiên Chúa một món nợ khổng lồ không biết lấy
chi đền trả nổi. Thế nhưng, ngay từ thời Cựu Ước, Ngài đã hứa sẽ tha thứ sạch
cho con người: “Mọi lỗi lầm con phạm Chúa vất
bỏ sau lưng” (Is
38,17). Thiên Chúa tha thứ cho tội nhân cách vô điều kiện đến độ Ngài quên hẳn
tội lỗi chúng ta: “Ta sẽ xoá bỏ các tội phản nghịch của ngươi, và không còn nhớ đến
lỗi lầm của ngươi nữa”(Is 43,25). Sự tha thứ đó được thực hiện hoàn
tất khi Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa, xuống thế làm người, rao giảng sự bao
dung tha thứ, chịu đau khổ và chịu chết để chúng ta được sạch tội và trở nên
công chính (1Pr 2,24). Ý thức mình được ơn Chúa tha thứ lớn lao như thế, chúng
ta không có lý do gì mà không sẵn sàng tha thứ vô điều kiện cho anh chị em
mình.
Mời Bạn: Muốn
làm con Chúa và môn đệ Chúa Giê-su, không gì hơn là chúng ta làm theo điều Chúa
dạy dù khó mấy đi nữa. Chúa sẽ không nhậm lời bạn cầu xin nếu tâm hồn bạn còn
đầy thù ghét, bởi vì Đạo của Ngài là yêu thương và tha thứ. Bạn nhớ Chúa coi
trọng sự hoà giải hơn của lễ bạn dâng trên bàn thờ: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà
sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại
đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật
của mình” (Mt
5,23-24).
Sống Lời Chúa: Mỗi
khi có sự bất hoà giữa bạn với một ai đó, bạn cầu nguyện cho người ấy và bạn
hãy là người đầu tiên nói lời xin lỗi.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.
Xin dạy chúng con cầu nguyện
Ơn cao cả nhất mà chắc chắn
Cha muốn ban cho ta đó là Chúa Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm vui, sức mạnh,
ánh sáng, sự sống.
Suy niệm:
Có nhiều định nghĩa về con
người.
Con người là con vật biết sử
dụng các dụng cụ.
Con người là con vật biết
suy nghĩ đắn đo.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ.
Phải định nghĩa con người là
con vật biết cầu nguyện,
nghĩa là có khả năng lắng
nghe và đáp lời Thiên Chúa.
Con người là sinh vật biết
chuyện trò với Tạo Hoá.
Cầu nguyện không phải là nói
với một sự vật, một ý tưởng,
nhưng là nói với một Ðấng
siêu vượt tôi,
mà lại rất gần gũi thân
thương và biết tôi.
Ðấng ấy nói với tôi và nghe
được lời tôi nói.
Có nhiều tâm tình khi ta cầu
nguyện:
thống hối, tri ân, ca ngợi,
thờ lạy, dâng hiến, nài xin.
Nài xin chẳng phải là điều
hạ giá con người.
Con người cảm nghiệm được
thân phận mong manh,
nên khiêm hạ đi tìm sự nâng
đỡ.
Xin cho chúng con bánh cần
dùng mỗi ngày.
Bánh vật chất, bánh tinh
thần, Bánh Thánh Thể.
Bánh cho chúng con sự sống.
Xin tha thứ tội chúng con,
để chúng con được sống bình
an sau những va vấp.
Xin đừng để chúng con sa
chước cám dỗ.
Cơn cám dỗ lớn nhất là chỉ
sống cho mình,
và khép lại trước Thiên Chúa
và anh em.
Quỳ xuống cầu xin là thái độ
của người biết mình,
biết những gì mình có thể
làm được,
và biết những gì nằm ngoài
tầm tay của mình.
Khi tương quan giữa Mỹ và
Irak căng thẳng cực độ,
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
Kofi Annan đã tới Bagdad
để thuyết phục phía Irak ký
vào bản thoả thuận.
Lúc trở về, ông nói: “Tôi
đặc biệt đã cầu nguyện nhiều.
Ðừng bao giờ đánh giá thấp
sức mạnh của sự cầu nguyện.”
Chẳng phải chỉ cầu nguyện
khi gặp chuyện khó.
Ðể hít thở bình thường cũng
cần đến ơn trên.
Cần có thái độ kiên trì khi
cầu nguyện.
Hãy cứ gõ cửa nhà Chúa trong
đêm mịt mù.
Cần tập đứng đợi, tập quấy
rầy Chúa.
Thế nào Ngài cũng mở cửa và
cho mọi sự ta cần.
Hãy để Ngài tự do cho vào
lúc và theo cách Ngài muốn,
dù điều đó không hợp với ước
mơ của ta.
Lắm khi ta có cảm tưởng Ngài
không nhận lời.
Có thể vì lời nài xin của ta
đầy tính ích kỷ,
hay vì Ngài muốn dành cho ta
một ơn lớn hơn.
Xin Ðức Giêsu dạy ta biết
cách cầu xin,
đưa ta ra khỏi những bận tâm
hẹp hòi về chính mình,
để thấy những nhu cầu lớn
lao của Hội Thánh.
Ơn cao cả nhất mà chắc chắn
Cha muốn ban cho ta
đó là Chúa Thánh Thần.
Có Thánh Thần là có niềm
vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống.
Có khi nào ta nài xin Cha
ban Thánh Thần chưa?
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
"Lạy Thầy,
xin dạy chúng con cầu nguyện". Là Kitô hữu, là môn đệ
Chúa Kitô, chúng ta cũng phải biết năng thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin dạy con
cầu nguyện, xin dạy con làm việc này, việc kia, xin dạy con sống theo Chúa, xin
dạy con nói, làm, nghĩ… theo Chúa.
Và chúng ta được
Chúa dạy kinh Lạy Cha, là khuôn mẫu của mọi lời cầu nguyện. Với kinh Lạy Cha
Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta một điều rất quan trọng trong cầu nguyện, đó
là tương quan của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha
của mình.
Hằng ngày chúng ta
vẫn đọc kinh Lạy Cha, có khi không phải một lần mà là nhiều lần, nhưng chúng ta
có ý thức được Thiên Chúa là Cha. Hay chỉ coi Ngài là một ông “thủ kho” quản lý
những gì chúng ta cần, để khi cần chúng ta đến lấy. Hoặc chúng ta chỉ coi Ngài
là một ông chủ hà khắc rồi chúng ta luốn trốn tránh, sợ hãi.
Thực sự Thiên Chúa
là một người Cha nhân hậu và đầy lòng yêu thương, hãy luôn ý thức điều đó khi
chúng ta đọc kinh Lạy Cha, để chúng ta luôn biết chạy đến thân thưa với Cha
chúng ta về những vui buồn, khó khăn trong cuộc sống.
Lạy Cha xin tha
thứ cho chúng con vì sự hời hợt, vô tình của chúng con đối với Cha. Xin cho
chúng con luôn biết siêng năng đến với Cha, để tìm hiểu Thánh ý Cha và thi
hành.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8
THÁNG MƯỜI
Về
Lòng Đạo Đức Bình Dân
Có
một điểm đặc biệt tôi muốn đề cập với anh chị em, đó là lòng đạo đức bình dân
và mối quan hệ của nó với đời sống phụng vụ trong Giáo Hội.
Hiến
Chế về Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vatican II có nhắc đến vấn đề này khi nói đến
“việc thực hành đạo đức của quần chúng Kitô hữu”. Những việc đạo đức bình dân
được Công Đồng khen ngợi và khuyến khích miễn là chúng “tuân theo những qui luật
và những chuẩn mực của Giáo Hội”. Vì thế chúng ta không nên thờ ơ hay coi thường
những thực hành đạo đức vẫn đang sống động giữa lòng đại chúng Kitôhữu. Tôi
đang nghĩ tới những lễ hội mừng các thánh bổn mạng, những cuộc hành hương đến
các nơi thánh, và vô số những hình thức sùng kính các thánh.
Quả
thật, như Đức Phaolô VI đã ghi nhận trong Tông Huấn Evangelii nuntiandi, lòng đạo
đức hay sùng kính bình dân có ý nghĩa rất phong phú. “Nó biểu lộ nỗi khát khao
Thiên Chúa mà chỉ những người đơn sơ nghèo khó mới hiểu được ; nó làm cho người
ta biết quảng đại và hy sinh – đến mức anh hùng – khi việc biểu lộ đức tin bị
đe dọa; nó cưu mang trong mình nó một cảm thức sâu sắc về những phẩm tính của
Thiên Chúa: Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, Thiên Chúa luôn
luôn hiện diện đầy yêu thương; nó làm nảy sinh những tâm tình bên trong không
kém sâu đậm: lòng kiên nhẫn, cảm thức về thập giá trong đời sống hàng ngày, sự
gắn bó và cởi mở với người khác, thái độ dấn thân…” (EN 48).
Chắc
chắn không phải tất cả những thực hành đạo đức này đều có giá trị cao ngang
nhau. Vì chủ thể thực hành chúng là những con người, nên các động lực thực hành
của họ có thể bị pha trộn với cảm tính và với hướng đích đơn thuần có tính cầu
an hơn là để diễn tả đức tin hay để bày tỏ lòng biết ơn và tôn thờ Thiên Chúa.
Bên cạnh đó, những việc đạo đức bình dân được phô bày qua những dấu hiệu, cử điệu
và những nghi tiết đôi khi xem ra quá quan trọng, thậm chí chỉ để tạo cảm xúc.
Tuy nhiên, tự bản chất chúng là những biểu hiện nội tâm sâu thẳm của con người.
Chúng cho thấy rằng con người – là một tạo vật – tự nền tảng phải lệ thuộc vào
Đấng Tạo Hóa.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
08-10
Gl
2, 1-2.7-14; Lc 11, 1-4.
LỜI
SUY NIỆM: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông
Gioan đã dạy môn đệ của ông”
Các
Tông Đồ của Chúa Giêsu, khi nhìn thấy Người cầu nguyện mật thiết với Chúa Cha;
Các ông khát khao được như Người. Đây là lúc thuận tiện, Chúa Giêsu đã dạy cho
các ông Kinh Lạy Cha. Dẫn đưa chúng ta nhận ra sự bao trùm của hiện tại của từng
ngày; nhận ra sự cần thiết của ơn tha tội để biết đối xử với nhau trong cuộc sống;
và cuối cùng nhận ra sự cần thiết để chiến thắng tội lỗi. Trong Kinh Lạy Cha sẽ
khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp cho chúng ta khởi đầu trong mọi cầu nguyện.
Lạy
Chúa Giêsu, trước mỗi cầu nguyện, xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng
con biết xét mình lại đối với những lời trong Kinh Lạy Cha.
Mạnh
Phương
08
Tháng Mười
Bức Tượng Người Mù
Cũng
như tại bất cứ một trung tâm hành hương nào, tại Lộ Ðức, du khách và khách hành
hương có thể đọc được không biết bao nhiêu lời cảm tạ dâng lên Ðức Mẹ cũng như
không biết bao nhiêu kỷ vật khác mà những người thọ ơn muốn cho thiết lập để
ghi nhớ ơn Mẹ... Trong muôn nghìn kỷ vật tạ ơn ấy, người ta thấy có một bức tượng
diễn tả một người mù vừa được chữa lành. Dĩ nhiên, được sáng mắt là một trong
những phép lạ đầu tiên được ghi trong sách những phép lạ tại Lộ Ðức. Nhưng bức
tượng người mù sáng mắt ở đây lại tượng trưng cho một biến cố khác, một phép lạ
theo đúng nghĩa bởi vì đó là phép lạ của một người tìm lại được ánh sáng Ðức
Tin.
Bức
tượng này được một người đàn bà quý phái cho dựng lên để ghi nhớ ánh sáng Ðức
Tin mà bà đã tìm lại được tại Lộ Ðức. Tuy là người Công Giáo, nhưng kể từ khi
chồng qua đời, người đàn bà không còn một chút tin tưởng gì nơi Chúa Mẹ nữa. Và
dĩ nhiên, cũng giống như những người khô đạo khác, người đàn bà chỉ tìm kiếm có
mỗi một điều: đó là thú vui trong cuộc sống.
Một
mùa hè nọ, trên đường đi đến một trung tâm nghỉ mát nổi tiếng ở phía Nam nước
Pháp, người đàn bà phải đi qua Lộ Ðức. Thấy đám đông tấp nập tại trung tâm
Thánh Mẫu, bà ta tò mò dừng lại xem. Bà không ngờ rằng chính Chúa đang tìm kiếm
và đeo đuổi bà. Từ thái độ bàng quang của một người hiếu kỳ, người đàn bà đã
tìm lại ánh sáng Ðức Tin. Ðể tạ ơn Chúa và Ðức Mẹ, bà đã cho dựng lên bức tượng
của người mù với hàng chữ như sau: "Tìm lại Ðức Tin là một phép lạ vĩ đại
hơn là được sáng mắt".
Trên
vạn nẻo đường của chúng ta, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Thật ra, không phải
con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đeo đuổi kiếm tìm
con người.
Trong
mọi biến cố của cuộc sống, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Trong an vui hạnh
phúc, hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh ta để mời gọi ta tin tưởng
ở Tình Yêu của Ngài. Ngay cả khi con người muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi
cuộc sống, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đeo đuổi con người.
Thánh
Kinh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ đợi, lúc
nào cũng nài nỉ, lúc nào cũg vỗ về, lúc nào cũng tha thứ.
Tin
ở một sự hiện diện trung thành như thế của Thiên Chúa, thái độ của chúng ta phải
là thức tỉnh, chờ đợi và tin tưởng không ngừng. Trong an vui thịnh đạt, chúng
ta dâng lời cảm tạ Chúa. Trong thất bại khổ đau, chúng ta cũng hãy tin tưởng
phó thác. Và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng
ở lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ mặc con người.
(Lẽ
Sống)








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét