Trang

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2019

19-03-2019 : THỨ BA - TUẦN II MÙA CHAY - THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA - LỄ TRỌNG


19/03/2019
Thứ ba tuần 2 Mùa Chay
THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA.
Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.


BÀI ĐỌC I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16
“Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Đavít, tổ phụ Người”.
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng: “Hãy đi nói với Đavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Đáp: Miêu duệ người tồn tại đến muôn đời (c. 37).
Xướng:
1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. – Đáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Đavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”. – Đáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Đá Tảng cứu độ của con”. Đời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Rm 4, 13. 16-18. 22
“Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin, được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ của mọi người chúng ta, (như có lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông đã tin, Đấng cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế”. Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA HOẶC CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM (Mùa Chay: bỏ Alleluia) Tv 83, 5
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, phúc cho những ai ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 1, 16. 18-21. 24a
“Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền. Đó là lời Chúa.
  1. Hoặc: Lc 2, 41-51a
“Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người.
Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: “Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”. Người thưa với hai ông bà rằng: “Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?” Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Thánh Giuse, người sống theo lời Chúa
Không biết từ bao giờ, người Công giáo chúng ta vẫn thường gọi thánh Giuse là “Thánh Cả”. Khi gọi thánh Giuse với danh xưng như thế, phải chăng chúng ta muốn nói đến sự cao trọng, lớn lao của ngài. Thế nhưng, đọc suốt Thánh Kinh, chúng ta không bắt gặp một lời nào của thánh Giuse. Thánh Kinh chỉ ghi lại những việc làm của thánh Giuse như: đón Đức Maria về nhà, đưa Mẹ Maria về Bêlem đăng ký sổ bộ, đưa Thánh Gia trốn sang Ai Cập rồi trở về định cư tại Nazareth, cùng với Đức Maria dâng Con lên Đền thờ và cuộc hành hương lên Giêrusalem khi Hài Nhi Giêsu lên 12 tuổi. Những việc làm này nhìn qua thật đơn giản nhưng lại có một điểm chung, đó là tất cả đều làm theo lời dạy của Thiên Chúa. Và phải chăng, đây là điều làm cho thánh nhân trở nên cao trọng.
Thật vậy, chúng ta chỉ có thể trở nên cao trọng khi sống theo lời Chúa. Vì lúc đó, chúng ta không chỉ là thắng một trận chiến, hay thắng một người nào khác từ bên ngoài, nhưng là chiến thắng chính mình. Và đây mới thực sự là cuộc chiến thắng vinh quang nhất. Kinh nghiệm cuộc sống cũng cho chúng ta thấy rằng, chỉ khi chúng ta làm chủ được mình, chúng ta mới thật sự là người trưởng thành như lời cha ông chúng ta vẫn thường nói: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. “Bình thiên hạ” nhìn bên ngoài là một việc lớn, nhưng để làm việc này, thì trước đó cần phải chu toàn một việc quan trọng và nền tảng hơn, đó là “tu thân”, nghĩa là phải tập làm chủ mình, hay nói theo cái nhìn đức tin là vượt thắng bản thân, để sống theo lời Chúa.
Luôn cố gắng sống theo lời Chúa cũng là một đặc điểm của vua Đavít. Vua Đavít mặc dù là một vị đế vương, nhưng vẫn luôn cố gắng sống theo Lời Chúa mà câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài đọc một là một ví dụ cụ thể. Lúc đó, sau khi đã bình ổn được đất nước, chấm dứt thù trong, giặc ngoài, và đã xây dựng cho mình một dinh thự nguy nga, vua Đavít đã muốn xây một Đền Thờ cho Thiên Chúa. Ông đã bàn bạc việc này với ngôn sứ Nathan. Nhưng thánh ý Thiên Chúa lại khác. Qua ngôn sứ Nathan, Thiên Chúa đã cho nhà vua biết rằng: không phải vua xây nhà cho Chúa, nhưng chính Chúa sẽ xây nhà cho vua, nghĩa là làm cho ngôi báu, cho triều đại của nhà vua được vững bền như lời Chúa phán: “Ta sẽ là Cha của ngươi, và ngươi sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.
Lời hứa này trước mắt là nói đến vua Salomon, con của Đavít, một vị vua nổi tiếng vì sự khôn ngoan. Chính vua Salomon đã xây đền thờ Giêrusalem và xây dựng một triều đại huy hoàng. Nhưng theo truyền thống từ xa xưa, dân Chúa vẫn coi đây là lời hứa tiên báo về triều đại của Đấng Messia. Như thế, nhờ luôn lắng nghe và sống theo lời Chúa, vua Đavít đã nhận được lời hứa trở nên tổ phụ của Đấng Cứu Thế. Lời hứa đó, hôm nay đã trở nên hiện thực với lời sứ thần của Thiên Chúa báo mộng cho thánh Giuse: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình,…bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu”. Với việc giao cho thánh Giuse, một người thuộc dòng dõi vua Đavít đặt tên cho Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thực hiện trọn vẹn lời hứa của mình với vua Đavít.
Tin Mừng thuật tiếp: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền”. Thánh Giuse đã làm như lời thiên thần truyền mà không một lời thắc mắc hỏi han. Điều này cho thấy một đức tin vững chắc vào Thiên Chúa của thánh Giuse. Thánh nhân đã dám làm những điều mà theo suy nghĩ tự nhiên là không thể, đó là nhận lãnh sứ mạng làm cha của Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa của mình. Đây không phải là một đức tin mù quáng, nhưng là một đức tin của người tin rằng Thiên Chúa có thể làm những điều mà con người không thể. Và chỉ có đức tin đó mới có thể làm cho chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô nói về tổ phụ Abraham: “Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế”. Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính”.
Tin tưởng, lắng nghe và thực hành tất cả những điều Thiên Chúa dạy là những điều mà thánh Giuse đã làm trong suốt cuộc sống của mình. Chính vì thế, thánh nhân được gọi là “Thánh Cả”, hay nói theo cách nói của Thánh Kinh, thánh nhân còn được gọi là: “Người Công Chính” và được giao một nhiệm vụ quan trọng là trở thành thầy dạy đầu tiên và là “người gìn giữ Đức Giêsu trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ” như chúng ta vừa nghe trong lời nguyện Nhập lễ.
Tóm lại, chính nhờ đức tin mà thánh Giuse có thể sống phó thác hoàn toàn cuộc đời của mình trong bàn tay Thiên Chúa, sẵn sàng làm mọi điều Chúa dạy. Và nếu chúng ta cũng luôn sống theo lời Chúa như thế, chúng ta sẽ có một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa.
Mừng lễ thánh Giuse hôm nay trong tư cách là một người Gia trưởng như tên gọi của ngày lễ đã diễn tả: THÁNH GIUSE BẠN ĐỨC TRINH NỮ MARIA, gợi lên cho từng người chúng ta nhiều bài học.
Trước hết, theo nghĩa rộng, tôi thiết nghĩ đây là ngày lễ của tất cả từng người chúng ta đây, không trừ một ai. Bởi vì nếu gia trưởng là người đứng đầu và chịu trách nhiệm cho một tập thể, thì phải chăng, từng người chúng ta cũng đang là một gia trưởng cho chính con người của chúng ta với một tập thể có rất nhiều các bộ phận khác nhau: từ khối óc cho đến con tim; từ con mắt cho tới tay chân, miệng lưỡi… Do đó, chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về những suy nghĩ, tình cảm, lời nói và hành động của chúng ta. Vì thế, bài học đầu tiên, chúng ta học được nơi thánh Giuse là hãy đặt trọn vẹn con người của chúng ta dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa, như lời của thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Đời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi” (Ga 2, 20). Cụ thể, trước mỗi lời nói, hành động, chúng ta hãy suy nghĩ, Chúa có muốn tôi nói và làm điều đó không?
Kế đến, đó là ngày lễ của tất cả những người chịu trách nhiệm về một cộng đoàn: cộng đoàn đó có thể là một gia đình, nhưng cũng còn là một giáo xứ, một dòng tu, một đoàn thể, một giới, hay đơn giản hơn: một lớp giáo lý. Trong tư cách là người chịu trách nhiệm trên những người khác, chúng ta hãy nói gương thánh Giuse, sẵn sàng bỏ ý riêng để thực hiện ý Chúa. Khi gặp những điều trái ý, chúng ta không vội vàng, không nóng nảy, nhưng bình tĩnh tìm hiểu thánh ý của Thiên Chúa, rồi giải quyết mọi sự theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Giờ đây, nhờ lời bầu cử của Thánh Cả Giuse, xin cho từng người, từng gia đình chúng ta luôn siêng năng học hỏi và sống lời Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Nhờ đó, gia đình và cộng đoàn của chúng ta sẽ luôn sống trong bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
(Nguồn: tgp saigon)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Trọng Kính Thánh Giuse
Bài đọc2 Sam 7:4-5a, 12-14a, 16; Rom 4:13, 16-18, 22; Mt 1:16, 18-21, 24a.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Giuse trở nên công chính nhờ niềm tin vào Thiên Chúa.
Con người luôn bị giằng co giữa hai thái cực: một bên là đức tin tuyệt đối vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa, một bên là sự suy luận theo lý trí của con người. Khi có sự xung đột, con người phải chọn đàng nào? Nhiều người cho họ chỉ tin những gì lý trí con người có thể hiểu được; ngoài ra là mê tín dị đoan. Nhưng Thiên Chúa đã tuyên sấm qua miệng tiên tri Isaiah: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất thế nào, tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các người như vậy” (Isa 55:8-9). Lịch sử nhiều lần chứng minh: vâng lời làm theo ý Thiên Chúa mang lại những kết quả quá lòng mong đợi của con người; ngược lại, bất tuân thánh ý Thiên Chúa để làm theo ý riêng mình sẽ gây ra muôn vàn khổ đau cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những mẫu gương của những người thi hành thánh ý Thiên Chúa cho dẫu họ không hiểu kế hoạch của Ngài. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa hứa với vua David dòng dõi ông sẽ làm vua cai trị tới muôn đời. Điều này được thực hiện qua Đức Kitô, Ngài thuộc dòng tộc David và sẽ cai trị tới muôn đời. Trong Bài Đọc II, Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abraham một dòng dõi đông như sao trên trời, trong khi ông chỉ có hai người con duy nhất: Isaac bởi Sarah và Ismael bởi Hagar. Lời hứa này cũng được làm trọn nơi Đức Kitô, tất cả những ai tin vào Đức Kitô, họ trở thành con cháu của tổ phụ Abraham. Trong Phúc Âm, thánh Giuse chấp nhận đón Đức Mẹ về chung sống; sau khi được sứ thần của Thiên Chúa cho biết việc Đức Mẹ chịu thai là do quyền năng của Thánh Thần.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta.
1.1/ Lời Thiên Chúa hứa với vua David: Sau khi đã ổn định đất nước, vua David nói với tiên tri Nathan ý định muốn xây nhà cho Thiên Chúa tại thành của David; nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là David: Đức Chúa phán thế này: Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền.”
Không phải David sẽ xây nhà cho Thiên Chúa; nhưng chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho ông. Nhà ở đây ám chỉ dòng dõi của David; từ dòng dõi này sẽ xuất hiện Đấng Thiên Sai và uy quyền cai trị sẽ tồn tại đến muôn đời.
1.2/ Lời Hứa của Thiên Chúa: Thiên Chúa cho biết người sẽ xây nhà cho Ngài là Solomon, con kế vị của vua David: “Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi.”
Lời Hứa của Thiên Chúa bị đe doạ bởi sự bất trung của hậu duệ của vua David. Có những lúc tưởng chừng như nhà David sẽ hết người nối ngôi, như thời kỳ bị lưu đày; nhưng Thiên Chúa vẫn quan phòng cách khôn ngoan, cho đến ngày Đấng Thiên Sai ra đời từ dòng dõi David.
2/ Bài đọc II: Abraham được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin.
2.1/ Đe dọa của niềm tin: Khi Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abraham một dòng dõi, ông vẫn chưa có lấy một người con dù đã quá tuổi sinh con (Gen 15). Làm sao một người có thể có con đông như sao trên trời và như cát dưới biển, khi chưa có lấy một người con trong lúc tuổi già?
2.2/ Đức tin của tổ phụ Abraham: Nhưng Abraham hoàn toàn tin vào Lời Thiên Chúa hứa, và đó là lý do Abraham được trở nên công chính, như lời thánh Phaolô viết: “Thật vậy, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Abraham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin.”
Thánh Phaolô muốn đả phá một quan niệm sai lầm của người Do-thái: con người trở nên công chính bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật. Ngài dùng chính những gì đã xảy ra cho Abraham để đả phá quan niệm này:
(1) Lời Hứa được Thiên Chúa ban cho Abraham cách nhưng không: Abraham không làm gì để xứng đáng được hưởng những gì Thiên Chúa hứa, như Phaolô xác tín: “Vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Abraham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông.” Hơn nữa Lề Luật được Thiên Chúa ban cho con người sau này, thời của Moses trong cuộc Xuất Hành ra khỏi Ai-cập. Thời của Abraham, làm gì đã có Lề Luật để tuân giữ!
(2) Dòng dõi Abraham được trở nên đông đúc không do di truyền; nhưng do bởi niềm tin của các tín hữu vào Đức Kitô. Phaolô viết: “Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có.”
(3) Con người trở nên công chính bằng đức tin: Abraham không sống trên dương gian để nhìn thấy Lời Thiên Chúa được thực hiện; hơn nữa, Abraham còn chịu rất nhiều thử thách đe doạ niềm tin này. Ví dụ, việc Thiên Chúa muốn ông sát tế Isaac, con ông, trên núi Moriah. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn và thử thách, “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Bởi thế, ông được kể là người công chính.”
3/ Phúc Âm: Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy.
3.1/ Đức tin của Giuse bị thử thách: Cuộc đính hôn của thánh Giuse với Đức Mẹ chắc chắn được Thiên Chúa quan phòng; nhưng Giuse không thể chấp nhận việc Đức Mẹ mang thai khi hai người chưa ăn ở với nhau.
(1) Tình trạng pháp lý: Truyền thống Do-thái về việc cưới hỏi cũng giống như phong tục của Việt-nam. Có ba giai đoạn trong việc cưới hỏi: thứ nhất là giai đoạn hứa hôn, được làm bởi cha mẹ hai bên khi hai trẻ vẫn còn nhỏ. Giai đoạn này không bị ràng buộc nếu sau này một trong hai trẻ không đồng ý tiến tới; thứ hai là giai đoạn đính hôn, thường kéo dài trong khoảng một năm. Theo Luật Do-thái, hai người chính thức thành vợ chồng tuy chưa ăn ở với nhau; nếu muốn ly dị phải theo thủ tục pháp lý. Thánh Giuse và Mẹ Maria ở trong giai đoạn này. Sau cùng là giai đoạn kết hôn, khi hai người ăn ở với nhau.
(2) Cách giải quyết: Một điều Giuse biết chắc chắn là bào thai Đức Mẹ đang cưu mang không phải là của mình. Là người công chính, Giuse không thể chấp nhận bào thai của Đức Mẹ, và ông có hai cách để giải quyết: hoặc tố cáo và Đức Mẹ sẽ bị ném đá vì tội ngoại tình, hoặc bỏ Đức Mẹ cách kín đáo. Vì có lòng nhân từ, Giuse không muốn Đức Mẹ bị ném đá, ông “định tâm bỏ bà cách kín đáo.”
3.2/ Đức tin của Giuse: Khi ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Thiên Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”
Để hiểu việc làm của Giuse, chúng ta cần tìm hiểu truyền thống Do-thái hiểu biết về Thánh Thần. Theo Kinh Thánh, Thánh Thần có ít nhất 4 nhiệm vụ như sau:
(1) Ngài là người mang sự thật từ Thiên Chúa đến cho con người (Exo 31:3; Num 11:25; 27:18; Deut 34:9; 1 Sam 10:10; 2 Sam 23:2; Job 32:8; Psa 32:2);
(2) Làm cho con người hiểu biết sự thật (Gen 41:38; Num 24:2; Psa 32:2; Joel 2:28; Lk 12:12; Jn 14:17; 15:26);
(3) Ngài cùng với Thiên Chúa tạo dựng (Gen 6:3; Jdg 14:6; 1 Sam 11:6; Job 27:3; 33:4; Psa 33:6; 104:30);
(4) Tái tạo dựng con người (Gen 1:2; Jdg 6:34; 11:29; 13:25; 15:9; 1 Sam 10:6; Psa 51:10; 143:10; Job 33:4; Eze 37:1-14; Acts 2:1-4).
Thấm nhuần truyền thống trên, Giuse chấp nhận bào thai của Đức Mẹ dẫu biết bào thai không phải là của mình, ông cũng không đòi cắt nghĩa “việc chịu thai bởi Chúa Thánh Thần;” nhưng tin Thánh Thần là nguyên nhân tạo dựng bào thai đó. Suốt cuộc đời chăm sóc Đức Mẹ và Chúa Giêsu, thánh Giuse luôn để Chúa Thánh Thần hướng dẫn mọi việc và vâng lời làm theo những gì sứ thần truyền. Kinh Thánh tường thuật ba sự kiện: thứ nhất, thánh Giuse chấp nhận đính hôn với Đức Mẹ để trở thành cha nuôi của Đấng Cứu Thế; thứ hai, thánh Giuse chấp nhận đưa Đức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai-cập lúc đang đêm; ngài không nại lý do đang đêm hay làm gì sinh sống nơi đất lạ quê người; sau cùng, ngài chấp nhận đưa gia đình hồi hương và lập nghiệp tại Nazareth; không than phiền phải di chuyển đến nơi ở mới một lần nữa.
Nói tóm, tuy thánh Giuse không để lại một lời nào cho hậu thế; nhưng ngài để cho chúng ta một tấm gương luôn biết lắng nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa. Ngài hoàn toàn tin tưởng nơi quyền năng Thiên Chúa, và khiêm tốn thi hành những gì Thiên Chúa truyền, vì Ngài biết trí khôn của mình không thể hiểu nổi sự quan phòng của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta được trở nên công chính nhờ niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô; chứ không nhờ những việc chúng ta làm.
– Thử thách và đau khổ trong cuộc đời là những cơ hội giúp chúng ta chứng tỏ đức tin nơi Thiên Chúa. Chúng ta hãy biết sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
– Thiên Chúa luôn trung thành giữ những gì Ngài hứa; vì thế, chúng ta cần đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP



19/03/2019 – THỨ BA TUẦN 2 MC
Th. Giu-se, Bạn Trăm Năm Đức Ma-ri-a
Mt 1,16.18-21.24

DÁM MƠ ĐIỀU THÁNH THIỆN
“Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần…” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1,20.24)
Suy niệm: Trong bối cảnh xã hội có nhiều gia đình rạn nứt, ly dị, thánh Giu-se càng trở nên mẫu gương cho mọi người chồng người vợ, đó là mẫu gương dám mơ trong hoàn cảnh bối rối và tăm tối. Hoàn cảnh thánh Giu-se chẳng khác gì hoàn cảnh của nhiều gia đình ngày nay rơi vào. Thánh Giu-se không tìm ra lời giải đáp trước sự kiện vị hôn thê Ma-ri-a bỗng dưng mang thai, lại càng bối rối vì không được một lời giải thích nào từ Ma-ri-a. Gia đình đang êm ả, tại sao rối bời bời thế này? Giải pháp nào cho hoàn cảnh này? Theo lẽ tự nhiên của một người công chính, thánh Giu-se định tâm lìa bỏ Mẹ Ma-ri-a, bỏ cả người con trong lòng Mẹ. Nhưng thánh nhân đã không theo giải pháp dễ dãi đó, ngài đã dám mơ ước cao hơn, mơ ước một giải pháp tốt nhất theo thánh ý Chúa, mơ ước phục hồi bầu khí êm ấm và thánh thiện trong gia đình. Giấc mơ tốt lành đó của thánh Giu-se đã gặp được câu trả lời khi biết được thánh ý Chúa mong muốn nơi thánh nhân: “đừng ngại đón Ma-ri-a vợ ông về.” Thánh Giu-se đã tỉnh giấc và vui sống giấc mơ thánh thiện đó, đón nhận Ma-ri-a về nhà, loại trừ toan tính rời bỏ gia đình.
Mời Bạn: Trước nghịch cảnh trong gia đình, nhiều người chồng vợ phản ứng rất “đời” như lìa bỏ nhau, họ không dám có một giấc mơ thánh thiện cho gia đình. Thánh Giu-se mời bạn cùng ngài có những giấc mơ tốt lành cho gia đình.
Sống Lời Chúa: Cùng dâng gia đình cho Chúa hằng ngày.
Cầu nguyện: Đọc kinh Gia Đình.
(5 Phút Lời Chúa)


Đặt tên cho con trẻ (19.3.2019 – Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Maria)
Suy niệm:

Cô Maria đã đính hôn với ông Giuse và vẫn ở nhà với bố mẹ.
Phải đợi một năm sau cô mới về nhà chồng, mới làm lễ thành hôn thực sự.
Lạ thay cô lại mang thai khi chưa chung sống với Giuse.
Điều này hẳn làm Giuse bối rối và suy nghĩ nhiều.
Ông không thể tố cáo Maria, cũng không thể lấy cô ấy làm vợ.
Chỉ còn cách là ly dị Maria cách âm thầm kín đáo.
Nhưng Thiên Chúa không nghĩ thế.
Ý định của Ngài được báo với Giuse trong giấc mộng.
“Đừng sợ đón Maria vợ ông về,
vì thai nhi được cưu mang nơi bà là do Thánh Thần”
(c. 20).
Giuse hay bị đánh thức vào lúc ông cần nghỉ ngơi.
Phải có lòng tin thế nào Giuse mới dám nhận Maria đang mang thai làm vợ.
Tin thai nhi được Maria cưu mang là “do Thánh Thần” (c. 20),
điều đó không dễ dàng, vì chưa bao giờ xảy ra trường hợp tương tự.
Tin còn là từ bỏ những toan tính và định tâm của mình (cc.19-20)
để vâng phục ý định bất ngờ và khó hiểu của Thiên Chúa.
Điều khiến cho Giuse có một chỗ đứng độc đáo trong lịch sử cứu độ
đó là việc ông đón Maria đang mang thai về nhà mình làm vợ chính thức.
Đơn giản là ông chấp nhận làm đám cưới với Maria.
Đón Maria làm vợ cũng là nhận cả thai nhi trong bụng mẹ làm con.
Giuse là cha khi ông chấp nhận đứng ra đặt tên cho con trẻ (c. 21).
Ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra nếu Giuse cứ muốn âm thầm ly dị Maria?
Giuse đã là chỗ dựa sống còn của ơn cứu độ, là nơi nương tựa của Mẹ và Con.
Nhờ Giuse, Cô Maria không bị mang tiếng ngoại tình,
và bé Giêsu không phải là con hoang, nhưng là con thuộc dòng Đavít.
Đức Giêsu sau này có thể công khai và tự tin đến với dân Ítraen.
Thánh Giuse đã lập gia đình, đã có một mái ấm với người mình yêu.
Ngài sống như một người chồng, người cha bình thường.
Nhưng bên trong lại là những mầu nhiệm.
Ngài không thật sự là chồng của Maria, cũng không thật sự là cha của Giêsu.
Maria không còn là đối tượng để Giuse mê đắm và chiếm hữu,
vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn.
Maria là một mầu nhiệm, Giêsu cũng là một mầu nhiệm.
Giuse sống bên những mầu nhiệm, nên chính đời ngài cũng trở thành mầu nhiệm.
Phải đến với mái ấm ở Nadarét ta mới thấy mầu nhiệm ẩn trong cái bình thường.
Chỉ ai biết nhìn thì mới thấy sự thánh thiện phi thường ở đó.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

19 THÁNG BA
Các Quyền Của Con Người Phản Ảnh Vai Trò Làm Cha Của Thiên Chúa
Giáo Hội nhìn nhận Thánh Giu-se – người công chính – là cha của Đức Giê-su Na-da-rét. Đó là lý do vì sao chúng ta nghe thấy những lời này trong Tin Mừng: “Cha con và mẹ đã lo lắng kiếm tìm con” (Lc 2,48).
Những lời ấy được thốt lên bởi Mẹ Đức Giêsu sau ba ngày tìm kiếm đứa con 12 tuổi của mình và rốt cục gặp thấy Người “trong Đền Thờ, ngồi giữa các bậc thầy dạy, vừa nghe họ,ï vừa đặt câu hỏi” (Lc 2,46).
Tất cả chúng ta đều công nhận rằng câu chuyện được Thánh Sử Luca kể lại này là biến cố duy nhất về thời niên thiếu của Đức Giêsu được Tin Mừng thuật lại. Thật là một câu chuyện đầy ý nghĩa, vì cậu thiếu niên 12 tuổi ấy được gặp thấy ngồi giữa các thầy dạy trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu” (Lc 2,47).
Đồng thời, biến cố này cũng chiếu một tia sáng đặc biệt vào mầu nhiệm làm cha của Giu-se ở Na-da-rét. Chúng ta nhận ra rằng Đức Maria, sau khi quở trách Đức Giêsu (“Này con, sao con nỡ làm thế?”), đã nói tiếp: “Cha con và mẹ đã lo lắng tìm con”. Và Đức Giêsu trả lời: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà Cha con sao?” (Lc 2,49). Đức Maria đã nhắc đến mối quan tâm của một người cha nơi Thánh Giu-se. Còn cậu thiếu niên Giê-su 12 tuổi thì hướng chỉ đến vai trò làm cha của Thiên Chúa.
Nhờ hình ảnh Thánh Giu-se, chúng ta có thể cảm nhận được phần nào mối liên hệ thâm sâu giữa vai trò người cha trong nhân loại và vai trò người cha của Thiên Chúa; chúng ta có thể hiểu vai trò người cha trong nhân loại phát xuất từ vai trò người cha của Thiên Chúa như thế nào – và rút ra được từ vai trò người cha của Thiên Chúa phẩm giá và sự cao cả đích thực như thế nào.
Đối với một con người, việc sinh một đứa con trước hết có nghĩa là mình “nhận nó từ Thiên Chúa”. Sinh một đứa con chính là nhận một món quà do bởi Thiên Chúa tạo thành. Đó là lý do tại sao con cái thuộc về Thiên Chúa trước hết, rồi mới thuộc về cha mẹ mình. Thật vậy, chân lý này vô cùng phong phú và hàm súc cả cho con cái lẫn cho các bậc cha mẹ.
Đây chính là chỗ để ta nhận hiểu tính cao cả của sứ mạng được ủy thác cho người cha và người mẹ – sứ mạng đó là trở thành khí cụ của Cha trên trời trong việc giáo dục con cái mình. Song ở đây ta cũng nhận thấy cái giới hạn rõ ràng mà các bậc cha mẹ phải tôn trọng khi họ nuôi dạy con cái. Cha mẹ không bao giờ được phép tưởng nghĩ rằng mình sở hữu con cái mình. Nhưng cha mẹ phải giáo dục con cái với ý thức thường xuyên về mối quan hệ đặc biệt giữa con cái họ với chính Cha trên trời. Trong mọi sự, họ phải dành mối quan tâm đệ nhất cho Cha trên trời hơn so với mối quan tâm đến vai trò làm cha làm mẹ trần thế của mình.
Thánh gia ở Na-da-rét là mẫu gương hết sức phong phú không chỉ cho các bậc cha mẹ mà cả cho con cái nữa. Thánh Phao-lô nói rằng “Chúa Cha là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15). Tất cả chúng ta hãy không ngừng tiến gần hơn đến Cha trên trời.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 19/3
Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Mẹ Maria
2Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16; Rm 4, 13. 16-18. 22; Mt 1, 16, 18-21.24a.

LỜI SUY NIỆM:  “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô.”
          Thánh Giuse là một con người, vẫn có những hoài nghi, lo âu, hoảng sợ và đau khổ; như mọi con người đang sống trong trần thế này. Nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết Giuse là người công chính nên đã được Thiên Chúa chọn để sống ngay trung tâm Cứu Độ, thánh nhân đảm nhận một trách nhiệm, như người đầy tớ trung thành và vâng phục: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần…Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như lời sứ thần truyền dạy.
          Lạy Chúa Giêsu. Trong đời sống của mỗi người chúng con cũng đang có những băng khoăng lo lắng trước mỗi hoàn cảnh xãy đến cho chúng con. Xin Chúa cho chúng con có đức tin phó thác vào sự quan phòng của Chúa với sự trung thành và vâng phục.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 19-03: Thánh GIUSE
BẠN ĐỨC TRINH NỮ MARIA

Là người thợ trong làng, thánh Giuse, con người ẩn dật nhất trong các thánh. Thuộc dòng dõi vương giả của Israel. Nhà David đã mất vẻ huy hoàng và trở thành nghèo khó. Giuse sống bằng nghề lao công tay mình làm ra, giống như mọi người dân khiêm tốn ta gặp gỡ hàng ngày. Phúc âm gọi người là “Người công chính” đồng nghĩa với người thánh thiện,. Với tâm hồn ngay thẳng, Ngài luôn đi trước nhan thánh Thiên Chúa.
Và Thiên Chúa, Đấng đã chọn tạo vật trong trắng nhất làm Mẹ Đồng Trinh, cũng chọn người công chính làm Đấng bảo trợ của Chúa Con, làm cha nuôi của Người trên trần gian.
Giuse biết lời hứa giữ đức khiết trinh của Đấng được trao phó cho mình như một kho tàng. Và này Ngài khám phá ra rằng : Đấng vô nhiễm tội sắp sinh con. Bi kịch nơi người công chính này ai đo lường nổi, Ngài có phải xua đuổi đấng Ngài đã tin cậy không ?
Thiên thần trấn an Ngài : – Hỡi Giuse, con vua David, đừng ngại nhận Maria bạn ông, bởi vì Đấng hình thành nơi lòng Người là công cuộc của Thánh Thần, Ngài sẽ sinh một con trai. Ông sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, bởi vì Người sẽ cứu dân Người cho khỏi tội.
Giuse thờ lạy những kế đồ khôn dò của Thiên Chúa, Ngài tin vào mầu nhiệm hoàn thành nơi người bạn trinh khiết của mình. Không ai nghi ngờ về ảnh hưởng thần linh trong tổ ấm này. Giuse chú ý tới các mệnh lệnh từ trời cao gửi xuống. Khiêm tốn sâu thẳm, Ngài không bỏ qua một lời nào. Trước hết Ngài chịu đựng mệt nhọc để đưa Maria về Bêlem theo lệnh kiểm tra dân số của nhà vua, Ngài đau khổ khi thấy mọi hàng quá chối từ và chỉ tìm được chỗ trú ngụ nơi chuồng bò.
Chúa Kitô sinh ra. Thánh Giuse là người đầu tiên thờ lạy Ngôi Lời nhập thể, Ngài thờ lạy Chúa với tâm hồn chân thành họa hiếm. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: – Thiên Chúa, một cách nào đó, đổ vào lòng thánh Giuse tia sáng tình yêu vô cùng đối với con của Ngài
Thánh Giuse đã thấy các mục đồng có lòng thanh sạch, các đạo sĩ giàu có quì lạy Chúa hài Đồng. Nhưng rồi, Ngài lại cũng tiên cảm thấy những khổ đau. Bởi vì khi dâng con trẻ vào đền thánh Ngài vui mừng nghe thánh ca đầy hoan lạc của cụ già Simêon, để tiếp ngay sau đó lại nghe lời tiên báo rằng: con trẻ sẽ nên cớ vấp phạm cho nhiều người và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn mẹ con trẻ.
Giuse sống với cây thánh giá này, Ngài đã lo lắng nhiều khi một đêm kia, thiên thần lại hiện ra nói với Ngài: – Hãy chỗi dậy, mang con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai cập vì Hêrodê đang tìm giết con trẻ.
Giuse đã vâng lời không bàn cãi. Ngài vội vã chuẩn bị rồi lên đường bắt đầu cuộc hành trình đầy vất vả: phải tránh những nơi người ta có thể nhận ra, khó tìm được của ăn, ban dêm không chỗ nghỉ. Đặt người mẹ và con trẻ lên lưng lừa, Ngài đi bộ dẫn dắt cho qua những nguy hiểm, kiềm chế mệt nhọc và âu lo, tới Ai cập Ngài làm thợ nuôi gia đình và chờ đợi một lệnh mới từ trời cao. Hêrôđe chết đi. Giuse lại thấy thiên thần bảo rời bỏ đất Ai cập vì những kẻ tìm giết con trẻ đã chết.
Trở lại Nazareth, Giuse luôn ẩn dật, săn sóc Chúa Giêsu dạy nghề cho con trẻ. Đấng cứu chuộc thế gian vâng phục người.
Hàng năm thánh Giuse và Mẹ Maria lên Gierusalem mừng lễ vượt qua. Năm ấy Chúa Giêsu 12 tuổi cũng theo các Ngài. Trở về các Ngài không thấy Chúa Giêsu đâu và sau ba ngày tìm kiếm đã thấy Người ở trong đền thờ, ở giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi họ: Mẹ Maria nói với Người: – Cha con và mẹ đau khổ tìm con.
– Sao lại tìm con ? Cha mẹ không biết rằng: con phải làm việc cho cha con hay sao ?
Đó là lần đầu tiên, Chúa Giêsu xưng mình là con Thiên Chúa.
Sau khi loan báo những lời mang âm hưởng vĩnh cửu ấy, Người trở lại cuộc sống của một con trẻ đơn sơ với thánh Giuse và Mẹ Maria .
Không có gì nói tới việc thánh Giuse qua đời. Thánh Phanxico Salêsiô ghi nhận : – Người ta không thể nghi ngờ là thánh Giuse đã qua đời trước khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết, bởi vì nếu không phải như thế Chúa Giêsu đã không trối phó Đức Mẹ cho thánh Gioan.
Các Kitô hữu tưởng tượng rằng thánh Giuse đã an nghỉ trong tay Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Và niềm tin này đã khiến cho người ta kêu cầu thánh Giuse như Đấng bảo trợ cho được chết lành.
Đức giáo hoàng Piô IX đã đặt thánh Giuse là quan thầy bầu cử Hội Thánh.
(daminhvn.net)


19 Tháng Ba
Người Công Chính

“Ông Giuse, bạn bà là kẻ công chính và không muốn làm ố danh bà, nên đã định bỏ bà cách kín đáo”.
Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của vị thánh mà Giáo hội mừng kính hôm nay: Thánh Giuse, bạn Ðức Trinh Nữ Maria, bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
Ðược Tân Ước gọi là “công chính”, Thánh Giuse không những là người đã giữ đức công bình và trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng và một người cha.
Ðược gọi là “công chính”, theo ý nghĩa của Kinh Thánh, là được Thiên Chúa công chính hóa, được Thiên Chúa cho tham dự vào sự công chính, sự thánh thiện của Người. Vì thế, người được công chính hóa xứng đáng để Thiên Chúa yêu thương, thương yêu thật sự vì Thiên Chúa không bao giờ đóng kịch, giả vờ như người nào đó đáng được thương yêu nhưng trong thực tế không phải thế.
Trong chiều hướng tư tưởng này, gọi thánh Giuse là kẻ công chính, Kinh Thánh muốn nói là: Ngài được Thiên Chúa công chính hóa và được Thiên Chúa yêu thương vì thật sự Ngài xứng đáng. Lần giở lại những trang Tân Ước có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay những đặc tính làm cho Ngài xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương.
Trước tiên, là đặc tính hoàn toàn vâng phục Thánh ý Chúa. Trong trường hợp cuộc đời Thánh Giuse, Tân Ước diễn tả Thiên Thần là người thông báo cho Ngài biết ý Chúa. Vì thế, nghe lời Thiên Thần truyền, Thánh Giuse đã bỏ ý định ly dị Ðức Maria cách kín đáo. Ngược lại, Giuse đã trỗi dậy ngay trong đêm khuya để đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập cũng như đem Con Trẻ và Mẹ Người về nước Israel, đến sinh sống tại thành Nagiaréth và âm thầm nhưng ân cần lấy sức lao động nuôi sống gia đình trải qua những tháng năm dài sau đó.
Tiếp đến Tân Ước nhắc đến Thánh Giuse trong biến cố thất lạc và tìm gặp Ðức Giêsu trong đền thánh. Qua đó chúng ta khám phá ra một đặc tính khác của Ngài hay nói đúng hơn một đặc tính mà các thánh ký viết Phúc Âm chú ý nhấn mạnh nơi Thánh Giuse: Không một lời nói nào của Ngài được ghi lại trong Tân Ước. Nhưng Thánh Giuse đã hùng hồn nói trong hành động, những hành động xem ra vô lý và đầy nguy hiểm, nhưng Ngài đã khiêm tốn, can đảm và kiên trì làm để thực hiện hoàn toàn thánh ý của Thiên Chúa.
Qua đó, Thánh Giuse xứng đáng là chủ gia đình của Nagiaréth, một gia đình thánh thiện, vì gồm ba tâm hồn luôn sẵn sàng lắng nghe và thực hành những gì Thiên Chúa muốn. Và cũng qua đó, Thánh Giuse trở nên công chính, được Thiên Chúa thực sự yêu thương.
Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa đã trao tặng Thánh Giuse cho gia đình Nagiaréth và đặc biệt cho Giáo Hội Việt Nam. Nhờ lời cầu bàu cho Thánh cả Giuse, xin Chúa chúc lành cho những người chồng, cho những người cha, giúp họ can đảm và kiên tâm chu toàn bổn phận trong gia đình. Xin Chúa cũng chúc lành cho mọi gia đình và Giáo Hội Việt Nam, giúp mọi người sống xứng đáng với ơn gọi làm chứng nhân cho tình yêu Chúa.
(Lẽ Sống)



Lectio Divina: Lễ Kính Thánh Giuse, Bạn Đức Mẹ Maria
Thứ Ba 19 Tháng Ba, 2019
Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu
Mt 1:16, 18-21, 24a


1.  Bài Đọc
a)  Lời nguyện mở đầu:
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng di chuyển trên mặt nước,
Xin hãy làm yên tĩnh trong chúng con tất cả mọi bất hòa,
Những con sóng xáo trộn, những tiếng ồn ào của lời nói,
Cơn lốc của hư không,
Và xin hãy làm cho Lời Chúa tái tạo,
Dấy lên trong thinh lặng.

Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng mà trong tiếng gió
Chúa thì thầm với thần khí chúng con về Danh của Chúa Cha
Xin hãy đến và gom lại tất cả những ước muốn của chúng con,
Xin hãy làm cho chúng lớn lên trong tia sáng
Đó sẽ là một phản chiếu lại ánh sáng của Chúa,
Lời Chúa của Ngày mới.

Lạy Thánh Thần Chúa, nhựa sống của tình yêu
Của cây đại thụ mà nơi ấy Chúa gầy dựng chúng con,
Để tất cả anh em của chúng con sẽ dường như là một ân sủng đối với chúng con
Trong một Thân Thể cao cả mà trong đó
Ngôi Lời của hiệp thông trưởng thành.
(Sư huynh Pierre-Yves thành Taizé)

b)  Bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu: 1:16-24
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô.  Như thế, tính chung lại thì:  từ tổ phụ Ápraham đến vua Đavít, là mười bốn đời; từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô, cũng là mười bốn đời.  Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:  Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Êmmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.  Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền và đón vợ về nhà.  Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.

c)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm nhập vào lòng và soi sáng đời sống chúng ta.

2.  Suy Gẫm
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc: 
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ chương thứ nhất của sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu là một phần của đoạn nói về việc thụ thai, việc giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu.  Trọng tâm trên hết của câu chuyện này là chung quanh Con Người của Chúa Giêsu mà tất cả những sự kiện và những nhân vật được đề cập đến.  Ta nên nhớ rằng Tin Mừng mặc khải Thần Học về cuộc đời của Chúa Giêsu, và vì thế đến gần với Lời Chúa, chúng ta phải nhận thấy sứ điệp được ẩn dấu dưới màn che của câu chuyện mà không làm mất chính mình, như thánh Phaolô đã khuyên chúng ta một cách khôn khéo “trong những tranh luận điên rồ”, tránh xa “những chuyện gia phả, những vụ cãi cọ, xung đột về Lề Luật: những cái đó vô ích và rỗng tuếch” (Tt 3:9).
Thật ra, đoạn Tin Mừng này được nối kết với gia phả của Chúa Giêsu, mà thánh Mátthêu sắp xếp với mục đích nhấn mạnh đến việc thừa kế vương tộc của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ cho dân Người (Mt 1:21).  Chúa Giêsu được trao toàn bộ quyền thừa hưởng từ dòng dõi vua Đavít, con của “Giuse, con cháu của Đavít” (Mt 1:20; Lc 2:4-5), là cha hợp pháp của Chúa.  Bởi vì đối với thế giới người Do Thái và Kinh Thánh, mối liên hệ phụ tử hợp pháp là điều kiện đủ trong vấn đề thừa hưởng mọi quyền lợi trực hệ (xem: lề luật về thế huynh hôn phối và về việc nhận làm con (Đnl 25:5 và các câu tiếp theo)).  Đó là lý do tại sao sách Tin Mừng bắt đầu bằng câu chuyện gia phả, Chúa Giêsu được gọi là “Đấng Kitô con cháu vua Đavít” (Mt 1:1); đó là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, con cháu vua Đavít, Đấng mà tất cả những lời hứa của Thiên Chúa với vua Đavít, tôi tớ Người, được hoàn thành (2Sm 7:1-16; 2Sb 7:18; 2Sb 21:7; Tv 89:30).  Đây là lý do mà Mátthêu thêm vào câu chuyện gia phả và việc thụ thai của Chúa Giêsu, theo lời của ngôn sứ Isaia:  “Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:  Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Êmmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1:21-23 và Is 7:14)
Chúng ta hãy tạm dừng để nói điều này, về tinh thần thực tế của việc nhận làm con nuôi, chúng ta có thể nhắc đến sự thật mà dân riêng được sở hữu “vinh quang, các giao ước, lề luật, nền phụng tự, các lời hứa”, bởi vì “họ là người Israel và đã được Thiên Chúa nhận làm con” (Rm 9:4).  Nhưng chúng ta cũng thế, là dân mới của Thiên Chúa trong Đức Kitô được nhận làm con bởi vì “khi tới thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4:4-5).  Đây là ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu đã mang đến cho chúng ta.  Chúa Kitô “sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1:21) bởi vì Người là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta!” (Mt 1:23) Đấng ban ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu được sinh ra bởi “bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse” (Mt 1:18a) bà “đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1:18b). Tác giả Mátthêu không kể lại câu chuyện truyền tin như thánh Luca đã kể (Lc 1:26-38), nhưng xây dựng câu chuyện từ quan điểm về việc cư xử của thánh Giuse như một người công chính.  Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa yêu thương người công chính và nhiều lần chọn họ trong sứ vụ quan trọng, bảo vệ họ, và không xét xử họ chung với những kẻ tội lỗi (St 18:23 và các câu tiếp theo).  Trong Cựu Ước, chúng ta thấy nhiều người được coi là công chính.  Chúng ta nghĩ đến ông Nôe “một người công chính, hoàn hảo giữa những người cùng thời” (St 6:9).  Hoặc nghĩ đến vua Giôát là người “đã làm những điều ngay thẳng trước mắt Đức Giavê” (2V 12:3).
Một ý niệm thường xuyên trong Kinh Thánh rằng “giấc chiêm bao” được coi như là một nơi chốn đặc biệt để Thiên Chúa làm cho các chương trình và dự án của Chúa được biết đến, và đôi khi mặc khải chuyện tương lai.  Những giấc chiêm bao của ông Giacóp và Bêtel thì nổi tiếng (St 28:10 và các câu tiếp theo); của ông Giuse, con trai ông, cũng như các quan chước tửu và quan ngự thiện bị giam cầm tại Ai Cập với ông Giuse (St 37:5; 40:5 và các câu tiếp theo) và những giấc chiêm bao của Pharaô trong đó mặc khải những năm sung túc và những năm đói kém cũng như kiệt quệ trong tương lai (St 41:1 và các câu tiếp theo).
“Một Thiên Thần Chúa” hiện đến cùng ông Giuse (Mt 1:20) để mặc khải cho ông về chương trình của Thiên Chúa.  Trong các sách Phúc Âm nói về thời thơ ấu, Thiên Thần Chúa thường xuyên được nhắc đến như là thiên sứ (Mt 1:20,24; 2:13,19; Lc 1:11; 2:9) và cũng vào những dịp khác, thiên thần hiện ra để trấn an, để mặc khải chương trình của Thiên Chúa, để chữa lành, để giải thoát khỏi ách nô lệ (xem Mt 28:2; Ga 5:4; Cv 5:19; 8:26; 12:7,23).  Nhiều trường hợp thiên sứ của Chúa cũng được nhắc đến trong Cựu Ước nơi mà khởi đầu thiên thần, đại diện cho Chúa, Đấng dẫn đường và gìn giữ dân Chúa và gần gũi với họ (xem St 16:7-16; 22:12; 24:7; Xh 3:3; 23:20; Tb 5:4)

b)  Những câu hỏi để hướng dẫn cho phần suy gẫm và ứng dụng:
  • Điều gì trong đoạn Tin Mừng này đánh động bạn nhất?  Tại sao?
  • Trong chìa khóa dẫn đến bài đọc, chúng ta đã có suy xét đủ về một số từ ngữ chưa (nhận làm con, thiên thần, giấc chiêm bao, công chính)?  Các từ ngữ này đã nảy sinh những cảm xúc gì hay ý nghĩ gì trong lòng bạn?   Chúng có thể có sự thích hợp nào cho cuộc hành trình trưởng thành tâm linh của bạn không?
  • Bạn nghĩ trọng tâm sứ điệp của đoạn Tin Mừng này là gì?

3.  Cầu Nguyện
a)  Thánh Vịnh 92
Thú vị thay được tạ ơn CHÚA,
được mừng hát danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao,
được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm,
và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya,
hoà điệu sắt cầm gieo trầm bổng,
nhè nhẹ vấn vương khúc tỳ bà.
Lạy CHÚA, sự nghiệp Ngài khiến con mừng rỡ,
thấy việc tay Ngài làm, con phải reo lên:
Lạy CHÚA, công trình Ngài xiết bao vĩ đại,
tư tưởng Ngài thâm thúy lắm thay!
Người khờ dại nào đâu có biết,
kẻ ngu si chẳng hiểu điều này:
Bọn bất nhân dầu sởn sơ như cỏ,
phường gian ác có đua nở khoe tươi,
cũng là để bị diệt trừ vĩnh viễn.
Còn CHÚA, Ngài cao cả đến muôn đời.
Kìa những kẻ thù Ngài, lạy CHÚA,
kìa những kẻ thù Ngài tiêu vong,
bọn gian ác đều rã tan hết thảy.
Ngài cho con ngẩng đầu hãnh diện,
tựa như trâu ngạo nghễ giương sừng,
thân con, Ngài xức dầu thơm mát.
Mắt con nghênh những kẻ địch thù,
tai nghe biết lũ hại con mạt vận.
Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt,
lớn mạnh như hương bá Li-băng
được trồng nơi nhà CHÚA,
mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta;
già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả,
tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn,
để loan truyền rằng: CHÚA thực là ngay thẳng,
là núi đá cho tôi ẩn náu,
nơi Người chẳng có chút bất công. 
b)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

4.  Chiêm Niệm
Việc chiêm niệm của người Kitô hữu về giấc mơ của Thiên Chúa, dự án mà Thiên Chúa ấp ủ đối với lịch sử nhân loại không nảy sinh sự tha hóa mà giữ cho lương tâm luôn cảnh tỉnh, năng động và thúc đẩy chúng ta phải đối mặt với sự can đảm và lòng vị tha, trách nhiệm mà đời sống ban cho chúng ta.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét