18/05/2015
Thứ Hai sau Chúa Nhật
VII Phục Sinh
Bài
Ðọc I: Cv 19, 1-8
"Anh
em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?"
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Xảy
ra là khi Apollô ở Côrintô, thì Phaolô đi miền thượng du, rồi đến Êphêxô gặp một
số môn đồ, và ngài hỏi họ: "Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?" Họ
trả lời: "Nguyên việc có Thánh Thần hay không, chúng tôi cũng chưa nghe
nói". Ngài lại hỏi: "Vậy các ngươi đã chịu phép rửa của ai?" Họ
thưa: "Phép rửa của Gioan". Phaolô liền bảo: "Gioan thanh tẩy
dân chúng bằng phép rửa sám hối mà rằng: Hãy tin vào Ðấng sẽ đến sau ông, tức
là Ðức Giêsu". Nghe vậy, họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi
Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần đến ngự xuống trên họ, họ liền nói được
nhiều thứ tiếng và nói tiên tri. Tất cả đàn ông chừng mười hai người.
Ngài
vào hội đường, và trong suốt ba tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng, tranh luận và
thuyết phục về nước Thiên Chúa.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 67, 2-3. 4-5ac. 6-7ab
Ðáp: Chư quốc trần
ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy
trốn khỏi long nhan. Như làn khói toả, chúng rã tan, như mẩu sáp ong gần lửa chảy
ra, những đứa ác nhân tiêu vong trước nhan Thiên Chúa. - Ðáp.
2)
Những người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa họ mừng vui sung sướng.
Hãy hát mừng Thiên Chúa, hãy đàn ca danh Người, danh hiệu Người là Chúa, hãy mừng
rỡ hân hoan trước nhan Người. - Ðáp.
3)
Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện
của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người
tù tội ra nơi thịnh đạt. - Ðáp.
Alleluia:
Mt 28, 19 và 20
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng
các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 16, 29-33
"Hãy
can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng,
và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không
cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra".
Chúa Giêsu đáp lại các ông: "Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã
đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy
không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều
đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ,
nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Môn Ðệ Bỏ Thầy
"Nhưng
Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha luôn ở với Thầy".
Những
lời này Chúa Giêsu nói trước để an ủi các môn đệ trong biến cố sắp xảy đến với
Ðức Giêsu và cho chính họ. Họ đã mường tượng nhiều nguy cơ sẽ đến với họ và đến
với Thầy mình. Họ hoang mang, nhưng Chúa Giêsu trấn tĩnh, Người bảo họ "đừng
sợ", có Chúa Cha ở với Người, Người ở với họ và Người sẽ vượt thắng hết thế
gian, cản trở mọi gian nan, Ngài nói: "Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế
gian rồi" (Ga 16,33).
Ðó
cũng là những lời Chúa Giêsu nói với mỗi người chúng ta, nhất là chúng ta đều
lo lắng về ngày mai, về những thử thách sẽ đến trong tương lai, ai không lo cho
ngày mai thì bị xem như là kẻ khờ khạo và vô ý thức. Nỗi sợ hãi và lo lắng cho
ngày mai còn đặc biệt hơn cho những người khi họ nghĩ đến năm 2000, họ nghĩ rằng
có thể là tận thế hay gần đến tận thế. Lo lắng cho ngày mai là bản tính con người,
vì ngày mai là một phần quyết định cho đời mình mà mình lại không quyết định được.
Ngày mai ấy lại đáng lo vì chính mình Chúa Giêsu đã xác nhận rằng: "Trong
thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khổ" (Ga 16,33).
Gian
nan khốn khó như là thân phận con người và của mọi người. Anh em sẽ khốn khó
hơn vì anh em là đồ đệ của Thầy, vì anh em tin và theo Thầy. Người nói: "Nếu
thế gian ghét anh em thì nó đã ghét Thầy trước..." (Ga 15,18-22). Song
chính vì đức tin mà chúng ta phải gian nan đau khổ, thì cũng chính nhờ đức tin
vì Thiên Chúa mà chúng ta sẽ được an ủi. Cùng với Chúa, chúng ta vượt thắng đau
khổ do thế gian gây nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ do thế gian gây
nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ của Người, "lấy độc trị độc".
Chính sự chết của Ngài mà Ngài đã chiến thắng sự chết và đem lại sự sống trưởng
cửu cho những kẻ tin Ngài.
Chúng
ta cần lưu ý để không thể sai lầm về sự chiến thắng của Thiên Chúa, thái độ và
hành động chiến thắng của Người là bằng tình thương bằng hy sinh mà khắc phục
được thế gian và đau khổ. Người không chủ trương thắng bằng những lối hống
hách, nhưng thói kiêu căng "thừa thắng xông lên" để chà đạp những người
yếu hèn hơn mình, không phải chiến thắng bằng tiền của hay khoa học, mà bằng
tình thương chân thật, dám chết cho người mình yêu. Hiểu sai lầm về tình thương
của Thiên Chúa sẽ khiến chúng ta đi lạc đường lầm lối như Chúa nói: "Giờ sẽ
đến và khi đã đến rồi, anh em sẽ phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một
mình" (Ga 16,32); "Chúa Cha ở với Thầy và Thầy ở với anh em".
Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban
cho anh em một Ðấng phù trợ khác và Ngài đến ở với anh em luôn mãi" (Ga
14,16).
Thiên
Chúa ở gần chúng ta luôn mãi để nâng đỡ và che chở chúng ta, song tiếc thay
chúng ta không biết hay không màng chi đến Ngài, như hai môn đệ trên đường
Emmau có Chúa cùng đi với họ trong những lúc họ chán nản nhất mà họ không nhận
ra. Như câu chuyện người đi trên cát kể rằng: Trong giấc mộng nửa đêm, một người
kia mơ thấy mình đi bộ với Thiên Chúa trên bãi biển. Người kia đã hồi tưởng mọi
giai đoạn cuộc sống của mình được chiếu lại trên bầu trời xanh, trong đó anh
cũng thấy có hai cặp dấu chân in song hành trên cát, một của anh và một của
Chúa. Nhưng khi nhớ lại đến một quãng đời đen tối nhất của mình, thì anh lại thấy
lúc đó chỉ có một cặp dấu chân mà thôi. Như hoảng sợ, anh liền hỏi Chúa:
"Lạy Chúa, Chúa nói rằng một khi con theo Chúa thì nhất định Chúa sẽ mãi
mãi đồng hành với con, nên con không hiểu được tại sao lúc con cần Chúa hơn hết
thì Chúa lại bỏ con?"
Thiên
Chúa trả lời: "Này con yêu quí của Cha, Cha rất yêu thương con và không
bao giờ lìa bỏ con, lúc con bị đau khổ thử thách nhất, con thấy có chỉ có một cặp
dấu chân trên cát là vì lúc đó Cha bồng con trên tay". Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 19:1-8: Jn
16:29-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn ngữ xử dụng
trong việc rao giảng Tin Mừng.
Người
rao giảng phải xử dụng ngôn ngữ nào để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả? Trước
tiên, xét về phía người rao giảng, vì họ là người đem lời chân lý của Chúa đến
cho con người; nên lời của họ phải chứa đựng sự thật. Thứ đến, xét về phía người
nghe, đại đa số là thường dân và không có vốn liếng văn chương nhiều để hiểu biết
những lời nói bóng bảy, chải chuốt. Vì thế, ngôn ngữ các nhà giảng thuyết dùng
phải làm sao cho đơn giản, trong sáng, và dễ hiểu. Hơn nữa, mục đích của việc
rao giảng Tin Mừng là đưa khán giả tới niềm tin vào Thiên Chúa và thúc đẩy việc
ăn năn xám hối; chứ không phải là để thưởng thức những áng văn hay phân tích
văn chương. Vì thế, nhà giảng thuyết phải dùng những lời chân tình, do Thánh Thần
hướng dẫn, để đánh động tâm hồn khán giả, giúp họ nhận ra tình thương Thiên
Chúa, và nhận ra những yếu đuối và tội lỗi của họ, sẵn sàng cho sự hoán cải tâm
hồn.
Các
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những ví dụ cụ thể trong việc loan truyền Tin Mừng.
Trong Bài Đọc I, khi Phaolô đến Ephesô và hỏi các tín hữu ở đây họ đã lãnh nhận
Thánh Thần chưa, họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng
chưa hề được nghe nói." Phaolô giải thích cho họ về sự khác nhau giữa hai
Phép Rửa, và khi họ đã hiểu, ông làm Phép Rửa nhân danh Đức Kitô cho họ, và họ
được lãnh nhận Thánh Thần. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu biết Cuộc Thương Khó
đã gần kề, Ngài xử dụng ngôn ngữ chân thành của tình yêu để giúp các Tông-đồ hiểu
rõ những gì sắp xảy ra; để các ông biết cách đối phó khi phải đương đầu với tình
thế.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Phaolô kiên nhẫn giáo dục các tín hữu tại Ephêsô.
1.1/
Phaolô phân biệt hai Phép Rửa: Trong thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội, nhiều tín hữu nghĩ chỉ có
một Phép Rửa duy nhất là Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả. Họ chưa bao giờ
nghe tới Phép Rửa bằng Thánh Thần nhân danh Đức Kitô, và tại sao phải chịu Phép
Rửa này, như lời các tín hữu tại Ephesô trả lời Phaolô hôm nay: "Ngay cả
việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói." Hiểu biết sự
thiếu thốn của dân, Phaolô kiên nhẫn mở trí cho họ:
(1)
Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả: là Phép Rửa tỏ lòng sám hối. Ông Gioan
làm Phép Rửa này để tha thứ và chuẩn bị tâm hồn cho dân để họ tin vào Đấng đến
sau ông, tức là Đức Giêsu. Phép Rửa này cần thiết, nhưng không phải là Phép Rửa
duy nhất.
(2)
Phép Rửa bằng Thánh Thần của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan,
nhưng không để được tha tội, vì Ngài chẳng có tội gì để được tha. Các Giáo Phụ
cắt nghĩa, Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan để thánh hiến Nước của sông
Jordan và tất cả nước mà Giáo Hội dùng để rửa tội cho các tín hữu. Nhưng điều
khác biệt chính giữa hai Phép Rửa là sự hiện diện của Thánh Thần đậu xuống trên
Ngài.
Khi
các tín hữu chịu Phép Rửa, họ không chỉ được tha tội, nhưng còn được thánh hóa
bởi Thánh Thần. Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách làm cho họ hiểu biết Lời
Chúa, và ban những ơn thánh cần thiết để giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của những
người làm con Chúa. Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi chứng kiến anh chị
em tân tòng gia nhập đạo: họ không chỉ chịu Phép Rửa bằng nước, nhưng còn lãnh
nhận Thánh Thần qua việc xức dầu, và sau cùng được lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể
trong cùng một nghi lễ. Đối với các em bé, Giáo Hội chia ra làm ba Bí-tích
riêng biệt trong quá trình thành người trưởng thành của em: Rửa Tội khi ra đời,
lãnh nhận Mình Chúa khi đến tuổi biết phân biệt, và Thêm Sức khi đến tuổi biết
làm chứng.
1.2/
Phaolô làm Phép Rửa ban Thánh Thần cho các tín hữu: "Khi ông
Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và
nói tiên tri. Cả nhóm có chừng mười hai người." Nói tiếng lạ không chỉ giới
hạn vào việc nói các ngôn ngữ khác nhau như các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần;
nhưng trải rộng trong việc nói ngôn ngữ làm cho người khác hiểu những gì mình
nói: ngôn ngữ của sự thật và của tình yêu. Nói tiên tri cũng không giới hạn vào
việc tiên báo những sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai; nhưng là nói thay Chúa,
loan truyền những Tin Mừng cho những người chưa được nghe Thiên Chúa nói trong
cuộc đời của họ. Khi các tín hữu được nói tiếng lạ và nói tiên tri, họ không
nói những lời vô nghĩa và lộn xộn như những người mất trí; nhưng là những lời sự
thật và xây dựng mà các tín hữu khác có thể hiểu. Sau khi làm Phép Rửa, ông
Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận
về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ.
2/
Phúc Âm:
Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.
2.1/
Đức tin và sự thử luyện:
(1)
Chúa Giêsu nói từ tâm lòng với các môn đệ: Như chúng tôi đã đề cập trong những
lần chia sẻ trước, trình thuật hôm nay nằm trong phần giáo dục dành riêng cho
các môn đệ của Chúa Giêsu. Khán giả khác thì ngôn ngữ và lối suy luận dùng cũng
phải khác, nhất là Chúa Giêsu không cón nhiều thời gian để dạy dỗ các ông, nên
Ngài dùng ngôn ngữ của trái tim để chuẩn bị cho các ông những gì sắp xảy đến.
Không lạ gì mà các ông hiểu và thưa Ngài: "Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ
không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi
sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên
Chúa mà đến."
(2)
Giờ các môn đệ có đức tin là giờ mà cả Thầy trò phải chịu thử thách. Đức Giêsu
đáp: "Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ - và giờ ấy đã đến rồi - anh em sẽ
bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc
đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy." Chúa Giêsu không có ý mỉa mai các môn đệ khi
nói những lời này, nhưng Ngài muốn các ông hiểu hai sự thực quan trọng: Thứ nhất,
đức tin cần phải được thử luyện để biết đâu là đức tin vững chắc. Thứ hai, người
nào có đức tin vững chắc không bao giờ cô độc; người ấy luôn có Thiên Chúa đồng
hành và vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
2.2/
Chúa Giêsu để lại hai nguồn bình an của Ngài cho các môn đệ.
(1)
Các môn đệ được bình an khi phản bội Thầy: Làm sao chúng ta hiểu câu tuyên bố của
Chúa: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình
an." Chúa biết các ông sẽ phản bội Ngài vì sợ hãi và yếu đuối trong Cuộc
Thương Khó; nhưng Chúa vẫn yêu thương và trung thành với các ông. Chúa muốn nói
những lời này trước khi sự phản bội xảy ra, để các ông đừng thất vọng đến chỗ
tìm quyên sinh như Judah, nhưng biết tin vào sự tha thứ của Ngài.
(2)
Lời hứa chiến thắng trước khi đụng trận: "Trong thế gian, anh em sẽ phải
gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian." Không có gì
kích thích lòng nhiệt thành của các môn đệ hơn là lời hứa sẽ chiến thắng. Một
khi đã nắm chắc phần thắng lợi trong tay, người môn đệ sẽ lao vào chiến trường
mà không gian nguy nào có thể làm chùn chân ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta không cần dùng những lời lẽ văn chương bóng bảy hay chải chuốt trong
việc loan báo Tin Mừng; nhưng cần những lời sự thật, đơn sơ mà mọi người đều có
thể hiểu.
-
Quan trọng hơn nữa là chúng ta nên dùng những lời chân tình phát xuất từ trái
tim, và được sưởi ấm bởi Thánh Thần. Khán giả dễ nhận ra và đồng cảm với những
người quan tâm đến cuộc sống của họ, vì Thánh Thần cũng là Người đang hoạt động
trong khán giả.
-
Chúng ta đừng sợ bất cứ điều gì trong hành trình rao giảng Tin Mừng, vì chúng
ta tin tưởng Ba Ngôi Thiên Chúa luôn đồng hành để soi sáng, nâng đỡ và bảo vệ
chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
18/05/15 THỨ HAI TUẦN 7
PS
Th. Gio-an I, giáo hoàng, tử đạo
Th. Gio-an I, giáo hoàng, tử đạo
Suy niệm: Các
môn đệ có làm cho chúng ta ngạc nhiên, khi nói rằng: “Bây giờ chúng con tin Thầy từ
Thiên Chúa mà đến”? Sau ba năm sống gần Thầy, thấy các phép lạ, nghe các lời dạy
bảo của Thầy, mà đến bây giờ các ông mới tin vào Chúa, kể cũng... đã muộn! Thế
nhưng chúng ta còn ngạc nhiên hơn, khi thấy rằng thật ra các ông “nói vậy nhưng
không phải vậy”: trong cuộc khổ nạn, các ông đã thất đảm, chối thầy, phản bội,
chạy trốn, bỏ mặc Chúa một mình... Chúa Giê-su thấy rõ đức tin non nớt của các
ông. Ngài không trách, trái lại, còn cảm thông và củng cố bằng những lời đầy
khích lệ:“Trong
thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng
thế gian”.
Mời Bạn: Để
cùng chiến thắng với Đức Ki-tô mời bạn đặt niềm tin vào Ngài: “Ai là kẻ thắng được thế gian,
nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa?”
(1Ga 5,5). Nhiều khi chúng ta tưởng mình đã tin Chúa vững mạnh, nhưng khi phải
đối diện với thử thách, chúng ta mới nhận ra rằng niềm tin của mình còn mong
manh lắm. Bạn đã áp dụng những phương thế nào để củng cố đức tin: học hỏi giáo
lý, Kinh Thánh, tham dự phụng vụ, lãnh nhận bí tích?
Sống Lời Chúa: Đưa
các phương thế nói trên vào chương trình sống để bồi dưỡng thường xuyên đức tin
của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, lòng tin của chúng con mỏng dòn lắm, xin thêm đức tin
cho chúng con. Xin Lời Chúa trở thành ánh sáng soi đường con đi, để cùng Chúa,
chúng con vượt qua những gian nan khốn khó đời này mà đạt tới sự sống đời đời.
Amen.
Thầy không một mình
Đức Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối,
vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài, và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha
Suy niệm:
Cô đơn trên đời là điều ai
cũng sợ.
Phải chăng vì người ta không
được dựng nên để sống một mình?
Chẳng phải chỉ người trẻ mới
sợ cô đơn và tìm cách tránh né.
Người già cũng sợ không kém
.
Người ta sợ đi về thế giới
bên kia một mình.
Trong thân phận làm người,
Đức Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn.
Ngài không lập gia đình,
không có một người bạn đời để chia sẻ.
Bù lại, Ngài có những người
thân yêu ở làng Nazareth.
Nhưng ngay cả cha mẹ Ngài
cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50).
Khi đi rao giảng Tin Mừng,
Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.
Tiếc thay, họ không phải là
những người luôn luôn hiểu Ngài.
Ngài muốn chia sẻ cho họ tất
cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha.
Nhưng họ chưa đủ sức kham
nổi.
Đức Giêsu không phải là
người thích cô đơn, khép kín.
Ngài dễ đến với dân chúng,
với mọi hạng người.
Ngài gặp gỡ họ, loan Tin
Vui, và cho họ được tâm thân an lạc.
Các bệnh nhân, tội nhân, trẻ
em, phụ nữ,
cũng không ngại đến với Ngài
để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.
Dù vậy tìm được một sự đồng
cảm trọn vẹn nơi con người
vẫn là điều khó đối với Đức
Giêsu,
bởi lẽ Ngài còn thuộc về một
thế giới khác trên cao.
Ngài mãi mãi là một màu nhiệm
đối với trí khôn hạn hẹp của con người.
Chỉ khi trở về với nguồn cội
đời mình,
Đức Giêsu mới ra khỏi được
nỗi cô đơn trống trải ấy.
“Tôi không (xét đoán) một
mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8, 16).
Chính vì Đức Giêsu luôn nói
và làm mọi sự theo ý Cha,
nên Ngài chẳng bao giờ cô
đơn .
“Đấng đã sai tôi vẫn ở với
tôi; Người không để tôi một mình,
vì tôi luôn làm những điều
đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Vào giây phút chia ly này,
khi Đức Giêsu biết điều sắp xảy đến:
“Anh em sẽ bị phân tán mỗi
người mỗi ngả, và để Thầy một mình.
Nhưng Thầy không một mình
đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32).
Đức Giêsu không cô đơn trong
cuộc sống,
mà ngay cả khi Ngài kêu lớn
tiếng trên thập giá :
“Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao
Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34),
lúc đó lại là lúc Đức Giêsu
gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả.
Đức Giêsu thực sự chẳng bao
giờ cô đơn tuyệt đối,
vì Cha thực sự chẳng bao giờ
bỏ Ngài,
và Ngài cũng chẳng bao giờ
bỏ Cha.
Chúng ta xin được ơn dám
chịu cô đơn trước thế gian tội lỗi,
để được một mình với Chúa.
Cầu nguyện:
Giữa những ồn ào của đám đông,
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại,
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó,
trầm lắng và bình an.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18
THÁNG NĂM
Chúng
Ta Không Bị Bỏ Mồ Côi
“Thầy
sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác – để ở với anh em
luôn mãi: đó là Thần Khí sự thật…” (Ga 14, 16 – 17). “Thầy sẽ không bỏ anh em mồ
côi; Thầy sẽ đến với anh em” (Ga 14, 18).
Đức
Giêsu nói những lời này để chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận cuộc ra đi của Người
khi sứ mạng mê-si-a của Người trên dương thế gần đến hồi kết thúc. “Thầy sẽ
không bỏ anh em mồ côi; Thầy sẽ đến với anh em”, khi nói những lời ấy, Đức
Giêsu muốn nói về những ngày sau phục sinh – tức 40 ngày mà Người sẽ tiếp tục
trải qua với các môn đệ. Những lời đó, đồng thời, cũng nhằm hướng chỉ đến Chúa
Thánh Thần.
Đức
Kitô Phục Sinh không để các môn đệ Người “mồ côi”. Người không để Giáo Hội “mồ
côi”. Thật vậy, Người trao cho chúng ta Thánh Thần.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
18 - 5
Thánh
Goan I, giáo hoàng tử đạo
LỜI
SUY NIỆM: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong
Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó.
Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”.
Chúa
Giêsu đang báo cho mỗi người trong chúng ta biết trước những khó khăn trong đời
sống sẽ gặp phải, cần phải đối đầu, những điều này sẽ trở nên lo lắng sợ hải
cho mỗi người. Nhưng chúng ta cần biết rằng Người đang ở trong chúng ta và
chúng ta đang được ở trong Người, luôn có sự đồng hành của Người, với ơn
ban của Người để chiến thắng, và hưởng trọn niềm vui; như Người đã chiến thắng
thế gian.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa đã thắng thế gian. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình
chúng con luôn biết gìn giữ ơn cứu độ của Chúa trong chúng con để chúng con có
niềm vui trọn vẹn trong cuộc sống.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
18-05: Thánh GIOAN I
Thánh
Gioan sinh tại Tuscia. Ngài được chọn làm giám mục Rôma ngày 13 tháng 8 năm
523. Người ta không biết gì về đời thơ ấu của thánh nhân, nhưng tư ngày lên kế
vị thánh Pherô Ngài đã nhiệt thành sống khẩu hiệu "tất cả vì danh
Chúa". Ngài đã có công hoàn thành nhạc bình ca mà các vị tiền nhiệm của
Ngài là Đức Celestinô I, Leo Cả và Galesiô khởi xướng.
Năm
624, vua Justinô I bên Tiểu Á muốn hiệp nhất Giáo hội cũng như nhằm mục đích
chính trị đã đàn áp nhóm theo lạc giáo Ariô. Tại Roma vua Theodôricô là người
theo lạc giáo Ariô đã tức giận bắt đức giáo hoàng Gioan dẫn đầu phái đoàn đi
thương thuyết. Sau nhiều lần phản đối, Ngài đã chấp nhận lên đường. Đây là lần
đầu tiên có một vị giáo hoàng rời khỏi nước Ý. Vua Justinô và toàn dân
Constantinopole hân hoan vui mừng đón tiếp Đức Giáo hoàng. Ngài đã cử hành lễ
phục sinh tại thánh đường thánh nữ Sôphia và phong vương cho vua Justinô.
Trở
lại Rôma, Ngài bị vua Thêđôricô cho là đã hành động phản nghịch với mình. Tức
giận, ông tính xử tử Ngài, nhưng lại sợ dân chúng nổi loạn, nên bắt giam Ngài tại
Ravenna. Tại đây đức giáo hoàng đã từ trần ngày 18 tháng 5 năm 526.
Ngày
27 tháng 5 năm 530 xác Ngài được dời về Roma. Niên lịch phụng vụ cử kính nhớ
Ngài vào ngày này.
(daminhvn.net)
18
Tháng Năm
Cánh Diều
Người
Rumani nói về nguồn gốc của trò chơi thả diều bằng mẩu chuyện như sau:
Tại
một làng kia, có một người nghèo mà ai cũng gọi là Cob. Cob là một tên gọi
không mấy thanh cao trong ngôn ngữ Rumani. Người ta gọi ông bằng tên ấy vì cái
miệng sún răng cũng như đôi chân khập khiễng của ông. Con người có dáng vẻ xấu
xí ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể là một người nghèo mà thôi. Không vợ, không con,
ông Cob lầm than như tất cả những người nghèo khác. Ði đến đâu, ông cũng trở
thành trò đùa cho mọi người. Vậy mà con người ấy không hề than thân trách phận
hoặc tỏ ra giận dữ, buồn phiền mỗi khi bị chọc ghẹo.
Cả
đời, ông chỉ có mỗi một băn khoăn: là chưa hề làm một việc thiện cho người
khác. Ông yêu người, ông muốn tặng thật nhiều quà cho mọi người. Nhưng ông cảm
thấy mình quá nghèo để có thể thực hiện được giấc mơ ấy. Ông thường tự nhủ:
"Bệnh tật, đau yếu, khốn khổ, chết chóc, đó là số phận chung của mọi người.
Ai không nhỏ lệ thì cũng khóc thầm trong lòng. Nước mắt là cơm bữa của loài người.
Do đó, cần phải làm cho con người phấn khởi, vui tươi". Nghĩ thế, ông
trình bày lên Chúa tước nguyện như sau: "Xin Chúa cho con có thể mang lại
cho những người đau khổ một quà tặng".
Một
quà tặng cho nhân loại đau khổ, nhưng ông Cob vẫn không biết món quà đó phải
như thế nào. Trong khi chờ đợi, mỗi lần bị cười chê, mỗi lần bị đem ra làm trò
cười, ông vẫn tươi cười với ý nghĩ rằng: "Ít ra mình cũng làm cho người
vui".
Sau
một thời gian suy nghĩ, cuối cùng ông Cob mới tìm ra được món quà tặng mà ông sẽ
mang lại cho nhân loại đau khổ: đó là một cánh diều bay lơ lửng trên không.
Nghĩ
đó là sự linh ứng của Chúa, ông Cob đi nhặt tất cả những gì cần thiết để làm một
cánh diều. Ông miệt mài cắt xén, sơn vẽ để hoàn thành được một cánh diều óng ả,
sáng chói như một đĩa bay.
Khi
cánh diều gặp gió bay cao, cả dân làng kéo nhau ra cánh đồng để nhìn ngắm cánh
diều của ông Cob. Mọi người đưa mắt nhìn lên không trung và quên hẳn những nhọc
nhằn của cuộc sống. Ðó là quà tặng mà người khốn khổ nhất của ngôi làng đã mang
lại cho người đồng loại của mình.
Một
tác giả nào đó đã nói: "Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, mà
là một món quà để trao tặng". Một trái tim không biết trao tặng là một
trái tim chết.
Sự
giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người
tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt mòng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả
tim, và quả tim đó lẽ ra phải giống nhau, bởi vì người ta không thể cân lường
được quả tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món
quà không hệ tại ở số lượng của tiền của, mà ở quả tim được gói gém trong món
quà.
Chúa
Giêsu đã nhìn thấy qủa tim mà một người đàn bàgóa đã gói trọn trong một đồng xu
nhỏ dâng cúng đền thờ. Nhân vật Cob trong câu chuyện của người Rumani trên đây
đã đặt tất cả con tim của mình vào cánh diều để làm vui cho con người.
Một
ánh mắt, một nụ cười, một lời nói an ủi, một bàn tay nâng đỡ, đó là bao nhiêu
quả tim mà con người có thể trao tặng cho nhau. Và có thể là những món quà cao
quý nhất mà những người xung quanh đang chờ đợi nơi chúng ta.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét