31/03/2019
Chúa Nhật 4 Mùa Chay năm C
(phần II)
Phụng Vụ Lời
Chúa: Chúa nhật 4 Mùa Chay năm C
(Gs 5, 9a. 10-12; 2 Cr 5, 17-21; Lc 15, 1-3. 11-32)
TÌNH THƯƠNG THA THỨ CỦA THIÊN CHÚA
“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy.
Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15, 20)
Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15, 20)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Đoạn sách Gs 5, 9-12
đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng từ giai đoạn hành trình trong sa mạc
qua giai đoạn chinh phục Đất Hứa. Đứng trước cửa ngõ vào đất Canaan, Thiên Chúa
truyền lệnh cho dân Israel thực hiện nghi thức cắt bì, mừng lễ Vượt Qua và dùng
sản phẩm địa phương thay cho Manna.
Trước hết, trước khi
bước vào cuộc chiến đấu khốc liệt để chiếm lấy Đất Hứa, Thiên Chúa truyền lệnh
cho dân Israel thực hiện nghi thức cắt bì để nhắc nhớ họ về giao ước mà Thiên
Chúa ký kết với tổ phụ họ là Ápraham (x. St 17, 9-14). Nếu dân trung thành giữ
giao ước đã ký kết với Thiên Chúa, thì Người sẽ luôn trung tín bảo vệ dân trong
bất kỳ hoàn cảnh nào. Sức mạnh chở che của Thiên Chúa cùng với sức mạnh từ sự
đoàn kết của các nam nhân khi cùng đón nhận phép cắt bì tạo nên sức mạnh cho cuộc
chiến đấu.
Sau nữa, tiếp nối sau
phép cắt bì, dân Israel cử hành lễ Vượt Qua. Nếu cắt bì là dấu chỉ khởi đầu của
giao ước, thì lễ Vượt Qua là dấu chỉ tiếp nối của giao ước. Quả vậy, lễ Vượt
Qua nhắc nhớ dân về cuộc giải thoát vĩ đại mà Thiên Chúa đã thực hiện; trong thời
khắc nguy nan nhất, Thiên Chúa đã vượt qua trước cửa nhà dân Israel nhưng lại
đánh phạt các con đầu lòng Ai Cập để cứu họ khỏi cảnh nô lệ. Cuộc chiến thắng
này là dấu chỉ rõ ràng việc Thiên Chúa giữ lời đã giao ước với các tổ phụ. Giờ
đây, họ lại cử hành lễ này như một mong ước về một cuộc chiến thắng mà Thiên
Chúa sẽ ban cho họ tại đất Canaan như Thiên Chúa đã làm xưa kia tại Ai Cập.
Cuối cùng, dân Israel
không còn nhận được Manna nữa; thay vào đó họ dùng sản phẩm địa phương vùng
Giêricô. Đây là dấu chỉ rõ ràng biểu thị sự chuyển đổi từ giai đoạn sa mạc qua
giai đoạn tiến vào Đất Hứa. Giai đoạn Thiên Chúa can thiệp cách đặc biệt để
nuôi sống dân Chúa trong sa mạc đã qua rồi. Một giai đoạn mới được mở ra cho
dân Chúa. Giờ đây họ có thể bắt đầu dùng sản phẩm địa phương. Lời hứa của Thiên
Chúa về một vùng Đất Hứa đang được hiện thực hóa và ngày càng trở nên rõ ràng
hơn.
Thiên Chúa luôn trung
thành với giao ước mà Người đã ký kết với dân Chúa. Nếu dân trung thành tuân giữ
những điều họ đã ký kết với Thiên Chúa, Người sẽ từng bước thực hiện lời Người
hứa từ ngàn xưa.
2. Bài đọc 2
Đoạn trích từ thư 2 Cr
5, 16-21 mô tả một hoàn cảnh mới, một giai đoạn mới. Vì Đức Kitô, Đấng đã chết
cho mọi người (5, 15), nên những ai ở trong Người, đều là thụ tạo mới (5, 17),
khi người ta được hòa giải với Thiên Chúa.
Trước hết, sự đổi mới
đến từ Thiên Chúa, Đấng “đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người”
(5, 18). Quả vậy, sáng kiến hòa giải bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng “không còn
chấp tội nhân loại nữa” (5, 19). Thiên Chúa không những không chấp tội của nhân
loại, ngay cả khi tội lỗi đó đã dẫn đến cái chết của Đức Giêsu, mà còn dùng
chính cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, để tha thứ tội lỗi cho nhân loại,
và cho nhân loại được hòa giải với Người.
Thiên Chúa đâu cần hòa
giải với nhân loại; chính nhân loại mới cần hòa giải với Người. Nhưng Thiên
Chúa lại đi bước trước trong việc bày tỏ tình thương tha thứ của Người ngay
“khi chúng ta còn là những người tội lỗi” (Rm 5,8), “khi chúng ta còn thù nghịch
với Người” (Rm 5, 10) để nhân loại được hòa giải với Người (5,18). Thật vậy,
Thiên Chúa không lấy oán báo oán theo kiểu thế gian, nhưng dùng tình thương để
hóa giải tội lỗi và ban sự sống mới.
Sau nữa, việc hòa giải
với Thiên Chúa được thực hiện thông qua thừa tác vụ của “chúng tôi”, vì theo
thánh Phaolô, Thiên Chúa đã “trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải” (5, 18) và
“giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (5, 19). Điều này có nghĩa là việc việc
hòa giải không phải dành riêng cho thánh Phaolô trong tư cách cá nhân mà là cho
thừa tác vụ của Giáo hội. Hơn nữa, dù được trao cho thừa tác vụ hòa giải nhưng
Giáo hội không phải là tác nhân của việc hòa giải nhưng chỉ công bố sự hòa giải
mà Thiên Chúa đã thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu. Như thế, thừa tác vụ hòa
giải của Giáo hội là “nhân danh Đức Kitô” mà “nài xin” nhân loại “hãy làm hoà với
Thiên Chúa” (5, 20).
3. Bài Tin Mừng
Dụ ngôn “Người Cha Nhân
Hậu” được thánh Luca thuật lại trong bối cảnh có những người tội lỗi đến với
Chúa Giêsu để nghe Người giảng, trong khi những người Pharisêu và các kinh sư lại
phản đối việc Người tiếp đón và ăn uống với những người bị xem là “phường tội lỗi”
(15, 1-3). Dụ ngôn này là câu trả lời cho sự phản bội và những vấn nạn họ đặt
ra.
Tình thương và lòng
nhân hậu vô bờ của người cha. Tình thương của người cha đối với đứa con hư hỏng
thật quá lớn lao. Ông không hề thắc mắc hay gây khó khăn khi đứa con thứ đòi
chia của cải. Ông không trách móc khi người con thứ bỏ nhà đi hoang và tiêu xài
hết phần của cải được chia. Ông vẫn hằng chờ đợi và trông ngóng đứa con hư trở
về đến nỗi khi cậu còn ở đàng xa thì ông đã trông thấy, chạnh lòng thương và chạy
ra đón con. Những việc ông làm liên tiếp sau đó như “ôm cổ”, “hôn lấy hôn để”,
“mặc áo đẹp”, “xỏ nhẫn”, “xỏ dép”, và “giết bê béo mở tiệc ăn mừng” đều thể hiện
tình thương và sự tha thứ hoàn toàn vô điều kiện mà ông dành cho đứa con hư trở
về vì đối với ông đó là đứa con “đã chết mà nay sống lại”.
Sự trở về miễn cưỡng của
người con thứ. Người con thứ đòi chia gia tài, rồi từ bỏ cha đi ăn chơi mà
không hề suy nghĩ cho tình cảm và sự lo lắng của cha. Anh ta chỉ trở về khi đã
tiêu hết tiền bạc, không công ăn việc làm, không lương thực dằn bụng. Anh không
trở về vì thương cha già ở nhà, nhưng chỉ mong cha chấp nhận mình như người làm
công để có cái ăn. Sự trở về của anh chỉ như một sự chọn lựa để không phải chết
đói. Dẫu muộn màng và miễn cưỡng, sự trở về của người con thứ vẫn luôn có giá
trị và đáng vui mừng đối với người cha. Người cha không quan tâm vì sao anh trở
về, vì đối với ông, sự trở về của người con, dù với lý do gì, đều rất đáng được
hoan nghênh và đáng để mừng vui. Người con thứ đi hoang đánh mất phẩm giá làm
con và tự thấy mình không xứng đáng là con, nhưng khi anh trở về, người cha
không mảy may do dự phục hồi trọn vẹn tư cách làm con của anh.
Sự dửng dưng, lạnh
lùng và vô cảm của người con cả. Người con cả là người chăm chỉ làm việc, sống
đàng hoàng, ngoan ngoãn và chưa bao giờ làm gì trái lệnh cha. Dù tuân phục cha
cách trọn vẹn, người con cả chỉ thấy mình như người làm việc để “hầu hạ” một
người cha keo kiệt. Một đàng, anh tỏ ra hẹp hòi, ích kỷ, đối với người em hư hỏng
đến nỗi không còn coi đó là em mình, đàng khác, anh không nhận ra tấm lòng rộng
lượng của người cha. Anh quên mất rằng trong tư cách là một người con thì “tất
cả những gì của cha đều là của con”. Tuy anh ở trong nhà, nhưng lại tự đánh mất
phẩm giá và quyền lợi làm con. Anh ở bên cha nhưng lại không cảm nhận được tình
cha. Anh tự cho mình là người tốt lành, có tư cách đoán xét người em hư hỏng,
nhưng chính anh lại quá hẹp hòi để mở lòng ra với tình cha, tình anh em.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Lời hứa từ xa xưa của
Thiên Chúa về một vùng Đất Hứa nay sắp thành hiện thực. Trước khi bước vào cuộc
chinh phục đất Canaan, dân Israel cử hành nghi lễ nhắc nhớ về giao ước mà Thiên
Chúa đã ký kết với dân qua việc thực hiện việc cắt bì, và mừng lễ Vượt Qua.
Thiên Chúa vẫn luôn trung thành với giao ước, dẫn dân vào Đất Hứa, nếu dân đi
trong đường lối của Người. Tôi có thường nhắc nhớ mình về những gì tôi đã cam kết
với Người? Tôi có đang giữ những điều khoản của giao ước mà tôi ký kết với Người?
2/ Đối với thánh
Phaolô, Thiên Chúa đi bước trước trong việc hoà giải nhân loại với Thiên Chúa.
Qua Đức Kitô và nhờ cái chết của Người, Thiên Chúa không còn chấp tội con người.
Việc hoà giải với Thiên Chúa được giao cho thừa tác vụ của Giáo hội. Chính Giáo
hội, thừa hành thừa tác vụ được trao cho mình, công bố lời hoà giải. Thiên Chúa
mời gọi tôi hoà giải với Người, tôi có mở lòng ra với Người? Tôi có sẵn sàng,
thông qua thừa tác vụ của Giáo hội, thực hiện việc hoà giải với Thiên Chúa?
3/ Dụ ngôn “Người Cha
Nhân Hậu” là câu trả lời thoả đáng cho những vấn nạn mà những người Pharisêu và
các kinh sư đặt ra. Trước hết, tình thương của Thiên Chúa vượt lên trên những bất
toàn tội lỗi của con người. Sau nữa, Thiên Chúa sẵn sàng chờ đợi con người trở
về để tha thứ tất cả dù con người bất toàn, tội lỗi đến đâu. Cuối cùng, thật
đáng trách cho những ai tự cho mình là công chính mà không nhận ra tình Chúa và
hẹp hòi xét đoán anh em mình. Tôi có nhận ra tình thương mà Thiên Chúa vẫn luôn
dành cho tôi? Tôi có nhận thấy mình là tội nhân cần trở về để xin Thiên Chúa thứ
tha? Tôi có tự coi mình là tốt lành, công chính mà không cần đến tình thương của
Chúa và hẹp hòi, khắt khe với anh em?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em
thân mến! Thiên Chúa là Cha rất nhân từ luôn yêu thương hết thảy mọi người,
sẵn sàng tha thứ và ban tặng sự sống đời đời cho những ai thành tâm sám hối. Ý
thức thân phận tội lỗi của mình và tin tưởng vào tình thương tha thứ của Thiên
Chúa, cộng đoàn chúng ta hãy tha thiết dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh có sứ vụ
giới thiệu cho con người một Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Chúng ta cùng cầu nguyện
cho các chủ chăn trong Hội Thánh trở nên những mục tử như lòng Chúa mong ước,
luôn tận tình phục vụ mọi người với tấm lòng bao dung quảng đại.
2. Lối sống ích kỷ và
hưởng thụ đang gặm nhấm và làm băng hoại nhiều tâm hồn. Chúng ta cùng cầu xin
cho những người có trách nhiệm luôn quan tâm đến việc giáo dục ý thức cộng đồng
và tinh thần vị tha cho mọi lứa tuổi cũng như trong mọi môi trường.
3. Lòng bao dung nhân
từ của Thiên Chúa phủ lấp mọi lỗi lầm của con người. Chúng ta cùng cầu nguyện
cho mọi kitô hữu biết tận dụng cơ hội của mùa Chay thánh này, để quay về với
Chúa qua bí tích Hòa Giải và có những quyết tâm sửa đổi đời sống cách triệt để.
4. Hạnh phúc đích thực
là được sống trong tình thương của Thiên Chúa và anh chị em. Chúng ta cùng cầu
xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn đoàn kết yêu thương nhau, biết
chia sẻ nâng đỡ và giúp nhau đạt được niềm vui ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng.
Chủ tế: Lạy Thiên
Chúa là Cha rất nhân từ và giàu lòng thương xót. Xin nhận lời chúng con cầu
nguyện, giúp chúng con biết yêu thương tha thứ cho nhau, và luôn là dấu chỉ
lòng thương xót của Chúa giữa thế giới. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa
chúng con.
SCĐ Chúa Nhật IV Chay
Chủ đề :
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót
“Người Cha chạnh
lòng thương, chạy ra, ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20)
Sợi chỉ đỏ :
– Vì lòng thương xót,
Thiên Chúa đã cho dân do thái vào Đất hứa (Bài đọc I)
– Vì lòng thương xót,
người Cha đã đón đứa con hoang đàng trở về (bài Tin Mừng)
– Vì lòng thương xót,
Thiên Chúa đã nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô mà cho thế gian được hòa giải với
Ngài (Bài đọc II)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể
chuyện đứa con hoang đàng hối hận trở về và được Cha mở rộng vòng tay tha thứ.
Chúng ta là những đứa con hoang đàng và Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót
luôn chờ đón chúng ta trở về để tha thứ và phục hồi tư cách làm con. Thánh lễ
hôm nay là một dịp tốt để chúng ta trở về.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hãy mượn lời
đứa con hoang đàng để bày tỏ với Chúa tâm tình sám hối chân thành :
– Thưa Cha, con thật đắc
tội vì đã rời bỏ nhà Cha để chạy theo những cám dỗ của thế gian.
– Thưa Cha, con thật đắc
tội vì đã không yêu thương anh chị em của con.
– Thưa Cha, con thật đắc
tội vì đã nuông chìu xác thịt mà làm mất lòng Cha.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Gs 5,9-12)
Giai đoạn thứ ba của lịch
sử cứu độ : Thiên Chúa cho dân do thái được vào chiếm hữu đất hứa.
– Việc đầu tiên khi vừa
vào Đất Hứa là cử hành Lễ Vượt Qua. Lễ này được ấn định sẽ cử hành hàng năm từ
đó về sau vào ngày 14 tháng Nisan, nhằm giúp dân do thái luôn nhớ đến lòng tho
xót của Thiên Chúa đối với họ.
– Sau khi dân đã vào Đất
hứa rồi thì manna không còn rơi xuống nữa, vì từ nay họ sẽ sống bằng hoa màu của
đất đai mà Thiên Chúa ban cho họ.
2.
Đáp ca (Tv 33)
Ca tụng lòng thương
xót của Thiên Chúa.
3.
Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32)
Dụ ngôn người cha nhân
từ : Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng
nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.
11-12 –
“Xin cha ban cho con phần gia tài thuộc về con” : Thông thường cha
chỉ chia gia tài cho các con khi gần chết. Tuy thực tế có những trường hợp cha
chia gia tài cho con ngay lúc ông còn mạnh khoẻ (x Tb 8,21), nhưng đó là tự ý
người cha chứ không do đòi hỏi của con. Hơn nữa sách Huấn ca, 1 quyển sưu tập
những lời dạy khôn ngoan, đã khuyên đừng bao giờ làm như thế bởi vì “nắm tiền
là nắm quyền”, khi đã chia gia tài cho con rồi thì không còn điều khiển chúng nỗi
nữa, trái lại có thể còn bị chúng ngược đãi (Hc 33,20-24). Người cha trong dụ
ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con.
– Người cha này là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao
quá hiền lành không trừng phạt “nhãn tiền” những người tội lỗi. Nhưng Thiên
Chúa đã yêu thương loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự
Do. Mà tự do nghĩa là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Vậy không
nên trách Thiên Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người.
Có trách là trách loài người đã xử dụng sai quyền tự do của mình.
13-20a Sau
khi lãnh gia tài, đứa con thứ liền ra đi sống bê tha phung phí hết của cải và
rơi vào tình trạng khốn khổ.
– “Chăn heo” : người do thái coi heo là đồ ghê tởm. Thịt heo họ còn
không ăn. Thế mà đứa con này phải đi chăn heo. Tệ hơn nữa là muốn ăn thức ăn của
heo mà còn không được. Nghĩa là tình trạng xuống dốc đến tột cùng.
Trong lúc xuống dốc tột cùng như thế, nó muốn quay trở về với cha. Đây cũng là
tâm lý của kẻ tội lỗi : khi sung sướng thì quên Chúa, quên đạo lý. Lúc khổ
sở mới biết hối hận.
Trước lúc quay về, nó soạn sẵn 1 bài tự thú. Ta hãy chú ý là bài tự thú này khá
dài (2 câu 18-19)
20b Câu
này chứa nhiều chi tiết chứng tỏ tình thương vô bờ bến của người cha nhân
lành :
– “Khi cậu còn ở đàng xa, Cha cậu trông thấy” : Một người cha bình
thường khi con bỏ nhà ra đi thì tức giận và có thể còn từ con luôn. Nhưng người
cha này không như vậy. Chi tiết ông trông thấy con từ xa có nghĩa là sau khi nó
ra đi ông rất thương tiếc nó, thường xuyên đứng trước ngõ trông chờ nó, nhờ đó
mới thấy bóng dáng nó từ đàng xa. Ý nghĩa : khi con người đi đàng tội lỗi,
TC không từ bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.
– “Liền động lòng thương” : Đối với những người cha bình thường,
cho dù độ lương bao nhiêu đi nữa với đứa con ngỗ nghịch bỏ nhà ra đi, khi thấy
nó về thì phản ứng đầu tiên là chửi mắng, hoặc ít ra là lạnh nhạt. Người cha
này không thế, phản ứng đầu tiên của ông là “liền động lòng thương“.
– “Chạy lại” : Ta nên hiểu chi tiết này theo tâm lý người phương
đông. Những người phương đông (trong đó có do thái) giỏi kềm chế cảm xúc của
mình, nhất là những người đàn ông. Đàn ông càng lớn tuổi càng phải đi đứng chửng
chạc. Nhưng người cha phương đông trong dụ ngôn này chẳng những không kềm chế
tình cảm mà còn “chạy” ! Vì tình cảm thương con quá lớn, ông không kềm chế
nỗi nữa rồi.
– “Ôm vào lòng hôn con tha thiết” : cử chỉ này không chỉ là biểu lộ
một tình thương mãnh liệt mà còn có ý nghĩa tha thứ. Ôm hôn là biểu lô sự tha
thứ (xem chuyện Đavít ôm hôn tha thứ cho Absalom ở 2Sm 14,33). Đáng chú ý là
khi đó đứa con chưa mở lời xin lỗi.
21-24
– Khi đó đứa con bắt đầu đọc bài tự thú mà nó đã học thuộc lòng. Nên lưu ý là
nó đọc chưa xong thì người cha đã không nghe nữa. Ông không cần lời lẽ của nó,
nguyên việc nó quay về với ông đã đủ. Ông còn bận tổ chức tiệc mừng.
– “Mau mau đi” : tha thứ nhanh chóng, nôn nóng mở tiệc mừng.
– “Đem áo dài tốt nhất mặc cho cậu” : Áo chỉ thân phận của người mặc
áo. Đứa con này đã đánh mất chiếc áo làm con để thay vào chiếc áo chăn heo. Nay
nó được cho mặc “áo dài tốt nhất” tức là nó được trả lại quyền làm
con. Chú ý là nó đã tự thú “Con không đáng cha nhận làm con cha nữa. Xin cha cứ
coi con như đứa làm thuê”.
– “Đeo nhẫn vào tay” : nhẫn là món chỉ có những người quý phái mới
mang.
– “Xỏ giầy vào chân cậu” : theo tục lệ do thái, đầy tớ không mang
giầy (mà chỉ xách giầy cho chủ).
– “Bắt con bò tơ chúng ta đã nuôi cho béo” : không phải bất cứ con
bò béo nào, mà con bò “chúng ta đã nuôi cho béo“. Nghĩa là người cha đã
dự trù sẵn bữa tiệc mừng này nên đã chỉ định một con bò phải nuôi cho béo. 1
chi tiết nữa cho ta thấy người cha lúc nào cũng trông con quay về.
c.29 Phần thứ hai của
dụ ngôn nói về người anh
– “Bao nhiêu năm trời tôi phục vụ ông” : biệt phái và thông giáo
cũng nghĩ rằng họ “phục vụ” Thiên Chúa hết lòng bằng cách tuân giữ mọi lề luật
không sai phạm chút nào.
c.30 “Thằng con của
ông đó” : người con trưởng không coi người con thứ là em mình.
c.32 “Em con đây” :
người cha sửa lại lời lẽ sai lầm của người con trưởng.
Thật là 1 dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ
ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ
có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng.
4.
Bài đọc II (2 Cr 5,17-21)
Chúa Giêsu Kitô đã hòa
giải loài người tội lỗi lại với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Giáo Hội có sứ
mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Thiên
Chúa giàu lòng thương xót
Gandhi kể rằng khi ông
15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất
áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì
mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa.
Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha
và hồi hộp chờ Cha xét xử. Người Cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc
thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt
mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha không hề nổi giận và cũng chẳng
trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết
hối hận.
Cảm nghiệm được yêu
thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với
Gandhi. Sau này ông nói : “Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại
tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi”.
Đó cũng là cảm nghiệm
của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu
muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao là của Thiên Chúa là Cha chúng
ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng : Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa
vẫn yêu thương chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều
hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà
Ngài yêu thương chúng ta chính vì chúng ta tội lỗi, yêu thương ngay khi chúng
ta còn trong tội lỗi.
Tất cả chúng ta, dù
nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lỗi và qua tội
lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy,
nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được
niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội.
Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa. (FM)
* 2. Những con
tim
Dụ ngôn này là một câu
chuyện về những con tim :
– Con tim ích kỷ và
con tim quảng đại.
– Con tim hẹp hòi và
con tim rộng mở.
– Con tim lạnh lùng và
con tim nồng ấm.
– Con tim tan vỡ và
con tim vui mừng.
– Con tim sám hối và
con tim không sám hối.
– Con tim biết tha thứ
và con tim không thứ tha.
– Con tim oán giận và
con tim biết ơn. (Theo FM)
* 3. Người con
gái hoang đàng
Dụ ngôn người con trai
hoang đàng đã khiến Anon liên tưởng tới hoàn cảnh của những người con gái hoang
đàng. Anon có những dòng mà đại ý như sau :
Biết bao thi sĩ đã viết
nên những bài thơ đẹp nói về tình thương tha thứ của người cha và hạnh phúc của
người con trai hoang đàng khi nó trở về. Nhưng đối với những người con gái
hoàng đàng thì sao ?
Người con gái hoang
đàng cũng có thể quay về ngôi nhà mình đã bỏ đi. Nhưng không có gì còn giống
như trước : Áng mây mờ vẫn còn nấn ná trên nét mặt những người thân ;
lại còn những lời chế diễu dèm pha của bà con lối xóm.
Có lẽ vì thế mà khi
người con gái hoang đàng còn đang bơ vơ trên những nẻo đường lưu lạc, chỉ cần
nghĩ đến những môi miệng cong cớn đó là không còn chút can đảm nào để trở về.
Vậy, hãy mở rộng cửa để
đón người con trai hoang đàng trở về ; hãy giết bò, hãy mở tiệc ăn mừng.
Nhưng xin đừng đóng sập
cánh cửa trước mặt người con con gái hoang đàng trở về, bởi vì, hãy nhớ đừng
quên, nàng cũng có một linh hồn.
* 4. Trừng phạt
và tha thứ
Người con hoang đàng biết
mình xứng đáng bị trừng phạt và sẵn sàng chờ đợi bị trừng phạt.
Thế nhưng người cha
không trừng phạt, mà tha thứ.
Trừng phạt giống như dội
một thùng nước lên que củi sắp tàn. Kết quả là ngọn lửa tắt ngúm.
Tha thứ giống như thổi
hơi vào tàn lửa sắp tắt, giúp cho ngọn lửa lại bùng lên. (FM)
* 5. Trong đôi
mắt cha
Một cô bé đang ngồi
trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ :
– Mẹ ơi, con có thể
nhìn thấy lòng mẹ không ?
Bà mẹ đáp :
– Mẹ không biết, nhưng
con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó ?
Cô bé nhướng mắt nhìn
chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên :
– Mẹ ơi ! Con
nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ ?
*
Trong đôi mắt của cha
mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những
con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa : “Xin
giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở” (Tv
17,8).
Vâng, tấm lòng yêu
thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người
cha nhân hậu”. Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của
con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã “sống
phóng đãng, phung phí hết tài sản” trở về, người cha ấy cũng không
trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã
vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu
thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ
còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi
trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng
mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp
quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người anh đi làm về,
chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại
phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông
và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông
khẳng định với cậu rằng : “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc
13,31).
Đó là câu chuyện có thật
về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không
thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng
thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv
135).
Chỉ tiếc một điều là
người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ
cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm.
Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của
người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay
anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài : Anh không trái lệnh cha chỉ để
tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình
là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh
không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất
con.
Anh chỉ nghĩ về mình,
quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu
và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ
tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy cả hai người con đều
phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ
bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha : Nhân hậu,
bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
Trở về với cha là
giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là
về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy
mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
*
Lạy Chúa. tình Chúa
lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha
cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng
với Chúa. Amen. (TP)
* 6. Mảnh suy
tư
– “Lúc đứa con hoang
đàng quỳ gối xuống và khóc là lúc nó biến những khoảng thời gian phung phí cuộc
đời với bọn đĩ điếm, với việc chăn heo, với việc ăn cháo heo cho đỡ đói thành
những khoảng thời gian đẹp nhất và thánh thiện nhất trong đời nó. Dễ có mấy ai
ý thức được như vậy. Tôi dám nói rằng cần phải vào tù mới hiểu được điều đó. Và
nếu thế thì có vào tù cũng đáng lắm chứ” (Oscar Wilde)
– Chẳng có gì khó khi
trở về nhà như một vị anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhưng trở về nhà
với vóc dáng tả tơi, hai bàn tay trắng và một con tim tan nát vì mặc cảm tội lỗi
là một điều khó vô cùng.
– Đứa con hoang đàng
biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn
sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người
cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
– Các vị thánh làm chứng
về ân sủng và lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn những người tội lỗi thì làm
chứng và tình thương và lòng thương xót của Ngài.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị
em thân mến, Thiên Chúa là một người Cha giàu lòng thương xót. Người không muốn
kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó sám hối ăn năn để được sống. Tin tưởng vào
tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1.
Hội thánh là một
người mẹ hiền luôn thương yêu con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho các vị mục tử / luôn thể hiện tình thương trong cung cách xử sự thường
ngày.
2.
Hiện nay /
tình trạng thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi bụi đời rất đáng báo động / Chúng
ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / luôn sống hòa thuận yêu thương
nhau / và nhất là quan tâm giáo dục con cái của mình.
3.
Phải từ bỏ nếp sống
tội lỗi mà quay về với Chúa / là điều mà người Kitô hữu cần thực hiện
trong mùa Chay thánh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết
đoạn tuyệt với tội lỗi / để xứng đáng đón mừng đại lễ Phục sinh.
4.
Ganh tỵ và ghen
ghét gây ra biết bao đau khổ cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái yêu thương như Chúa
dạy / nhờ đó dẹp bỏ được những tật xấu đáng ghét này.
Chủ tế : Lạy Chúa
Giêsu, Chúa đã nói : Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của
Thầy, là anh em yêu thương nhau. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống
trọn vẹn lời Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy
Cha : Chúng ta thật hạnh phúc vì được làm con của Thiên Chúa giàu lòng
thương xót. Vậy chúng ta hãy dâng lên Ngài những tâm tình kính mến chân thành của
chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta đã cảm
nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Bây giờ chúng
ta hãy là những sứ giả loan báo cho mọi người về lòng nhân từ thương xót bao la
ấy. Chúc anh chị em luôn bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC
XÁI
Lectio Divina:
Chúa Nhật IV Mùa Chay (C)
Chủ Nhật 31 Tháng Ba,
2019
Dụ Ngôn Người Con
Hoang Đàng
Lc 15:1-3,11-32
1. Bài Đọc
a) Lời nguyện
mở đầu:
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin hãy đến, xin hãy mặc khải cho chúng con mầu nhiệm của Chúa Cha và của Chúa
Con được hiệp nhất trong tình yêu. Xin hãy cho chúng con có thể
thấy được ngày trọng đại của Thiên Chúa, rực rỡ với ánh sáng: buổi rạng
đông của một thế giới mới được sinh ra trong máu của Đức Kitô. Người
con hoang đàng trở về nhà, người mù được nhìn thấy ánh sáng, kẻ trộm lành được
tha tội xóa tan nỗi sợ hãi cổ xưa. Khi chết treo trên thập giá, Đức
Kitô đã chiến thắng cái chết; cái chết mang lại sự sống, tình yêu chiến thắng nỗi
sợ hãi và tội lỗi tìm kiếm sự thứ tha. Amen.
b) Phúc Âm
1 Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến
gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; 2 thấy vậy, những người
biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng
ngồi ăn uống với chúng”.
3 Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:
11 “Người kia có hai con trai. 12 Đứa
em thưa với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con’.
Người cha liền chia gia tài cho các con. 13 Ít ngày sau,
người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung
phí hết tiền của. 14 Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp
nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. 15 Nó
vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn
heo. 16 Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng,
nhưng cũng không ai cho. 17 Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự
nhủ: ‘Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở
đây phải chết đói. 18 Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và
thưa người rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, 19 con
không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm
công của cha” ‘. 20 Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi
nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm
choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. 21 Người con trai lúc
đó thưa rằng: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được
gọi là con cha nữa’. 22Nhưng người cha bảo đầy tớ: ‘Mau mang áo
đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào
chân cậu. 23 Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: 24 vì
con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt đầu
ăn uống linh đình.
25 “Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe
tiếng đàn hát và nhảy múa, 26 anh gọi một tên đầy tớ để hỏi
xem có chuyện gì. 27 Tên đầy tớ nói: ‘Đó là em cậu đã trở
về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khỏe’.28 Anh
liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. 29Nhưng
anh trả lời: ‘Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều
nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. 30 Còn
thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm,
nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó’. 31 Nhưng
người cha bảo: ‘Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của
con. 32Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống
lại, đã mất nay lại tìm thấy'”.
c) Giây phút thinh
lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm
nhập vào lòng và soi sáng đời sống chúng ta.
2. Suy Gẫm
a) Chìa khóa dẫn đến
bài đọc:
Dante cho rằng Luca
là “người ghi chép sự dịu dàng của Chúa Kitô” (scriba
mansuetudinis Christi). Thật vậy, ông là vị Thánh Sử thích nhấn
mạnh đến lòng thương xót của Thầy Chí Thánh đối với những kẻ tội lỗi và cho
chúng ta thấy những hình ảnh của sự tha thứ (Lc 7:36-50;
23:39-43). Trong Tin Mừng của thánh Luca, lòng thương xót của Thiên
Chúa được thể hiện trong Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta có thể nói rằng Đức
Giêsu là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa hiện diện ở giữa chúng
ta. “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc
6:36). Luca tập trung vào hình ảnh Thiên Chúa đã mặc khải trong Cựu
Ước (Hc 34:6), nhưng đáng tiếc thay, điều đó dường như đã bị bác bỏ bởi các
Kinh Sư và người Biệt Phái là những kẻ muốn nhấn mạnh đến hình ảnh Thiên Chúa
“Đấng ghé thăm tội lỗi của các người cha trên con cái” (Hc 34:7). Thật
vậy, những người Biệt Phái và Kinh Sư tự hào là công chính trong mắt của Thiên
Chúa bởi vì họ đã không vi phạm Lề Luật. Chúa Giêsu chỉ trích thái độ
này trong lời giảng dạy của Người và qua hành động của Người. Đức
Kitô, “Đấng Công Chính” của Thiên Chúa (1Pr 3:18), “đón tiếp phường tội lỗi và
ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Hãy nghĩ về bài dụ ngôn người thu thuế
khi từ Đền Thờ trở về nhà thì đã được nên công chính tương phản với người Biệt
Phái tự khen ngợi mình trước mặt Thiên Chúa trong khi phê phán người bên cạnh mình
(Lc 18:9-14). Chúa Giêsu chỉ ra cho chúng ta thấy rằng đường lối suy
nghĩ và hành động của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác biệt với của chúng
ta. Thiên Chúa thì khác biệt, và tính siêu việt của Người được mặc
khải trong lòng thương xót tha thứ cho tội lỗi. “Trái tim Ta thổn thức,
ruột gan Ta bồi hồi khi nghĩ đến điều ấy. Ta sẽ không hành động theo
cơn nóng giận… vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người
phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh và không có ý định tiêu diệt
ngươi” (Hs 11:8-9).
Dụ ngôn “người con
hoang đàng” này sẽ đưa ra khía cạnh về Chúa Cha đầy lòng thương
xót. Đó là lý do tại sao một số người đề cập đến câu chuyện này như
là “dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng với lòng thương xót và tha thứ”. Đoạn
Tin Mừng là một phần của một loạt ba dụ ngôn về lòng thương xót và có lời mở đầu
để hướng dẫn chúng ta suy niệm về “những kẻ thu thuế và tội lỗi” lui tới với Đức
Giêsu để nghe Người giảng dạy (Lc 15:1). Những điều này được phản ảnh
trong thái độ của người con thứ là kẻ hồi tâm và tự nhủ về tình trạng hiện tại
của mình và về những gì anh ta đã đánh mất khi lìa bỏ nhà cha anh (Lc
15:17-20). Thật là thú vị khi để ý đến cách dùng động từ “lắng
nghe”, mà nhớ lại cảnh của bà Maria, em bà Máctha, “cứ ngồi bên chân Chúa
và lắng nghe lời Người giảng dạy” (Lc 10:39); hay là đám đông
dân chúng “tuôn đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh
tật” (Lc 6:18). Chúa Giêsu thừa nhận thân nhân của mình,
không phải bằng quan hệ huyết thống, mà qua thái độ lắng nghe của họ: “Mẹ
ta và anh em Ta, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem
ra thực hành” (Lc 8:21). Dường như Luca đạt tầm quan trọng về thái độ
lắng nghe này. Đức Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu, được ca ngợi vì
có một thái độ lắng nghe chiêm niệm, bà “hằng ghi nhớ tất cả những điều này
trong lòng” (Lc 2:19,51). Bà Isave tuyên xưng Đức Maria đầy diễm
phúc bởi vì “bà đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với bà” (Lc
1:45), đã được mặc khải tại thời điểm Truyền Tin (Lc 1:26-38).
Lòng thương xót của
người cha nhân từ (Lc 15:20), thì trái ngược với thái độ khắt khe của người con
cả, kẻ sẽ không chấp nhận mình có người em như thế, và là kẻ trong lời đối thoại
với người cha, gọi người con thứ là: “còn thằng con của cha đó, sau
khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về…” (Lc
15:30). Trong bài này, chúng ta có thể thấy thái độ của các Kinh Sư
và người Biệt Phái là những kẻ “lẩm bẩm” rằng: “Ông này đón tiếp những
kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Họ không kết giao với “kẻ
tội lỗi”, những kẻ mà họ cho là ô uế, thà là họ lánh xa những kẻ ấy. Thái
độ của Chúa Giêsu thì lại khác hẳn và, trong mắt họ, đó là chuyện ô nhục. Chúa
thích giao tiếp với những kẻ tội lỗi và thỉnh thoảng Người còn nhận lời mời của
họ vào nhà để cùng ăn uống với họ (Lc 19:1-10). Lời lẩm bẩm của các
Kinh Sư và người Biệt Phái đã khiến họ không lắng nghe được Lời Chúa.
Sự tương phản giữa hai
anh em thì thật gợi lên nhiều ý tưởng. Người em nhận ra sự khốn cùng
và tội lỗi của mình và trở về nhà mà nói rằng: “Thưa cha, con đã lỗi
phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa” (Lc
15:18-19,21). Người anh thì lại có thái độ kiêu căng không chỉ đối với
người em mà còn cả đối với cha mình nữa! Lời nhiếc móc của người anh
thì hết sức tương phản với sự dịu dàng của người cha là kẻ đã bước ra khỏi nhà
và đi gặp người anh cả để “van nài” anh ta bước vào nhà (Lc
15:20,28). Đây là hình ảnh của Chúa Cha, Đấng mời gọi chúng ta hoán
cải, trở về với Người: “Trở về đi, hỡi Israel phản bội – sấm ngôn của
Đức Chúa – Ta sẽ không nghiêm nét mặt với các ngươi nữa, và Ta giàu lòng xót
thương – sấm ngôn của Đức Chúa – và Ta không giận dữ mãi đâu. Có điều
là tội ngươi, ngươi phải biết: ngươi đã xúc phạm đến Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, khi lang bạt khắp các nẻo đường tìm kiếm ngoại kiều dưới mọi
lùm cây rậm; còn tiếng Ta gọi, các ngươi chẳng thèm nghe – sấm ngôn của Đức
Chúa. Trở về đi, hỡi lũ con phản bội – Sấm ngôn của Đức Chúa – vì Ta
vẫn là chủ các ngươi” (Gr 3:12-14).
b) Một vài câu hỏi
để quy hướng cho phần suy gẫm và thực hành của chúng ta.
i) Luca chú trọng vào hình ảnh của Thiên Chúa đã được
mặc khải trong Cựu Ước (Hc 34:6), nhưng tiếc thay, dường như điều này đã bị lờ
đi bởi các Kinh Sư và người Biệt Phái là những kẻ thà nhấn mạnh về hình ảnh một
Thiên Chúa “Đấng ghé thăm tội lỗi của các người cha trên con cái” (Hc
34:7). Tôi có hình ảnh gì về Thiên Chúa?
ii) Những người Biệt Phái và Kinh Sư tự hào rằng họ là
người công chính dưới mắt của Thiên Chúa bởi vì họ không phạm giới. Chúa
Giêsu chỉ trích thái độ của họ trong lời giảng huấn của Người và bằng hành động
của Người. Người, “Đấng Công Chính” của Thiên Chúa (1Pr 3:18), “đón
tiếp phường tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Tôi
có tự coi mình là công chính hơn những người khác không, có lẽ bởi vì tôi cố gắng
giữ các điều răn của Chúa chăng? Những động cơ khiến tôi muốn sống một
cuộc sống “công chính” là gì? Đó là vì tình yêu Thiên Chúa hay vì
lòng thỏa mãn cá nhân?
iii) “Những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần
Chúa Giêsu để nghe Người giảng” (Lc 15:1). Dường như thánh Luca đặt
nặng tầm quan trọng về thái độ lắng nghe, suy gẫm, đi vào nội tâm, suy niệm và
ghi nhớ Lời Chúa trong lòng chúng ta. Tôi đã dành vị trí nào cho sự
chiêm niệm Lời Chúa trong đời sống hằng ngày của tôi?
iv) Các Kinh sư và những người Biệt Phái không giao tiếp
với “phường tội lỗi”, những kẻ mà họ cho là ô uế, và tránh xa họ. Thái
độ của Chúa Giêsu thì khác hẳn, và họ cho đó là chuyện nhục
nhã. Chúa ưa thích gặp gỡ những kẻ tội lỗi và thỉnh thoảng lại còn
nhận lời mời đến nhà họ để cùng ăn uống với họ (Lc 19:1-10). Tôi có
xét đoán người khác hay tôi có né tránh các cảm xúc về lòng thương xót và tha
thứ không, vì điều đó phản ảnh sự dịu dàng của Thiên Chúa bậc Cha-Mẹ?
v) “‘Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì
con ta đây đã chết, nay sống lại; đã mất, nay lại tìm thấy’. Và
người ta bắt đầu ăn uống linh đình.” (Lc 15:23). Trong hình ảnh người
cha bày tiệc ăn mừng con ông nay đã sống lại, chúng ta nhận ra Thiên Chúa là
Cha, Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi “đã ban chính Con Một, để ai tin vào
Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga
3:16). Trong việc làm thịt “con bê béo”, chúng ta có thể thấy Đức
Kitô, Chiên Thiên Chúa, Đấng đã hiến tặng chính mình như một vật hiến tế đền tội
để cứu chuộc tội lỗi. Tôi tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể với tràn đầy
cảm giác biết ơn vì tình yêu vô biên này của Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng
ta chính Con Một yêu dấu của mình chịu đóng đinh và đã sống lại.
3. Cầu Nguyện
a) Thánh Vịnh 32
(31):
Hạnh phúc thay, kẻ lỗi
lầm mà được tha thứ,
người có tội mà được khoan dung.
Hạnh phúc thay, người CHÚA không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.
người có tội mà được khoan dung.
Hạnh phúc thay, người CHÚA không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.
Bao lâu con lặng thinh
không thú lỗi,
thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét.
Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng,
nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt.
thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét.
Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng,
nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt.
Bởi thế, con đã xưng tội
ra với Ngài,
chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa,”
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con.
chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa,”
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con.
Chính Chúa là nơi con ẩn
náu,
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên
những khúc ca mừng con được giải thoát.
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên
những khúc ca mừng con được giải thoát.
Hỡi những người công
chính,
hãy vui lên trong CHÚA, hãy nhảy mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo.
hãy vui lên trong CHÚA, hãy nhảy mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo.
b) Lời nguyện kết
Lạy Chúa, Đấng ban thưởng
cho kẻ công chính và sẽ không chối từ tha thứ cho kẻ tội lỗi biết ăn năn, xin
hãy lắng nghe lời khấn xin của chúng con: xin cho việc khiêm hạ xưng
thú những lỗi phạm của chúng con có thể nhận được lòng thương xót của Chúa.
4. Chiêm Niệm
Chiêm niệm có nghĩa là
biết làm thế nào để gắn bó với tất cả tâm hồn và lòng trí của mình vào Chúa, Đấng
mà qua Ngôi Lời của Người biến đổi chúng ta trở thành những con người mới, luôn
tuân theo thánh ý Người. “Bây giờ các con đã biết những điều này, nếu
các con thực hành tương xứng, thì thật phúc cho các con!” (Ga 13:17)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét