10/10/2014
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
27 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) Gl 3, 7-14
"Những
ai cậy dựa vào đức tin, sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh
em thân mến, anh em hãy nhận biết rằng: những ai cậy dựa vào đức tin, thì họ là
con cái của Abraham. Thực Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ dùng đức tin
làm cho các dân ngoại được công chính, nên đã tiên báo cho Abraham rằng:
"Nơi ngươi tất cả dân ngoại sẽ được chúc phúc". Vậy những ai cậy dựa
vào đức tin sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng.
Thực
ra, những người cậy dựa vào lề luật, họ mắc phải điều vô phúc, vì có lời chép rằng:
"Vô phúc những ai không trung thành với những điều ghi trong Sách Luật, để
thi hành những điều đó". Ðàng khác, không ai được công chính hoá trước mặt
Chúa bởi lề luật, đó là điều hiển nhiên, vì lẽ rằng: "Người công chính sẽ
sống bởi đức tin". Lề luật không căn cứ ở đức tin, nhưng là "Ai thực
hành những khoản ấy, sẽ nhờ đó mà được sống".
Ðức
Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi điều vô phúc của lề luật, bởi Người đã vì chúng
ta, biến thành điều vô phúc, như lời chép rằng: "Hễ ai bị treo trên cây gỗ,
đều là vô phúc", để phúc lành của Abraham được chuyển tới các dân ngoại
trong Ðức Giêsu Kitô, hầu chúng ta nhờ đức tin mà lãnh nhận Thánh Thần Chúa đã
hứa".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Cho tới muôn
đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).
Xướng:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại
thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!
- Ðáp.
2)
Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời
tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ
bi. - Ðáp.
3)
Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ
lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu
ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân. - Ðáp.
Alleluia:
Lc 19, 38
Alleluia,
alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời,
và vinh quang trên các tầng trời! - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 11, 15-26
"Nếu
Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các
ngươi rồi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng:
"Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử
Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.
Nhưng
Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà
cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó
làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu
Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính
con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà
trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi
có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó
được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết
khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận
với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.
"Khi
thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ
ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta
đã ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp.
Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và
tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Nương
Tựa Vào Chúa
Dù
với công thức dài như ở Tin Mừng Matthêu hay ngắn gọn nơi Tin Mừng Luca, Kinh Lạy
Cha được kết thúc bằng câu: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Nhắc nhở các môn đệ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, Chúa Giêsu cũng muốn nói
đến một thực tại luôn có mặt trong thế giới này để làm hại con người, đó là sự
dữ hay ma quỉ. Ở bên cạnh con người, nhưng ma quỉ không hiện nguyên hình, mà lại
mượn chính hình dạng con người để quyến rũ và lôi kéo con người đến điều ác.
Ðó
cũng là sự kiện đã xảy ra như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay: sau khi Chúa
Giêsu chữa cho một người bị quỉ ám được khỏi, trong đám đông có mấy người nói rằng
Ngài đã nhờ thế của quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ. Chúa Giêsu đã nhân cơ hội
này để mạc khải về Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa đã đến và trong đó có bóng
dáng của ma quỉ. Một Phêrô vừa được khen thưởng vì đã tuyên xưng đúng tước hiện
của Chúa Kitô, thì lập tức đã bị khiển trách là Satan khi ông căn ngăn Chúa
Giêsu lên Yêrusalem để chịu khổ nạn.
Chúa
Giêsu đã đến để chiến thắng ma quỉ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những
kẻ theo Ngài phải có một thái độ dứt khoát: "Ai không theo tôi, là chống
tôi, và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán". Hình ảnh người võ trang
canh giữ nhà của mình là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt
tin tưởng, phó thác vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được
an toàn thì có ai bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của
kẻ thù, thì có đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài.
Chúng
ta phải tìm nơi nương tựa mạnh mẽ, vững chắc, vì ma quỉ như sư tử luôn gầm thét
rảo quanh tìm mồi cắn xé, làm hại chúng ta. Một lần thất bại, nó không nản
lòng, nó sẽ trở lại với một lực lượng hùng mạnh hơn. Bởi đó, chúng ta phải kiên
trì trong lời cầu nguyện: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu
chúng con cho khỏi sự dữ". Cám dỗ là vũ khí ma quỉ dùng để đánh bại chúng
ta, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, nếu biết đứng vững trong đức tin để chống
cự và biết ẩn núp dưới sự che chở của Chúa.
Nguyện
xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn kiên vững trong niềm xác tín đó.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 27
TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Gal 3:7-14; Lk
11:15-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nên công chính nhờ
đức tin
Làm
sao con người có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa là trọng tâm của
Thư gởi tín hữu Galat. Đối phương của thánh Phaolô cho rằng con người có thể trở
nên công chính bằng việc giữ trọn vẹn các Lề Luật. Thánh Phaolô cho rằng con
người chỉ có thể trở nên công chính bằng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hiểu câu
trả lời của thánh Phaolô rất cần cho sự đối thọai giữa Kitô Giáo và Do Thái
Giáo cũng như Hồi Giáo.
Chỉ
có Thiên Chúa và những ai Thiên Chúa ban cho mới có quyền trên quỷ. Chúa Giêsu
trừ quỷ bằng ngón tay của Thiên Chúa. Điều này chứng minh cho mọi người thấy
Ngài là Thiên Chúa; thế mà một số người lại cho Ngài nhờ thế của tướng quỷ
Bêel-zebul mà trừ quỷ. Kẻ khác lại đòi thêm dấu lạ từ trời trước khi có thể tin
vào Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Nên công chính nhờ đức tin
1.1/
Abraham nên công chính nhờ đức tin hay bằng thi hành những gì Thiên Chúa dạy? Đây là lý luận
chính của của cả Phaolô và những người Do-Thái vì cả hai đều tin vào Abraham.
Cách
tốt nhất để hiểu một nguyên tắc là xem nó áp dụng làm sao vào một người. Vì thế,
thánh Phaolô hướng lòng các tín hữu Galat vào tổ phụ Abraham. Ông là người mà
Thiên Chúa đã làm một lời hứa vĩ đại là qua ông tất cả các dân tộc trên địa cầu
sẽ được chúc lành (Gen 12:3). Ông là người mà Thiên Chúa đã chọn cách đặc biệt
là bạn tâm phúc của Ngài. Bằng cách nào Abraham đã làm hài lòng Thiên Chúa? Chắc
chắn là không bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật vì ở thời gian đó chưa có Luật
(Luật chỉ xuất hiện từ thời ông Môsê trở đi). Ông Abraham đã làm hài lòng Thiên
Chúa bằng việc tin tưởng hòan tòan vào tất cả những gì Chúa nói với ông.
Ai
là con cháu hay giòng dõi của Abraham? Người Do-Thái tin họ là giòng dõi đích
thực của Abraham theo di truyền và hãnh diện vì điều này làm họ khác biệt với
các Dân Ngọai. Phaolô không tin như thế, ngài tuyên bố: “Những ai dựa vào đức
tin, những người ấy là con cái ông Áp-ra-ham. Đàng khác, Kinh Thánh thấy trước
rằng Thiên Chúa sẽ làm cho Dân Ngoại nên công chính nhờ đức tin, nên đã tiên
báo cho ông Áp-ra-ham tin mừng này: Nhờ ngươi, muôn dân sẽ được chúc phúc. Như
vậy, những kẻ dựa vào đức tin thì được chúc phúc làm một với ông Áp-ra-ham, người
có đức tin.” Vì thế, các tín hữu Galat là con cháu đích thực của tổ phụ Abraham
vì họ đã tuyên xưng đức tin của họ vào Thiên Chúa; chứ không cần phải giữ Luật
mới có thể trở thành con cháu của Abraham.
1.2/
Lề Luật đặt con người dưới lời nguyền rủa: Lý luận của Phaolô sau đây sẽ đưa đối phương vào góc
tường và hết đường trốn thóat. Ngài nói: giả sử anh quyết định anh sẽ nên công
chính trước mặt Thiên Chúa bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật của Ngài; đâu là
hệ quả mà anh phải gánh chịu: Trước tiên, anh phải thực hành những gì Luật dạy;
nếu không anh phải chịu các hậu quả của nó. Thứ đến, anh phải giữ tất cả những
gì Luật dạy; và từ xưa tới giờ, chưa có ai dám vỗ ngực tự xưng mình đã giữ trọn
vẹn tất cả mọi Lề Luật. Vì thế, “những ai dựa vào những việc Luật dạy phải làm
thì đều chuốc lấy lời nguyền rủa, vì Kinh Thánh viết: Đáng nguyền rủa thay mọi
kẻ không bền chí thi hành tất cả những gì chép trong sách Luật” (Dt 27:26).
Kinh
Thánh có lời ngược lại: “Người nào mà trở nên công chính với Chúa bằng đức tin
sẽ thực sự sống” (Hab 2:4). Vì thế, không ai được nên công chính trước mặt
Thiên Chúa nhờ Lề Luật. Chỉ còn một cách nên công chính trước mặt Chúa là bằng
con đường đức tin. Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống. Dĩ nhiên, những
ai thực hành trọn vẹn những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống; nhưng thực
tế cho thấy không ai có thể đi theo con đường ấy cả.
1.3/
Đức Ki-tô đã cứu chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa bởi Lề Luật: Vì mọi người
đã vi phạm Luật, nên hậu quả là mọi người phải chết; nhưng ai có thể cứu con
người khỏi chết? Đó chính là nguyên nhân tại sao Con Thiên Chúa nhập thể và chịu
chết thay cho mọi người.
(1)
Khi Ngài chịu treo trên Thập Giá: Đức Ki-tô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa
vì Lề Luật, khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời
chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ! (Dt 21:23).
(2)
Dân Ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Abraham: Như thế, nhờ Đức
Giêsu Kitô, các Dân Ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho tổ phụ Abraham; và
để nhờ đức tin, mọi người nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thánh Thần.
2/
Phúc Âm:
Chúa Giêsu trừ quỷ bằng ngón tay Thiên Chúa.
Chứng
kiến phép lạ Chúa Giêsu trừ quỷ, có 3 phản ứng của con người:
-
Có mấy người vì ghen tương bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-el-dê-bun mà
trừ quỉ." Đối với hạng người này, Chúa hỏi họ 2 câu: (1) Nếu Ta dựa thế quỉ
vương Beelzebul mà trừ quỉ, thì con cháu các ngươi nhờ ai mà trừ quỉ; (2) Nếu
Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?
-
Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. Phép lạ Chúa
làm là để khơi dậy niềm tin. Nếu đã chứng kiến phép lạ rồi mà vẫn chưa tin thì
chẳng có gì bảo đảm sẽ tin khi chứng kiến phép lạ nữa. Hơn nữa, đức tin dựa
trên phép lạ sẽ không bền vững.
-
Đa số đám đông đều tin vào Ngài vì họ tin chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được
phép lạ như vậy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Không một ai trong chúng ta có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa bằng
việc giữ cẩn thận các giới răn vì không ai có thể giữ tất cả mọi điều.
-
Chúng ta chỉ có thể trở nên công chính bằng cách tin vào Chúa Giêsu Kitô, chính
Ngài đã chịu chết thay cho chúng ta; và nhờ Ngài chúng ta được giao hòa với
Thiên Chúa và lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho đời này và đời sau.
-
Khi chứng kiến những việc kỳ diệu của người khác làm, chúng ta hãy thành thật
khen ngợi tài năng của họ. Đừng để tính kiêu ngạo ghen tương làm mờ mắt khiến
chúng ta khinh thường họ hay phủ nhận những gì họ đã làm.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 27
Lc 11,15-26
A. Hạt giống...
1. Các câu 14-16 : Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ
trừ một quỷ câm, dân chúng phản ứng 3 cách khác nhau : a/ Đa số “ngạc nhiên”,
nghĩa là thán phục ; b/ Một nhóm xuyên tạc rằng Ngài đã dựa thể quỷ vương
Bê-en-dê-bun để trừ quỷ nhỏ ; c/ Nhóm thứ ba nửa tin nửa ngờ nên muốn có một
dấu lạ “từ trời” để chứng nhận Chúa Giêsu chính là người mà trời sai xuống.
2. Các câu 17-23 : Để trả lời cho những kẻ không
tin (nhóm thứ hai), Chúa Giêsu lý luận rằng : ma quỷ không ngu dại gì mà làm
hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ quỷ không phải là dựa vào thế
của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì do đâu ? Thưa do một quyền
lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa. Như thế phép lạ này là dấu chỉ rằng
Nước Thiên Chúa đã đến gần.
3. Các câu 24-26 : Đây là của lời khuyến cáo các
môn đệ Chúa Giêsu. Đành rằng ma quỷ đã bị Chúa Giêsu đánh bại, nhưng các môn đệ
chớ có lơ là cảnh giác. Ma quỷ tìm cách quay trở lại và có thể làm hại họ nặng
hơn trước nữa.
B.... nẩy mầm.
1. Thực tại về ma quỷ : “Nhiều người ngày nay
không còn tin vào ma quỷ. Tội lỗi được biện minh bằng sự yếu đuối và thiếu tự
do nơi con người. Quỷ ám được giải thích như những chuyện thần thoại mà khoa
tâm lý chiều sâu tìm cách giải thích. Những cám dỗ chỉ còn là sản phẩm của óc
tưởng tượng. Chiến thuật của ma quỷ trong thế giới xem ra không phải là sự đe
dọa con người bằng những ám hại, mà chính là thuyết phục con người tin rằng nó
không có mặt trên trần gian này” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
2. Người hạnh phúc nhất mà tôi từng được biết, đó
là một người Ái nhĩ Lan tên Dundee. Ông bị té gãy lưng từ năm 15 tuổi, sau đó
phải nằm trên giường bệnh rất đau đớn trong suốt 40 năm. Nhưng lúc nào ông cũng
tươi cười. Tôi hỏi :
- Có khi nào ông bị quỷ cám dỗ không, chẳng hạn
nó nói với ông rằng nếu Chúa thương ông thì chẳng để ông phải liệt giường như
vậy ?
- Có chứ, rất nhiều lần. Nó thường dẫn trí óc tôi
nhìn đến cảnh sung sướng của người khác và nói với tôi như thế. Nhưng tôi cũng
dẫn nó tới đồi Canvê, chỉ cho nó thấy Chúa Giêsu đang chết trên Thập giá. Và
tôi hỏi lại nó “Thế Chúa không thương tôi sao ?”. Kết quả là lần nào nó cũng
vội vàng rút lui. (Moody’s story)
3. Sự mù quáng do ganh tị : Vì ganh ghét Chúa
Giêsu nên các kẻ thù của Ngài đã bị mù quáng. Chẳng những họ không nhận ra ý
nghĩa việc Ngài trừ quỷ, mà còn xuyên tạc rằng Ngài làm như thế là dựa vào sức
quỷ vương.
4. Có một con đại bàng ganh tị với một con đại
bàng khác vì con này bay cao hơn nó. Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ
thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó. Chàng xạ thủ đáp : “Được. Nhưng tôi
không có tên”. Con đại bàng nhổ một cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm
tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh
tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng nữa... cho tới khi hai cánh nhỏ trụi
nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ không bắn được con kia nên bắt lấy
con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc
bạn chỉ tổ hại chính bản thân mình (D.L. Moody).
5. “Kẻ khác lại muốn thử Chúa Giêsu nên đã đòi
Ngài một dấu lạ từ trời” (Lc 11,16)
Lạy Chúa, Tại sao Ngài cho con sinh ra trong gia
đình này với người cha “pharisêu” và các anh chị “giả hình” ? Tại sao Ngài
không cho con tài năng như anh kia ? đạo đức như chị nọ ? Tại sao con không có
một mái tóc óng mượt, không có một khuôn mặt xinh xắn hơn ? Tại sao ?... Tại
sao ?... Nhiều lần con đã chất vấn Ngài, con thử thách Ngài, con đòi Ngài phải
cho con cái của người khác, có như thế thì Chúa mới thực là một Thiên Chúa yêu
thương.
Lạy Chúa, xin cho con tâm hồn đơn sơ để con nhận
ra tất cả những quà tặng Ngài mang đến cho con. Và tin rằng đó là món quà
tốt nhất đối với con, là dấu chứng rõ nhất về một Thiên Chúa yêu thương.
(Hosanna)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
10/10/14 THỨ SÁU TUẦN
27 TN
Lc 11,15-26
Lc 11,15-26
Suy niệm: "Đau khổ, thất bại, cô
đơn, muộn phiền, thất vọng, và cái chết gắn liền với hành trình cuộc đời, nhưng
Nước Thiên Chúa sẽ chiến thắng tất cả những điều kinh khủng này. Không sự dữ
nào có thể chống lại ân sủng mãi mãi" (B. Manning). Từ ngày Đức Giê-su khai mở Nước
Thiên Chúa, Nước của Xa-tan bị đẩy lùi. Với quyền năng của một vị Thiên Chúa,
Ngài xua trừ quỷ khỏi con người, Ngài chiến đấu chống lại mọi hình thức sự dữ
nơi con người: bệnh tật, đau khổ, thất vọng, tội lỗi... Nước Thiên Chúa ấy đã
khai mở, nhưng chưa thành toàn, đã có mặt nhưng chưa hiển hiện cách rõ ràng.
Nhiệm vụ của ta, những công dân Nước Thiên Chúa, là tiếp tục cuộc chiến cùng
với Đức Giê-su cho một thế giới không còn sự dữ.
Mời Bạn: Đừng
đứng ngoài cuộc chiến âm thầm nhưng mang tính chất một mất một còn này. Bạn hãy
đứng hẳn về phía Đức Giê-su, với tất cả nỗ lực, cùng với Ngài xây dựng một thế
giới không còn khổ đau, bệnh tật, nghèo đói, bất công, bạo lực... bằng cách
tránh những hành vi xấu xa, mờ ám, cũng như qua những nghĩa cử cao đẹp, quảng
đại, dấn thân cho công lý, tình thương...
Sống Lời Chúa: Mỗi sáng thức dậy tôi có một suy nghĩ tích cực
về cuộc sống, và cố gắng thực hiện điều tích cực ấy cho một người lân cận của
mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm
lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến
tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh
đến hòa bình. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Ngón tay Thiên Chúa
Có vẻ quỷ thích ở lại với con người hơn là lang
thang nơi hoang mạc, nên căn nhà tâm hồn của chúng ta cần được bảo vệ bằng lũy
hào Lời Chúa.
Suy niệm:
Nếu đời người là một cuộc chiến
đấu không ngừng
thì Đức Giêsu khi sống ở
đời, cũng không tránh khỏi cuộc chiến ấy.
Cha sai Ngài đến để khai mở
Nước Thiên Chúa trên trần gian.
Để làm việc đó, Nước của
Xatan cần bị triệt tiêu.
Cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu
và Xatan là điều không tránh khỏi.
Ngay trước khi bắt đầu sứ
vụ,
Đức Giêsu đã phải đối diện
với những mồi chài khôn khéo của Xatan.
Và Ngài đã thắng, đã bắt
Xatan phải xéo đi cho khuất mắt (Mt 4, 10).
Khi làm việc Cha giao, khi
gần gũi với con người,
Đức Giêsu thấy rất rõ sự
hiện diện đầy quyền lực của tên tướng quỷ.
Xatan và Nước của nó chi
phối và tác động trên con người.
Đức Giêsu là Đấng giải phóng
con người khỏi nô lệ bởi Xatan.
Một công việc không ai chối
cãi được của Ngài là trừ quỷ.
Nhưng có nhiều cách giải
thích chuyện trừ quỷ của Ngài.
Có người coi Đức Giêsu đã
trừ quỷ dựa vào thế lực của Bêendêbun.
Bêendêbun là một vị thần xứ
Canaan, ở đây được coi là Xatan.
Không thể nào tướng quỷ lại
giúp Ngài diệt các quỷ nhỏ của hắn.
Nếu thế Nước của Xatan chẳng
thể nào tồn tại đến nay (c. 18).
Đức Giêsu khẳng định mình
dùng ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ (c. 20).
Chỉ cần chút quyền năng
Thiên Chúa cũng đủ để xua đuổi ác thần,
và khai mở Nước Thiên Chúa
giữa lòng thế giới.
Chúng ta thường quên Xatan
là nhân vật có thật và hùng mạnh,
có vũ trang đầy đủ để canh
giữ lâu đài của hắn cho an toàn (c. 21).
Nhưng Đức Giêsu chính là
người hùng mạnh hơn và thắng được hắn.
Ngài có khả năng tước vũ khí
và phân chia chiến lợi phẩm (cc. 21-22).
Cuộc chiến của Đức Giêsu
chống lại Ác thần vẫn còn kéo dài đến tận thế.
Có những lúc chúng ta tưởng
Xatan là kẻ hùng mạnh hơn,
và dường như thế giới nằm
dưới móng vuốt của hắn.
Nhưng chiến thắng cuối cùng
thuộc về Đức Giêsu, khi Ngài quang lâm.
Chúng ta không đứng ngoài
cuộc chiến giữa Đức Giêsu với Xatan.
Chúng ta cùng chiến đấu với
Giêsu cho một thế giới không còn tội ác,
một thế giới không còn bạo
lực, bất công, thất vọng, muộn phiền,
một thế giới không còn khổ
đau, bệnh tật, đói nghèo, mất hướng.
Đứng hẳn về phía Giêsu, đi
với Giêsu, thu góp với Giêsu:
đó là chọn lựa của người
Kitô hữu (c. 23).
Ngay cả khi đã trục xuất
được quỷ dữ khỏi đời mình,
và khi ngôi nhà đời mình đã
được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi,
ta cũng phải hết sức cảnh
giác, vì có nguy cơ quỷ trở lại.
Sự trở lại này có thể còn
kinh khủng hơn trước (c. 26).
Có vẻ quỷ thích ở lại với
con người hơn là lang thang nơi hoang mạc,
nên căn nhà tâm hồn của
chúng ta cần được bảo vệ bằng lũy hào Lời Chúa.
Xin Đức Giêsu dạy chúng ta
biết cách nhận diện kẻ thù,
biết cách đuổi Xatan ra khỏi
đời mình và ngăn không cho nó trở lại.
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10
THÁNG MƯỜI
Lòng
Tôn Sùng Đích Thực Đối Với Chúa Kitô
Trong
một quốc gia có truyền thống Kitô giáo lâu đời như nước Ý, lòng đạo đức bình
dân có một đặc tính Kitô giáo không thể phủ nhận được. Rất nhiều tập tục của quốc
gia này bắt nguồn từ các lễ mừng của Giáo Hội và vẫn còn được nối kết với các dịp
lễ ấy. Cần phải lưu ý đến nguồn gốc của các tập tục này. Trong trường hợp một số
tập tục có vẻ đi lệch khỏi các nguồn gốc nguyên thủy, cần phải cố gắng để trả lại
cho chúng ý nghĩa ban đầu.
Đối
với những sự sùng ngưỡng có tính cá nhân, chúng ta cần liệu sao để chúng không
bao giờ bị méo mó trở thành một thứ đạo đức sai lạc, mê tín dị đoan, hay những
thực hành ma thuật. Như vậy, lòng sùng kính các thánh – vốn được thể hiện trong
các lễ kính thánh quan thầy, trong các cuộc hành hương, rước kiệu và trong rất
nhiều hình thức đạo đức khác – không được bị giảm trừ đến chỉ còn là chuyện cầu
xin sự bảo vệ, cầu xin cho được những sở hữu vật chất, hoặc cho sự lành mạnh thể
xác. Tiên vàn các tín hữu phải xem các thánh như là những mẫu gương sống và bắt
chước Chúa Kitô. Các thánh phải được giới thiệu như là một con đường dẫn tới
lòng sùng mộ lớn lao hơn đối với Chúa Kitô.
Phương
cách tốt nhất để chống lại những lạm dụng là đưa những lời Tin Mừng vào trong
các cử hành đạo đức bình dân. Đối với các tín hữu ưa chuộng những hình thức
sùng ngưỡng bình dân, chúng ta cần hướng dẫn họ đi từ một dạng thái đức tin mơ
hồ đến những biểu lộ của niềm tin Kitô giáo đích thực. Chúng ta phải tìm cách
Phúc Âm hoá lòng đạo đức bình dân, qua đó chúng ta có thể giúp tháo gỡ những
khuyết điểm của nó, gạn đục khơi trong nó, làm cho những yếu tố ‘hàm hồ’ trở
nên có ý nghĩa minh bạch hơn trong bối cảnh của đức tin, đức cậy và đức ái Kitô
giáo đích thực.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
10-10
Gl
3, 7-14; Lc 11, 15-26.
LỜI
SUY NIỆM: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai
không cùng tôi thu góp là phân tán”
Những
lời khẳng định của Chúa Giêsu trên đây, giúp cho chúng ta thấy được bổn phận và
trách nhiệm của mình trước việc loan báo Tin Mừng của Chúa cho nhân loại. Trong
công cuộc Loan báo Tin Mừng, không ai được thờ ơ, không ai được lừng khừng,
khoanh tay đứng nhìn với thái độ trung lập, mà phải ra sức học biết và dấn thân
phục vụ, nếu không thì chúng ta phạm một sai lầm lớn là đang chống lại Người.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn quan tâm đến mọi
sinh hoạt của Giáo Hội, đặc biết tại giáo xứ chúng con đang sống, để biết hy
sinh, cộng tác trong mọi công tác Tông đồ.
Mạnh
Phương
10
Tháng Mười
Trần Như Nhộng
Trần
Bình vốn là một mưu thần đời nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn
Sở về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. Người lái đò đưa khách
qua lại vốn là một tay cướp giật, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là
một người giàu có, định ra tay hãm hại để thâu đoạt tiền của. Biết ý định của
tên lái đò, trước khi xuống đò, Trần Bình đã cởi bỏ hết quần áo. Mình trần như
nhộng, Trần Bình lại đến xin tên lái đò cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một
người trần truồng như thế không phải là một người giàu có, tên lái đò đã để yên
cho Trần Bình. Thế là ông thoát nạn.
Ðôi
khi phải chấp nhận một vài nhục nhã, cắt bỏ đi một phần của cải hay cả một phần
thân thể, chúng ta mới có thể thoát khỏi hiểm nguy đe dọa đến tính mạng. Trong
bất cứ một cuộc di tản nào, để bảo đảm cho mạng sống, đôi khi người ta phải bỏ
lại đằng sau nhà cửa, ruộng vườn, tài sản và ngay cả bà con thân thuộc của
mình. Chúng ta có một sự sống giá trị gấp bội phần sự sống trên trần gian này.
Sự sống ấy đòi hỏi chúng ta phải hy sinh tất cả mọi sự trong cuộc sống tạm bợ
này. Lời sau đây của Chúa Giêsu đã đánh động không biết bao nhiêu người trong lịch
sử nhân loại: "Lời lãi cả thế gian để được ích gì nếu mất linh hồn
mình?"
(Lẽ
Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét