Ngày 18 tháng 10
Lễ Thánh Luca, Thánh Sử
Lễ Kính
Bài
Ðọc I: 2 Tm 4, 9-17a
"Chỉ
còn một mình Luca ở với cha".
Trích
thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con
thân mến, Ðêma đã lìa bỏ cha, bởi nó yêu chuộng sự đời này, và đã trẩy sang
Thêxalônica, còn Crescens thì đi Galata, Titô đi Ðalmatia. Chỉ còn một mình
Luca ở với cha. Con hãy đem Marcô đi và dẫn tới đây với con, vì anh ấy có thể
giúp ích để cha chu toàn sứ vụ. Còn Tykicô, thì cha đã sai đi Êphêxô rồi. Cái
áo khoác cha để quên tại nhà ông Carpô ở Troa, khi con tới, hãy mang đến cho
cha, cả những cuốn sách và nhất là những mảnh da thuộc để viết.
Anh
thợ đồng Alexanđrô làm cho cha phải chịu nhiều điều khốn khổ. Chúa sẽ trả báo
cho nó tuỳ theo công việc nó đã làm. Cả con nữa, con cũng phải xa lánh nó, vì
nó kịch liệt phản đối lời giảng dạy của chúng ta.
Lần
đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi
người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức
mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân Ngoại
được nghe.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 17-18
Ðáp: Lạy Chúa, con
cái Chúa làm cho loài người nhận biết vinh quang cao cả nước Chúa (c. 12).
Xướng:
1) Lạy Chúa, mọi công việc của Chúa hãy chúc tụng Chúa, và các thánh nhân của
Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề
cao quyền năng. - Ðáp.
2)
Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng, và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước
Chúa là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Chúa tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3)
Chúa công minh trong mọi đường lối của Người, và yêu thương trong mọi kỳ công
Người tác tạo. Chúa ở gần những kẻ kêu cầu Người, những kẻ kêu cầu Người với
lòng thành thật. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 15, 16
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Chính Thầy đã chọn các con, để các con đi và mang
lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại". - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 10, 1-9
"Lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt thì ít".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi
trước Người đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ
đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa
sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi
ai dọc đường.
"Vào
nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy
có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng
không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống
những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta
dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa
đã đến gần các ngươi".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Diễn Văn Truyền Giáo
Giáo
Hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm
theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo
số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa
Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một
để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng
rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi
hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các
dân nước trên mặt đất".
Như
thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu
trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta suy niệm là những lời căn dặn
của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi
không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều
phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những
gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những
lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức
thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều
quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của
Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày
xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác,
nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có
không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi suy niệm này chúng ta
không thể nào suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ
của Chúa.
Ước
chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại
suy niệm thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng
ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ
đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn
Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền
giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa
nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được
sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem
chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo
làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình
chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy
Chúa,
Này
con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe.
Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của
Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Luca Thánh
Sử (Ngày 18 tháng 10)
Bài đọc: 2 Tim 4:9-17a; Lk
10:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành viết và
rao giảng Tin Mừng.
Thánh
Lucas không phải là người Do-thái. Ngài được đề cập riêng khỏi những người
Do-thái (Col 4:14), và kiểu mẫu viết văn chứng tỏ ngài là người Hy-lạp. Vì thế,
ngài không thể nào bị đồng nhất với ngôn sứ Lucius của Acts 13:1 hay Lucius của
Romans 16:21, người đồng hương của Phaolô. Epiphanius không đúng khi gọi ngài
là một trong số 72 môn đệ. Ngài cũng không phải là người đồng hành với Cleopas
trên hành trình Emmaus. Thánh Lucas có kiến thức nhiều về Bản Bảy Mươi
(Septuagint) và truyền thống Do-thái mà ngài thu nhận được hoặc khi ngài đang
là một tân tòng Do-thái hay sau khi ngài đã trở thành một Kitô hữu, qua việc
giao tiếp với các tông-đồ và các môn đệ.
Ngài
sinh sống tại Antioch, thủ đô của Syria. Ngài là một y sĩ, và Phaolô đã gọi
ngài là “một y sĩ đáng yêu nhất” (Col 4:14). Thánh Lucas xuất hiện lần đầu tại
Troas khi ngài gặp thánh Phaolô (Acts 16:8). Từ đó, ngài trở thành người bạn đồng
hành cùng rao giảng Tin Mừng với Phaolô và viết Tin Mừng Thứ Ba cùng Công Vụ
Tông Đồ. Ngài là bạn trung thành với Phaolô trong lần Phaolô bị giam lần cuối
cùng như trình thuật hôm nay viết (2 Tim 4:7-11). Ba lần ngài được đề cập đến
trong các Thư của Phaolô (Col 4:14; Phi 24; 2 Tim 4:11), ngài được kể tên cùng
với Marcô. Điều này chứng minh Lucas quen thuộc với Marcô và Tin Mừng của ông.
Lucas chắc cũng nhiều lần có cơ hội gặp Phêrô và giúp ông trong việc viết các
Thư Phêrô bằng tiếng Hy-lạp.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Chỉ còn một mình anh Lucas ở với tôi.
1.1/
Phaolô hoàn toàn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Sau khi đã làm chứng
cho Đức Kitô tại Jerusalem, Ngài đã hiện ra với ông trong một thị kiến ban đêm
để an ủi và cho ông biết ông sẽ làm chứng cho Ngài tại Roma nữa; đồng thời Ngài
cũng cho ông biết những gian nan nguy hiểm đang chờ ông tại Roma.
Phaolô
viết thư này cho môn đệ Timothy khi ông đang bị giam trong tù tại Roma, với mục
đích để khích lệ tinh thần cho Timothy sẵn sàng làm chứng cho Đức Kitô. Phaolô
không cho là ông xứng đáng với triều thiên dành cho người công chính bằng những
công việc ông làm; nhưng Phaolô muốn nhấn mạnh đến niềm tin trung thành nơi Đức
Kitô. Ngài là Thẩm Phán Chí Công, Ngài là Đấng sẽ tuyên bố Phaolô là người công
chính, và sẽ trao phần thưởng là triều thiên công chính cho ông.
Đoạn
văn này là bằng chứng cho những người hiểu lầm học thuyết của Phaolô khi ông
nói con người được công chính nhờ đặt niềm tin nơi Đức Kitô, mà không cần phải
làm gì để chứng tỏ niềm tin. Phaolô chứng minh niềm tin của ông vào Thiên Chúa
bằng việc hoàn tất sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại mà Đức Kitô đã trao
cho ông, và giờ đây, ông còn sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin Mừng ông rao
giảng trên đất Rôma của Dân Ngoại.
1.2/
Phaolô có thể vượt qua mọi trở ngại là nhờ ông vững tin nơi Thiên Chúa: Nhìn lại cuộc đời
rao giảng Tin Mừng của Phaolô, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sự kiên trì
phi thường của ông, khi phải đương đầu với những đau khổ bên trong cũng như bên
ngoài, như trong trình thuật hôm nay, ông viết: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần
thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng
chấp họ.” Tuy phải chịu đau khổ như thế, nhưng ông đã noi gương Đức Kitô, chẳng
những không trách cứ họ, mà còn cầu nguyện cho họ nữa.
Phaolô
nhận ra sức mạnh để chịu đựng và sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng
không đến từ con người yếu đuối của ông; nhưng nhờ ông đặt niềm tin trọn vẹn
nơi Đức Kitô. Ông viết: “Có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi,
để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe
biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát
khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời.
Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. A-men.”
2/
Phúc Âm:
"Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."
2.1/
Khác biệt về văn bản:
Theo Lucas, Chúa Giêsu không chỉ chọn 12 Tông-đồ, nhưng còn nhiều môn đệ khác,
để huấn luyện và sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong Lucas, có hai lần sai đi: Lần
thứ nhất, Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk 9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk 6:7-13). Lần
thứ hai, chỉ có trong Lucas, theo trình thuật hôm nay: “Chúa chỉ định bảy mươi
hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các
thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”
2.2/
Môn đệ là sứ giả mang Tin Mừng.
(1)
Phải ý thức sứ vụ cuả mình: Chúa Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải đương đầu khi
Ngài nói với các ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy
sói.” Hai điều Ngài muốn đề phòng cho các ông:
-
“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao
giảng Tin Mừng. Lo lắng quá nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông
dành mọi cố gắng cho việc rao giảng Tin Mừng.
-
“Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”: Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự
hay sống cách biệt. Ngài chỉ muốn các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng
Tin Mừng để các ông đừng trò chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng
(cf. 2 Kgs 4:29).
(2)
Chấp nhận Tin Mừng là điều kiện để có bình an: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ:
“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này!"” Điều
này chứng tỏ Tin Mừng cứu độ được trao cách nhưng không cho mọi người. Theo
Lucas, sự bình an này được liên kết với ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi
người (cf. 1:79, 2:14-29, 7:50, 8:48, 12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có
bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với
người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn
ám chỉ ở đây là sự bình an trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng
cảm thấy được bình an.
2.3/
Môn đệ là sứ giả của Nước Trời.
(1)
Đừng tìm kiếm những sự thế gian: Nhiều người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao
bị thì lấy gì mà ăn.” Nói như thế là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa.
Ngài coi các môn đệ là những người làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công
đời này” (1 Tim 5:18; cf. 1 Cor 9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh:
“người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không
được đòi hỏi, họ phải có khả năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng
không thể sống theo luật Kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết
nhà nọ đến nhà kia” để tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.
(2)
Làm cho triều đại Thiên Chúa mau đến: Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận chính của người môn đệ:
“Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên
Chúa đã đến gần các ông."” Triều đại của Thiên Chúa đã đến với sự xuất hiện
của Đức Kitô và các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến cho mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta hãy noi gương hai thánh Lucas và Phaolô để biết hy sinh dành trọn cuộc
đời cho việc rao giảng Tin Mừng.
-
Chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc rao giảng Tin Mừng vì đó là những giá
trị ngược lại với những giá trị của thế gian; nhưng ai bền vững đến cùng sẽ được
cứu thoát.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
18/10/14 THỨ BẢY TUẦN 28 TN
Th. Luca, tác giả sách Tin Mừng
Lc 10,1-9
Th. Luca, tác giả sách Tin Mừng
Lc 10,1-9
Suy niệm: Khi sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng,
Chúa muốn các ông phải là những sứ giả bình an. Lời đầu tiên Chúa truyền cho
các ông phải nói là lời chúc bình an. Lời chúc bình an được gửi đến một cách vô
điều kiện, không phải là kết quả của những cuộc thương thuyết lâu dài; cũng
không tuỳ thuộc ở hoàn cảnh bên ngoài: người môn đệ vẫn nói lời bình an dù
trong tư thế của “con
chiên ở giữa bầy sói”. Dù lời chúc bình an có được đón nhận hay
không, trước hết sự bình an ấy vẫn “quay
về với người môn đệ” và
tồn tại nơi họ, và như thế biến họ thành những nhân tố xây dựng một “môi trường
hoà bình”. Tuyên ngôn Tám
Mối Phúc Thật gọi
đó là đặc điểm nhận biết người môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô: “Phúc thay ai xây dựng hoà
bình, vì họ sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa” (Mt 5,9).
Mời Bạn: Không
cần những hành động to tát, bạn có thể đặt những viên đá đầu tiên xây dựng nền
hoà bình thế giới bằng cách gửi đến những người anh em chung quanh bạn những
lời nói bình an. Công việc này lắm khi lại đơn giản tới mức bạn chỉ cần loại trừ
ra khỏi môi miệng bạn những lời gắt gỏng, chua cay, thoá mạ, thô tục...
Chia sẻ: Thử
đưa ra một phương thế giúp nhau chữa thói quen hay nói tục.
Sống Lời Chúa: Hôm
nay bạn hãy chủ ý nói một lời bình an thực sự với một người đang sống gần bạn
hoặc đang công tác cùng với bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin thông ban cho con sự hiền lành dịu dàng của Chúa, để
con trở nên con cái của sự bình an góp phần xây dựng nền văn minh tình thương
cho thế giới hôm nay.
Sai thợ ra gặt lúa
Dù không thể viết được những câu chuyện tuyệt đẹp
như thánh Luca... nhưng chúng ta vẫn có thể kể câu chuyện đời mình cho người
khác, câu chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan chứa niềm vui tri ân.
Suy niệm:
“Lúa
chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
Vậy
anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (c. 2).
Trong
hành trình truyền giáo cuối cùng với thánh Phaolô (Cv 20, 5),
Luca
hẳn đã thấy những cánh đồng lúa chín ở mọi nơi,
đang
chờ nhiều người gặt hái gấp, kẻo lúa bị hư hoại.
“Anh
em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi…” (c. 3).
Dù
chưa bao giờ gặp mặt Đức Giêsu,
nhưng
Luca đã nghe được tiếng gọi sai đi của Ngài.
Ông
đã là cộng tác viên ở bên thánh Phaolô khi người ở tù (Plm 24),
và
đã một mình ở lại khi người bị giam lúc cuối đời (2 Tm 4, 11).
Là người dân ngoại được đón nhận Tin Mừng,
Luca
muốn trao lại Tin Mừng đó cho những người dân ngoại khác.
Vừa
có học thức và khiếu văn chương, lại vừa là y sĩ (x. Cl 4, 14),
Luca
đã dùng tài năng của mình để phục vụ cho Lời Chúa (x. Lc 1, 2).
Người
ta cho rằng Luca là một họa sĩ đã vẽ chân dung Đức Mẹ,
nay
được tôn kính ở Đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma.
Nhưng
điều chắc chắn hơn nhiều là Luca đã vẽ chân dung Đức Giêsu,
khi
thánh nhân cầm bút viết sách Tin Mừng cho dân ngoại.
Qua
việc nghe lời giảng của các tông đồ, qua tìm hiểu và chiêm niệm,
Luca
trở nên người hiểu rất sâu về trái tim nhân từ của Thầy Giêsu.
Không
hiểu Thầy Giêsu thì không thể viết được cuốn Tin Mừng như thế.
Luca cho ta thấy một Giêsu say mê cầu nguyện,
từ
khi Ngài chịu phép rửa của Gioan đến khi chịu treo trên thập tự.
Cầu
nguyện là giây phút Ngài có thể nói lên tiếng Abba với Cha.
Giây
phút riêng tư ấy, cả môn đệ cũng không khuấy động được.
Luca
còn cho thấy một Giêsu cương quyết lên Giêrusalem, vì đó là ý Cha.
“Hôm
nay, ngày mai, và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi…” (13, 33).
Ngài
đi đến nơi khổ đau và cái chết đang chờ đợi (Lc 9, 51 -19, 27).
Tin Mừng của Luca tràn ngập khuôn mặt của người nghèo,
nghèo
sức khỏe, nghèo tiền bạc, nghèo phẩm giá, nghèo đời sống tâm linh.
Đức
Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ, chúc lành và tha thứ.
Ngài
đem đến cuộc cách mạng của Thiên Chúa, cho người nghèo nên giàu,
đem
tình thương tha thứ vô bờ của Thiên Chúa cho tội nhân
đem
sự bình đẳng cho các phụ nữ để họ trở nên người cộng tác (8, 2-3).
Vì
thế Tin Mừng của Luca cũng tràn ngập niềm vui,
từ
niềm vui của Dacaria, của Gioan trong bụng mẹ, của các mục đồng,
đến
niềm vui của các môn đệ sau khi Đức Giêsu thăng thiên (24, 52).
Thánh sử Luca là một người dân ngoại được ơn viết Sách Thánh.
Chúng
ta cũng là dân ngoại được ơn lãnh nhận đức tin.
Dù không
thể viết được những câu chuyện tuyệt đẹp như thánh Luca,
về
người cha nhân hậu hay về hai môn đệ đi Emmaus,
nhưng
chúng ta vẫn có thể kể câu chuyện đời mình cho người khác,
câu
chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan chứa niềm vui tri ân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người,
chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy
niệm
“Lúa
chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Đó là thao thức của Chúa Giêsu. Đó là thao
thức của Giáo hội. Chúa Giêsu xem những người chưa biết Chúa như những bông lúa
mà Thiên Chúa Cha đã gieo trồng. Nếu cứ để bông lúa trơ trọi ngoài đồng thì sẽ
bị chim chuột ăn mất hoặc chẳng có công dụng gì. Ma quỷ cứ đợi chờ, rình mò
Thiên Chúa gieo sẵn để nó gặt. Vì vậy nếu không có người môn đệ của Chúa được
đào luyện tử tế thì những bông lúa sẽ bị giày đạp, cướp đi một cách thậm tệ.
Chúa Giêsu nói trước cho các
môn đệ của Ngài biết họ sẽ trở thành thợ gặt, vì vậy sẽ đối đầu với ma quỷ cũng
đang giành gặt lúa: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”.
Để có thể đủ sức chiến đấu thì người môn đệ Chúa phải có những đức tính cần
thiết sau đây:
“Đừng mang theo túi tiền,
bao bị, giày dép”. Nghĩa là đừng để mình bị những vật chất vướng bận bên
đường truyền giáo.
“Cũng đừng chào hỏi ai
dọc đường”, vì tính cấp thiết của việc loan báo Tin Mừng. Lúa chín vàng hết
rồi mà người môn đệ của Chúa còn bị quyến luyến với chuyện tình cảm, nhất là
với những tình cảm vô bổ, chóng qua.
“Vào nhà nào trước tiên
hãy nói: “Bình an cho nhà này”. Trên bước đường truyền giáo, người môn đệ
của Chúa không được giẫm nát cánh đồng, mà phải đem đến sự bình an, gặt hái cẩn
thận, nâng niu từng bông lúa.
“Người ta cho ăn thức gì
thì hãy ăn thức đó”. Người môn đệ của Chúa phải sống với mọi người, sống
như con nguời, không được đòi hỏi những đặc quyền đặc lợi. Điều nghịch lý là
khi họ sống hòa đồng với mọi người thì người ta càng dành cho họ những ưu tiên.
Còn ngược lại khi người môn đệ của Chúa càng tìm kiếm những đặc quyền cho riêng
mình, thì họ càng bị người ta xa lánh.
Lạy Chúa, Chúa vẫn đang tha
thiết mời gọi mỗi người gặt lúa trong từng hoàn cảnh của mình. Xin cho người
môn đệ Chúa có được những đức tính mà Tin Mừng đòi hỏi, để họ có thể gặt được
nhiều bông lúa về cho Chúa, cho Giáo Hội.
Xin cho người môn đệ trong
ơn gọi giáo dân biết sống chan hòa với anh chị em lương dân, để họ nhận ra hạnh
phúc đích thực chính là yêu thương và được yêu thương.
Xin cho người môn đệ trong
ơn gọi tu trì biết thanh thoát với tình cảm, với vật chất để có thể làm chứng
cho thực tại Nước Trời mai sau.
Lm. Thiện Duy
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18
THÁNG MƯỜI
Mang
Tin Vui Cho Người Nghèo
Thời
đại của chúng ta đang đứng trước rất nhiều tình trạng đói nghèo về mặt luân lý,
trong đó tự do và nhân phẩm của con người bị đe dọa nghiêm trọng. Khốn nạn cùng
cực nhất là tình trạng của những người sống mà không hiểu biết được ý nghĩa của
cuộc sống. Lương tâm con người trở nên bị sai lệch hay hoàn toàn hư hỏng, đó là
một dạng nghèo. Bao gia đình phân rã hay đổ vỡ, đó cũng là một dạng nghèo.
Chung qui, tất cả đều là cái nghèo của tội lỗi.
Trong
một thế giới bị xâu xé bởi quá nhiều hình thức nghèo như thế, Giáo Hội phải cố
gắng “mang tin vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Và Giáo hội đã làm điều đó bằng
cách thể hiện những nỗ lực như của Mẹ Têrêsa Calcutta và những nỗ lực tương tự
của nhiều người khác. Tình yêu của họ đối với Chúa Kitô và công việc phục vụ của
họ đối với những con người nghèo khổ nhất đang bộc lộ sâu sắc ý nghĩa ngôn sứ
và sứ mạng loan báo Tin Mừng của toàn Giáo Hội.
Những
chứng tá hy sinh chất chứa bản chất tình yêu Kitô giáo ấy quả là một nguồn
khích lệ lớn lao. Đối với từng người và đối với toàn Giáo Hội, những chứng tá ấy
là “một niềm khích lệ trong Chúa Kitô”â, “một sự an ủi trong lòng mến”, và “một
sự thông dự trong Thánh Thần”. (Pl 2,1)
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
18-10
Thánh
Luca, Tác giả Sách Tin Mừng
2Tm
4, 10-17b; Lc 10, 1-9.
LỜI
SUY NIỆM: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin
chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”
Chúa
Giêsu thấy cánh đồng truyền giáo rất rộng lớn, mọi nơi đều đang thiếu: “Người
Tông Đồ”. Nhưng Chúa không hối thúc tất cả chúng ta dấn thân vào công tác Tông
Đồ ngay. Nhưng Chúa mời gọi chúng ta trước hết phải cầu nguyện cùng Chúa Cha,
và sẵn sàng hy sinh, vâng nghe, đáp ứng theo tiếng Chúa mời gọi.
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho mỗi người trong gia đình chúng con có cái nhìn của Chúa về
Truyền Giáo, và biết vâng nghe Lời Chúa là: “cầu nguyện cùng Chúa Cha” Đồng thời
xin ơn dấn thân làm Tông Đồ với sự quan phòng của Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
18-10
Thánh
LUCA THÁNH SỬ
(Thế
kỷ I)
Thánh
Luca, tác giả Phúc âm thứ ba và sách Công vụ sứ đồ, là người đóng góp đơn độc
và rông rãi nhất cho Tân ước. Như các tác phẩm cho thấy, Ngài là một trong những
Kitô hữu có học nhất thời Giáo hội ly khai. Dầu vậy, Ngài rất mực khiêm tốn và ẩn
mình đi đến nỗi dù một chút gì chúng ta biết về Ngài cũng phải đọc trong những
dòng chữ của Ngài bằng kính phóng đại. Chúng ta chú mục vào những chỗ
"nhóm chúng tôi" thay vì "họ", nghĩa là Ngài nhận sự có mặt
của mình trong khung cảnh chuyển nó vào những dẫn chứng rời rạc trong thánh
Phaolô, tìm những khuôn mặt xem ra rõ rệt nhất, phân tích việc chọn lựa và xử dụng
từ ngữ của Ngài. Dần dần hình ảnh của thánh Luca nổi lên:
Ngài
tự bẩm sinh là người Hylạp, chứ không phải Do thái, nhưng theo ngôn ngữ và văn
minh xem ra Ngài đã không sinh ra tại những thành phố Hy lạp lớn miền cận đông.
Một tác giả thứ hai nói Ngài sinh ra tại Antiôkia, Syria và khi những biến cố xảy
ra dường như Ngài đang sống ở đó trong thập niên bốn mươi của thế kỷ đầu và đã
là một trong những lương dân trở lai đầu tiên.
Theo
nghề nghiệp, Ngài là y sĩ và rất có thể đã theo học đại học tại Tarse. Bởi đó
có thể Ngài đã có vài tiếp xúc trước với thánh Phaolô khoảng năm 49 hay 50,
Ngài đã liên kết với thánh Phaolô trong sứ vụ qua Tiểu Á tới Au Châu. Dầu vậy
khi tới Philipphê, thánh Luca đã dừng lại đó, không phải là giám mục của Giáo hội
tân lập vì dường như thánh nhân đã không hề lãnh nhận chức thánh, nhưng đúng
hơn ta có thể gọi là "thủ lãnh giáo dân". Hơn nữa, Ngài dường như dấn
thân vào thành phần sử gia, một vai trò mà sự giáo dục và cố gắng rất phù hợp với
Ngài. Sự quan sát kỹ lưỡng và diễn tả chính xác là những từ ngữ của các trường
thuốc Hy lạp và các văn phẩm của thánh Luca chứng tỏ để Ngài đã biết áp dụng
chúng vào lãnh vực lịch sử.
Dầu
vậy, vào khoảng năm 57, thánh Phaolô đã từ Corintô trở lại qua Macedonia trên
đường đi Giêrusalem, để thu thập các đại diện từ nhiều Giáo hội khác nhau và
thánh Luca đã nhập bọn, từ đó trở đi Ngài đã không hề rời xa thầy mình. Ngài đã
chứng kiến việc người Do thái tìm cách hại Phaolô và việc người Roma giải cứu
thánh nhân. Khi Phaolô đáp tàu đi Roma sau hai năm bị tù ở Cêsarêa, thánh Luca ở
với Ngài. Họ bị đắm tàu ở Malta và cùng tới Rôma. Nhưng ở Roma. Thánh Luca đã
thấy một trách vụ khác đang chờ đón Ngài. Roma là con mắt của Phêrô và người
phát ngôn của thánh Phêrô là Marcô đã xuất bản Phúc âm viết tay của Ngài.
Nhưng
còn những ký ức khác đã được viết ra hay truyền tụng rời rạc hoặc toàn bộ về cuộc
đời của Chúa chúng ta trên trần gian. Thánh Luca đã quyết định rằng: sứ vụ cho
lương dân cần một Phúc âm mới, được viết ra bằng Hy ngữ văn chương hơn là Phúc
âm của Marcô cho hợp với lương dân có học và không dành riêng cho người Do thái
như là Phúc âm của thánh Mathêo: việc trước tác sách này là phần tiếp theo sách
Công vụ sứ đồ xem như hoàn thành tại Roma giữa năm 61 tới 70, nhưng thánh Luca
đã trốn cuộc bách hại của Nêrô và đã trải qua quãng đời còn lại tại Hy Lạp.
Tài
liệu thế kỷ thứ hai viết: - "Trung thành phục vụ Chúa, không lập gia đình
và không có con; Ngài được qua đời hưởng thọ 84 tuổi ở Boctica, đầy tràn Thánh
Thần".
Thánh
Luca là một vị thánh luôn luôn bình dân. Một phần có lẽ vì chúng ta hiểu rõ
Ngài là một giáo dân, thừa hưởng văn hóa Hy lạp cổ. Hơn nữa, Ngài bình dân vì đặc
tính lương dân và dấn thân của mình. Tất cả văn phẩm của Ngài đầy quan tâm đến
con người, thương cảm con người, liên hệ tới người nghèo, hào hiệp với phụ nữ.
Ngài cũng rất hấp dẫn bởi đã thu thập và kể lại vô số những công cuộc đầy nhân
hậu của Chúa Kitô.
Thật
ra người ta sẽ lầm lẫn khi dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa.
Nhưng các y sĩ có thể hãnh diện về Ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt
được Ngài về "tình yêu dành cho nhân loại". Và những người còn lại
trong chúng ta có thể biết ơn Ngài vì nhờ Ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả
khô chồi (13,60, đứa con hoang đàng (15,11) và người Samaria nhân hậu (10,300.
Chúng ta cũng biết ơn Ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu
nhiệm Mân Côi mùa Vui.
Nhưng
trên tất cả, chúng ta mắc ơn Ngài Kinh Ave "Ngợi khen" (Magnificat),
chúc tụng (Benedictus), Phó dâng (Nuncdimittis) với quá phân nửa câu truyện
ngày lễ Giáng sinh. Rồi đây là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời
chúng ta.
Thánh
Luca đã nghe truyện từ miệng Chúa không ? Thánh nhân không nói điều này cho
chúng ta nhưng rất có thể lắm. Chúng ta biết sau cuộc đóng đinh, mẹ đã được
thánh Gioan săn sóc và chắc chắn đã có sự giao tiếp giữa hai thánh sử này.
Nhưng trùng hợp của hai Phúc âm (như về việc biến hình) hay những trùng hợp về
ngôn ngữ trong phần đầu sách Công vụ mạnh mẽ minh chứng điều này,
Hơn
nữa, nếu thánh Luca được rửa tội ở Antiôkia khoảng năm 40 thì tự nhiên là có thể
tìm gặp được thánh Gioan ở Giêrusalem... Lúc ấy Đức Mẹ trên dưới 70 tuổi. Như vậy
không có lý gì thánh Luca lại không thể nghe chính môi miệng mẹ kể chuyện. Mà dầu
chuyện nầy có đến với Ngài cách gián tiếp đi nữa, chúng ta vẫn biết ơn Ngài đã
lưu lại cho chúng ta những giai thoại đặc biệt ấy.
(daminhvn.net)
18
Tháng Mười
Lòng Ðầy Miệng Mới
Nói Ra
Người
ta thường bảo: "Lòng đầy miệng mới nói ra" hay "Văn tức là người".
Hai câu nói này có thể áp dụng rất đúng vào vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm
nay: thánh Luca, thánh sử.
Chúng
ta không có được những sử liệu để biết về cuộc đời của thánh Luca ngoài danh hiệu
thánh Phaolô nói về ngài: "Luca, vị y sĩ rất thân mến của chúng
tôi...". Vì thế, chúng ta phải tìm hiểu về con người của thánh Luca qua
hai tác phẩm ngài biên soạn, nhất là qua sách Phúc Âm, thường được trao tặng những
biệt hiệu sau đây:
1.
Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của Lòng Thương Xót: Thánh Luca đặc biệt nêu bật
lòng ưu ái và sự kiên nhẫn của Chúa Giêsu đối với những tội nhân và những kẻ
đau khổ. Ngài luôn mở rộng đôi tay để đón nhận họ: những người xứ Samaria, những
kẻ bị bệnh phong hủi, những người thu thuế, những kẻ phạm tội công khai, những
người nghèo cũng như các mục đồng thất học.
Ngụ
ngôn về người phụ nữ ngoại tình, về một con chiên lạc, một đồng tiền bị đánh mất,
về đứa con hoang đàng và người trộm lành chỉ được ngòi bút của thánh Luca ghi lại
rất linh động và xúc tích.
2.
Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của Ơn Cứu Rỗi phổ quát và đại đồng: Chúa Giêsu
dang rộng đôi cánh tay, chết treo trên thập giá là cho tất cả mọi người. Trong
luồng tư tưởng này, thánh Luca ghi lại gia phả của Chúa Giêsu ngược lại đến
nguyên tổ Ađam chứ không phải chỉ ghi lại Chúa Giêsu là con vua Ðavit, con ông
Abraham như thánh sử Matthêu. Và trong lúc Chúa Giêsu hoạt động rao giảng Tin Mừng,
nhiều người dân không phải là Do Thái cũng được Ngài ân cần tiếp đón và thi ân.
3.Phúc
Âm thánh Luca là Phúc Âm của những người nghèo, trong đó những người đơn sơ, nhỏ
bé, đóng một vai trò quan trọng, như: ông Giacaria và bà Ysave, Ðức Maria và
thánh Giuse, những người mục đồng, ông Simêon và bà góa Anna.
4.
Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của sự cầu nguyện và của Chúa Thánh Thần: Luca
thường mở đầu đoạn Phúc Âm với lời ghi nhận: "Chúa Giêsu đang cầu nguyện"
và Thánh Thần mang Giáo Hội đến chỗ hoàn hảo cuối cùng.
5.
Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của niềm vui: thánh Luca thành công trong việc
phác họa hình ảnh Giáo Hội sơ khai tràn đầy niềm hân hoan vì cảm nghiệm được mầu
nhiệm Phục Sinh, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và Ơn Cứu Rỗi.
Mừng
lễ kính thánh Luca, chúng ta hãy cùng nhau đọc đoạn cuối của Phúc Âm, gồm những
dòng có thể so sánh như chiếc gạch nối liên kết sách Phúc Âm với sách Tông Ðồ
Công Vụ để diễn tả một sinh hoạt rất quan trọng của Giáo Hội và của mọi tín hữu
Kitô: "Ðoạn Chúa dẫn các môn đệ đi về phía làng Bêtania. Chúa giơ tay chúc
phúc cho họ. Ðang khi Chúa phán, Chúa rời khỏi họ mà lên trời. Các môn đệ thờ lạy
Chúa rồi trở về Giêrusalem, lòng đầy hân hoan. Họ có mặt luôn luôn trong đền thờ
để ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa".
Dõi
theo gương của các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn dâng lời
ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét