23/03/2019
Thứ bảy tuần 2 Mùa Chay
BÀI ĐỌC I: Mk 7, 14-15.
18-20
“Chúa ném mọi tội lỗi chúng tôi
xuống đáy biển”.
Trích sách Tiên tri
Mikha.
Lạy Chúa, với cây trượng
của Chúa, xin chăn dắt dân Chúa, chăn dắt những con chiên thuộc quyền sở hữu của
Chúa, sống lẻ loi trong rừng, ở giữa núi Carmêlô. Tất cả được chăn dắt ở Basan
và Galaad như ngày xưa. Như ngày ra khỏi Ai-cập, xin tỏ cho chúng con thấy những
việc lạ lùng.
Có Chúa nào giống như
Chúa là Đấng dẹp tan mọi bất công, và tha thứ mọi tội lỗi của kẻ sống sót thuộc
về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của mình, vì Chúa ưa thích
lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp những bất công của chúng
tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển. Chúa ban cho
Giacóp biết sự trung thành của Chúa và cho Abraham biết lòng từ bi mà Chúa đã
thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 102, 1-2.
3-4. 9-10. 11-12
Đáp: Chúa là Đấng từ
bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng:
1) Linh hồn tôi ơi,
hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người.
Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. –
Đáp.
2) Người đã tha thứ
cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi
khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. – Đáp.
3) Người không chấp
tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng
tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa điều oan trái chúng tôi. – Đáp.
4) Cũng như trời xanh
cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ
Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng
tôi. – Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: 2 Cr 6, 2b
Đây là lúc thuận tiện,
đây là ngày cứu độ.
PHÚC ÂM: Lc 15, 1-3.
11-32
“Em con đã chết nay
sống lại”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, những người
thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy,
những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi
và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:
“Người kia có hai con
trai. Đứa em đến thưa cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về
con’. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất
cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của.
Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm
thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra
đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai
cho. Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: ‘Biết bao người làm công ở nhà cha
tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở
về với cha tôi và thưa người rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến
cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người
làm công của cha”‘. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa,
cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó
và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến
Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa’. Nhưng người cha bảo
các đầy tớ: ‘Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón
tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng,
vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt
đầu ăn uống linh đình.
“Người con cả đang ở
ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên
đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: ‘Đó là em cậu đã trở về và cha
cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ’. Anh liền nổi giận và
quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: ‘Cha coi,
đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không
bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng
con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về,
thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó’. Nhưng người cha bảo: ‘Hỡi con,
con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui
mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’ “. Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Người con
hoang đàng
Văn hào Nga
Dostoievki khi biết mình không còn sống bao lâu nữa, đã gọi các con đến bên giường
bệnh và yêu cầu vợ đọc cho chúng nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Khi bà vợ vừa
dứt lời, Dostoievki nói như để lại di chúc riêng của ông như sau:
“Các con yêu dấu,
các con đừng quên những gì các con vừa nghe đọc. Hãy tin tưởng tuyệt đối vào
Chúa, đừng bao giờ thất vọng về sự tha thứ của Ngài. Cha thương các con vô
cùng, nhưng tình thương của cha không thể sánh được với tình yêu Thiên Chúa
dành cho những ai Ngài đã tạo dựng. Cho dù các con có phạm tội ác, các con đừng
bao giờ thất vọng về Thiên Chúa. Các con là con cái Ngài, hãy khiêm tốn đến trước
mặt Ngài. Hãy xin Ngài tha thứ và Ngài sẽ vui mừng vì sự sám hối của các con,
như người Cha đã vui mừng khi người con hoang trở về”.
Những lời trăn trối của
Dostoievki có lẽ cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng ta khi cho
chúng ta lắng nghe dụ ngôn về người con hoang đàng. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu
muốn nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa được chính Ngài cụ thể hoá qua sự gần
gũi của Ngài với các tội nhân. Nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với
con người, Chúa Giêsu cũng nhắm đến thái độ chai đá của các biệt phái và luật
sĩ, được Ngài tô vẽ qua hình ảnh của người con cả. Trong một vài nét ngắn ngủi,
nhưng Chúa Giêsu đã phô bày được bộ mặt chai đá, ích kỷ, mù quáng của biệt phái
và luật sĩ. Người con cả là hạng người không bao giờ nhận ra được tình thương của
Thiên Chúa. Bao lâu nay sống bên cạnh cha, người con cả vẫn xem mình như một thứ
người làm công trong nhà, mà không nghĩ rằng “tất cả những gì của cha đều là của
con”.
Đó có thể là tâm tình
của rất nhiều người trong chúng ta. Chúng ta tuân giữ và thực hành đúng đắn với
giới răn, nhưng có lẽ chúng ta chỉ ngước lên Chúa như một quan toà công thẳng
hay như một viên cảnh sát lúc nào cũng rình rập theo dõi để trừng phạt chúng
ta. Từ một hình ảnh như thế về Thiên Chúa, tâm tình mà chúng ta có đối với Ngài
có lẽ chỉ là sợ hãi, nô lệ. Và bởi lẽ không nhận ra Thiên Chúa như một người
cha, cho nên con người cũng không nhận ra tha nhân là anh em của mình và như vậy
cũng là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Mùa Chay là mùa của
hoán cải. Hoán cải trước tiên là trả lại cho Thiên Chúa gương mặt mà Chúa Giêsu
đã mạc khải, đó là gương mặt của người Cha yêu thương con người đến thí ban Con
Một mình. Nhưng không thể trở về với Thiên Chúa là Cha mà lại không yêu thương
tha thứ cho người anh em của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần II MC
Bài đọc: Mic
7:14-15, 18-20; Lk 15:1-3, 11-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương
tha thứ của Thiên Chúa
Khi chúng ta nghe Chúa
Giêsu đòi hỏi phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người đã xúc phạm
đến chúng ta; nhiều người đã lắc đầu và chép miệng than: Khó quá! Làm sao thực
hiện nổi? Chắc chắn Thiên Chúa không đòi con người làm những gì quá sức mình. Để
giúp con người làm được điều này, Thiên Chúa ban ơn thánh và mời gọi con người
nhìn lại mối liên hệ của họ với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay
giúp con người nhận ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của
con người đã xúc phạm đến Ngài. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Micah xin Thiên Chúa
nối lại mối liên hệ của Ngài với Israel sau Thời Lưu Đày. Điều này chỉ Thiên
Chúa mới có thể làm được, vì mọi con dân Israel đã xúc phạm đến Ngài. Để thực
hiện điều đó, Thiên Chúa phải chà đạp tội lỗi dưới chân hay quăng chúng xuống
đáy biển. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Luca viết lại cho chúng ta một câu truyện tuyệt
vời về tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện
và phục hồi quyền làm con, khi một người ăn năn trở lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa nhân từ.
1.1/ Xin Thiên Chúa tiếp
tục chăn dắt dân: Những gì Tiên-tri Micah viết
trong chương cuối hôm nay giả sử Thời Lưu Đày đã qua, và Thiên Chúa đã có kế họach
cho dân Do-Thái trở về để tái thiết Đền Thờ và xây dựng lại quê hương. Tiên-tri
ước mơ Thiên Chúa sẽ nối lại tình cha con, như khi họ mới từ Ai-cập vào Đất Hứa:
“Lạy Đức Chúa, xin Ngài dùng gậy để chăn dắt dân là đàn chiên, là cơ nghiệp của
Ngài, đang biệt cư trong rừng giữa vườn cây ăn trái. Xin đưa họ tới đồng cỏ miền
Bashan và Galaat như những ngày thuở xa xưa. Như thời Ngài ra khỏi đất Ai-cập,
xin Ngài cho chúng con thấy những kỳ công.”
1.2/ Thiên Chúa không chấp
tội của con người: Tiên-tri ý thức sâu xa
các tội của dân đã xúc phạm đến Thiên Chúa, và tình thương như trời biển của
Ngài dành cho dân. Họ xứng đáng lãnh nhận mọi hình phạt và ngay cả cái chết;
nhưng họ còn sống và còn được trở về quê hương là hòan tòan do lòng nhân từ của
Thiên Chúa. Tiên-tri Micah tự hỏi: “Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu
đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài? Người
không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa, Người sẽ lại thương xót
chúng ta, tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người
ném xuống đáy biển.”
2/ Phúc Âm: Người Cha nhân hậu
2.1/ Người tội lỗi cần
tình thương của Thiên Chúa: Các người thu
thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những
người Pharisees và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội
lỗi và ăn uống với chúng.” Chúa Giêsu đưa ra 3 dụ ngôn để giúp họ nhận ra tình
thương Thiên Chúa, và dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” tuyệt vời hơn cả, vì nó bao
hàm tất cả các tiến trình phạm tội, xám hối, trở về, và tình thương tha thứ.
(1) Tội lỗi và tự do:
Tội lỗi xảy ra khi con người lạm dụng quyền tự do của mình. Thiên Chúa ban cho
con người quyền tự do chọn lựa, và Ngài tôn trọng quyền tự do của con người. Dĩ
nhiên Ngài có thể bắt con người làm theo ý Ngài, nhưng làm như thế là mâu thuẫn
với chính Ngài, và con người cũng không thỏai mái khi bị bắt làm như thế. Người
con thứ cho chúng ta nhìn thấy cách xử dụng tự do không đúng của con người. Người
cha để cho con hòan tòan tự do, mặc dù ông rất đau khổ trong lòng, vì ông biết
có thể đây là lần cuối được nhìn thấy con.
(2) Tội lỗi và hình phạt:
Tự do chọn lựa là phải lãnh nhận hậu quả mang lại. Người biết dùng tự do là người
biết cân nhắc kỹ các hậu quả sẽ mang lại của từng lựa chọn. Người con thứ đã
không nhìn thấy trước hậu quả của lối sống anh ta đã chọn; và khi hậu quả xảy
ra, anh mới biết mình đã lựa chọn không đúng. Vì không có nghề, nên anh phải
chăn heo, là một nghề mà người Do-Thái khinh thường. Chưa hết, vì quá đói nên
anh ước ao được ăn những đồ heo ăn, mà cũng chẳng ai cho. Danh dự của một con
người giờ còn thua cả một con vật nhơ bẩn.
(3) Tội lỗi và xám hối:
Đau khổ cần thiết vì nó giúp con người biết phân biệt phải trái; trong đau khổ,
con người nhận ra nhu cầu phải ăn năn xám hối. Người con thứ nhận ra mình đã
không sống xứng đáng với địa vị làm con, nên muốn xin trở nên như một người làm
công để có cơm ăn cho khỏi chết đói. Và anh ta mạnh dạn đứng lên ra về.
(4) Tội lỗi và tha thứ:
Có một chi tiết nhỏ, nhưng nhiều người đã nhận ra và viết về nó: Làm sao người
cha biết khi nào con trở về mà chạy ra đón con? Có người suy đóan: chắc ngày
nào ông cũng ra đón vì thương con. Điều hợp lý hơn có lẽ Chúa Giêsu muốn ám chỉ
Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa mới biết những gì xảy ra trong tâm hồn con người.
Ngài tha thứ mà chẳng đòi điều kiện nào cả; cũng chẳng cần con kịp nói hết lời.
Không những sẵn sàng tha thứ mọi tội mà còn phục hồi quyền làm con qua việc mặc
áo đẹp nhất, xỏ nhẫn, mang giầy, và ăn mừng.
2.2/ Con người không thể
hiểu được tình thương Thiên Chúa: Tình
thương quá tuyệt vời của người cha làm nhiều người bất mãn, trong đó có người
anh của người con thứ.
(1) Phản ứng của người
anh cả: Khi biết lý do của buổi tiệc, Người anh cả liền nổi giận và không chịu
vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ, và cậu được dịp để bày tỏ nỗi tức giận của
mình:
– Kể công phục vụ:
“Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế
mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.”
– Từ chối không nhận
em mình: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn
điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”
(2) Phản ứng của người
cha: Ông vẫn bênh vực người con thứ và kiên nhẫn cắt nghĩa cho người con cả:
“Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.
Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống,
đã mất mà nay lại tìm thấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta khó tha thứ
cho kẻ thù và cầu nguyện cho người xúc phạm; vì chúng ta không chịu xét mình để
nhìn ra tình thương tha thứ và cách cư xử của Thiên Chúa với chúng ta.
– Một khi chúng ta
nhìn ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa và cách cư xử của Thiên Chúa, chúng
ta sẽ dễ dàng tha thứ cho anh chị em hơn; và nhận ra những gì họ xúc phạm đến
chúng ta không thể so sánh với những gì chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa.
– Sau cùng, tất cả chỉ
là tình thương. Nếu chúng ta đã nhận được tình thương từ Thiên Chúa, chúng ta
cũng phải chia sẻ tình thương cho nhau.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
23/03/2019 – THỨ BẢY TUẦN 2 MC
Lc 15,1-3.11-32
THA THỨ
Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cùng ở với
cha, tất cả những gì của cha đều là của con.” (Lc 15,31)
Suy niệm: Cha Phanxicô Xaviê Trần
An nói về chính mình rằng: “Tôi là một đứa con hoang đàng thời hiện đại.” Thật
vậy, từ một người nghiện cờ bạc, ma túy, rượu chè và tù tội, ngài đã hoán cải
và hơn nữa, trở thành linh mục đan sĩ dòng Biển Đức, một tông đồ cho những con
người hút chích nghiện ngập muốn từ bỏ đường tội lỗi để sống xứng đáng với phẩm
giá con người. Vâng, người con hoang đàng trong bài dụ ngôn muốn quay về nhà
cha để chỉ làm một đầy tớ. Thế nhưng, người cha đã phục hồi tước vị người con
cao quý cho anh. Chiếc áo tượng trưng cho sự tôn trọng, đôi giày là dấu chỉ tư
cách người tự do -nô lệ không được mang giày-, chiếc nhẫn tiêu biểu cho quyền
thừa kế. Cho nên, trong trái tim người cha, anh luôn là con, luôn có một chỗ
cao trọng, dù anh có tội lỗi mấy đi nữa, miễn sao anh thành tâm hối cải, đứng
lên và đi trở về nhà cha.
Mời Bạn: Người cha tha thứ cho con,
ông không la mắng, cũng chẳng trách móc. Ông như quên đi tất cả quá khứ của
con. Yêu thương luôn bao gồm tha thứ và quên hết tất cả. Vì thế, nếu bạn còn in
trí lầm lỗi của một người thân quen, là dấu chỉ chắc chắn bạn chưa thật sự tha
thứ và được tha thứ! Vậy, bạn hãy nhìn mẫu gương của Thiên Chúa, người Cha nhân
lành, để biết tha thứ lầm lỗi của một người xúc phạm đến mình, và tập quên,
không nghĩ đến sự xúc phạm của họ nữa.
Sống Lời Chúa: Tận dụng cơ hội trong Mùa
Chay này để chứng tỏ đức tin sống động: hãy siêng năng cầu nguyện và tha thứ.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha
một cách sốt sắng.
(5 Phút Lời Chúa)
Ăn mừng (23.3.2019 – Thứ Bảy Tuần
2 Mùa Chay)
Suy niệm
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.
Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.
Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ,
người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống.
Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.
Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ.
Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.
Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.
Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con.
Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).
Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em,
một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28).
Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào.
Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.
người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống.
Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.
Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ.
Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.
Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.
Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con.
Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).
Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em,
một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28).
Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào.
Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.
Hoán cải bao giờ cũng khó.
Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha.
Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?
Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại ?
Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào,
vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải,
vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).
Cả hai người con đều cần hoán cải.
Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha.
Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?
Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại ?
Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào,
vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải,
vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).
Cả hai người con đều cần hoán cải.
Người con cả cũng hỗn hào với cha không kém gì đứa em (c. 30).
Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói.
Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29).
Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha.
Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.
Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói.
Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29).
Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha.
Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.
Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em.
Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc.
Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không ?
Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc.
Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không ?
Lời nguyện:
Lạy Cha,
người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha
như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha
như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG BA
Chúng Tôi Rao Giảng
Đức Kitô Chịu Đóng Đanh
Mùa Chay, Giáo Hội
không chỉ đào sâu luật luân lý của Thập Giới. Cùng với Thánh Phao-lô, Giáo Hội
còn rao giảng cho chúng ta “Đức Kitô chịu đóng đanh” trên Núi Can-vê.
Thuở xưa, người Do
Thái đòi dấu lạ và người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan – như một điều kiện để họ tin
vào hành động cứu độ của Thiên Chúa (1Cr 1,22). Con người thời nay cũng có thái
độ tương tự như người Do Thái và người Hy Lạp thời các Tông Đồ. Hay nói đúng
hơn, đòi hỏi của con người thời nay còn xa hơn thế nữa. Đó đây đôi khi chúng ta
gặp phải những chỉ trích và chống đối đối với các huấn lệnh của Thiên Chúa một
cách phũ phàng hơn. Dù sao, Giáo Hội vẫn kiên trung với lời tuyên bố của Tông Đồ
Phao-lô: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh” (1Cr 1,23).
Nơi Đức Kitô, chúng ta
tìm thấy câu trả lời cho mọi sự! Mọi chỉ trích và chống đối nhắm vào các huấn lệnh
của Thiên Chúa đều bị hóa giải khi chúng đối diện với một Đức Kitô chịu đóng
đanh. Thập giá Can-vê “thì khôn ngoan hơn loài người” và “mạnh mẽ hơn loài người”
(1Cr 1,25).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
LỜI CHÚA TRONG GIA ĐÌNH
NGÀY 23/3
Thánh Turibiô
Môgrôvêjô, giám mục
Mk 7, 14-15. 18-20;
Lc 15, 1-3. 11-32.
LỜI SUY NIỆM: “Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để
nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông
này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’”
Khi Chúa Giêsu tiếp đón những người tội lỗi và cùng ăn uống với họ, đã làm cho
các kinh sư và người Pharisêu xầm xì và đánh giá sai về Người. Chúa Giêsu đã
đưa ra “Ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa” giúp cho mỗi người chúng
ta biết: “Chúa Giêsu thấu suốt các tầm sâu thẳm của tình yêu của Cha Người, mới
có thể mạc khải cho chúng ta tận đáy lòng thương xót của Thiên Chúa một cách
đơn sơ và đầy vẻ đẹp như vậy (GL 1439)
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con, luôn tin tưởng vào tình yêu
thương, tha thứ của Chúa, mà vững mạnh, chỗi dậy sau những lần vấp ngã phạm tội,
và cũng xin cho chúng con có niềm vui khi có người anh em ăn năn, hối cải trở về
với Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
23-03: Thánh TURIBIÔ MONGRÔVEJO
Giám mục (1536 –
1606)
Có những trẻ em như đã
biết Chúa làm gì, trong khi những người khác lo tìm kiếm. Những trẻ này biết an
ủi và giúp đỡ người khác. Chẳng hạn dân Mayorga nước Tây Ban Nha, ngày kia, được
thấy một em bé đến bên một phụ nữ đang giận dữ. Bà này mất một vật mà không
mong tìm lại. Đứa trẻ nhã nhặn giải thích cho bà rằng: đừng nên làm như vậy bởi
vì điều đó làm phiền lòng Thiên Chúa. Đứa trẻ tốt lành và tế nhị này tên là
Turibiô, con thứ của lãnh chúa Mongrôvejô.
Ở trường Valladolid rồi
ở Salamanca, Ngài thường nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo, Ngài còn muốn thống hối
thay cho các tội nhân đến nỗi Ngài bị buộc phải bỏ những hy sinh. Người ta có
thể tiên đoán là người sẽ thành một tông đồ bởi Ngài đã biết sống đúng đắn.
Khi đã lớn đủ, cùng với
sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, Ngài được vua Philippê II đặt làm
chánh án tòa án Granada. Khi địa phận Lima trống ngôi năm 1578, thật ngạc nhiên
khi người được chỉ định là một giám mục lại là Turibinô một giáo dân. Nghe tin
này, Turibinô khóc ròng, Ngài quì dưới chân thánh giá viết thư cho nhà vua,
trong đó Ngài tự diễn tả như một kẻ thù tồi tệ của vua vì những bất xứng của
mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay chuyển được ai. Ngài thụ phong linh mục rồi
giám mục và nhậm địa phận năm 1581.
Địa phận dành cho
Turibiô có những khó khăn đến nỗi có thể ngăn chận Ngài lại nếu Ngài không phải
là một vị thánh. Địa phận có chu vi là sáu trăm dặm, gồm nhiều thành phố và
làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes.
Người Tây Ban Nha khai
phá tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn cải hóa bằng roi, họ bắt
dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ thông cho dân những tật xấu của
mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ, Turibiô không thể cầm được nước mắt Ngài
quở trách những người chinh phục vì những lạm dụng cướp bóc của họ và tuyên cáo
rằng: những cớ vấp phạm ấy phải dừng lại cho chân lý và tình thương ngự trị.
Vị mục tử đi tìm kiếm
mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao tuyết phủ, thú rừng hung tợn,
tất cả đều không làm Ngài nản chí, những người Tây ban Nha quyền thế trở thành
phó vương, rồi đến vua Philippe II, do những báo cáo sai lầm đã trách cứ Ngài.
Nhưng tất cả những lề luật nghiêm khắc đó đã không làm cho Ngài tháo lui. Ngài
biện hộ rằng : Chính Chúa Kitô chứ không phải thế gian sẽ phán xét Ngài.
Turibiô học ngôn ngữ
dân Peru, Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân từ. Lòng bác ái nhân từ
của Ngài đối với họ không có giới hạn. Khi Ngài tới một làng hẻo lánh, dân
chúng đổ xô đến với Ngài. Trước hết Ngài thăm hỏi những người đau yếu và không
chữa chạy cho họ được, Ngài dạy cho họ biết chết lành. Khi phân phát tình yêu
Chúa Kitô, Ngài cũng tái lập sự công bình. Dần dần các thành phố và cả những
nơi cô quạnh có người Kitô hữu cư ngụ đông đảo. Thánh Turibiô thiết lập các chủng
viện, các viện cứu tế.
Trong hai mươi lăm
năm, Ngài đi thăm viếng giáo phận rộng lớn và hoang dã của mình ba lần, mỗi lần
phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi tòa mỗi sáng. Người ta nói rằng: khi cầu
nguyện, Ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia sáng siêu nhiên. Mệt nhọc đã là một
việc sám hối rồi, Ngài còn hy sinh và ăn chay thêm nữa. Khi có ôn dịch trong
giáo phận, Ngài tăng gấp đôi lời cầu nguyện hãm mình, Ngài cũng tổ chức nhiều
cuộc rước, khi tham dự chính Ngài rơi lệ uớt cả thánh giá cầm trong tay.
Trong khi bất dầu cuộc
kinh lý mớí, Ngài đã ngã bệnh tại Santa, Ngài chỉ biết lập lại lời thánh Phaolô
: “Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của thể xác để kết hiệp với Chúa Giêsu
Kitô”.
Gần chết Ngài xin những
người chung quanh hát lời thánh vịnh : – Tôi vui mừng khi nghe nói cùng tôi
: chúng ta đi về nhà Thiên Chúa
Thế là cái chết của
Ngài được coi như một thánh lễ. Lời cuối cùng của Ngài là lời chính chúa
Kitô : – Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Ngài tự đi tới
thánh đường Santa để lãnh các bí tích cuối cùng và kết hiệp với Thánh Thể, Ngài
qua đời năm 1606.
(daminhvn.net)
23 Tháng Ba
Cầu Xin và Cảm Tạ
Một buổi sáng kia,
một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thủy tiên tuyệt đẹp trên chiếc bàn
đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một
em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những chiếc hoa màu vàng lợt và em nói với cô
giáo: “Có phải Chúa đã làm ra những bông này không, em muốn gọi dây nói để cảm
ơn Chúa đã cho chúng ta những cái bông đẹp”.
Nếu đất với trời được
nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai
đường dây: Một đường dây cho những kẻ cầu xin và một đường dây dành cho những lời
cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn. Trong khi
đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến như một chuyện ngụ ngôn kia thuật
lại như sau:
Hai Thiên thần được sai xuống trần gian, môic vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau đểđi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Hai Thiên thần được sai xuống trần gian, môic vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau đểđi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Sau một thời gian,
hai Thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một
thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của Thiên Thần kia có vẻ nhẹ như đựng
toàn bông gòn.
“Ông mang gì mà nặng
thế?”, một Thiên Thần hỏi. Thiên Thần mang giỏ nặng trả lời: “Tôi được sai đến
để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông
xem ra nhẹ nhàng thế?”.
“À, tôi được sai đến
để góp nhặt những lời cám ơn Thiên Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ”.
Sự thật về hai cái cân
nặng nhẹ của những lời cầu xin và những lời cám ơn trên cũng được bài Tin Mừng
về 10 người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành bệnh thuật lại như sau: Một
trong bọn họ thấy mình được làm sạch, bèn quay trở lại lớn tiếng ngợi khen
Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người. Mà người ấy lại
là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: “Chớ thì không phải cả 10 người
được làm sạch sao? Còn 9 người kia đâu? Sao không thấy ai trở lại tôn vinh
Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?”.
Ðể sống trọn lời Chúa,
ước gì cuộc sống chúng ta được diễn ra hằng ngày theo lời khuyên sau đây: Hãy
chỗi dậy với tâm hồn thư thái và hãy tạ ơn cho một ngày mới mình được yêu
thương.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Luca 15:1-3, 11-32
Thứ Bảy 23 Tháng Ba,
2019
Thứ Bảy Tuần II Mùa
Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa Cha Trung
Tín, Chúa là Thiên Chúa của chúng con
Chúa của ân sủng, lòng
thương xót và tha thứ.
Lạy Chúa, khi mà lòng
thương xót và tha thứ nghe có vẻ như thuộc về chế độ gia trưởng cho người thời
nay,
Thì lại khiến cho
chúng con nhận ra được,
Rằng Chúa thách thức
chúng con phải đối diện với chính mình
Và trở thành con người
mới,
Chịu trách nhiệm về số
phận của chính mình
Và vì hạnh phúc của
người khác.
Xin Chúa hãy làm cho
chúng con biết đáp trả lại tình yêu của Chúa
Nhờ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng con.
2. Phúc Âm
– Luca 15:1-3, 11-32
Khi ấy, những người
thu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy,
những người Biệt Phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi
và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:
“Người kia có hai con
trai. Đứa em đến thưa cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về
con’. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất
cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của.
Khi nó tiêu hết tiền của,
thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào
giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn
ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới hồi
tâm lại và tự nhủ: ‘Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật,
còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa
người rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được
gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”’. Vậy
nó ra đi và trở về với cha nó.
Khi nó còn ở đàng xa,
cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó
và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến
Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa’. Nhưng người cha bảo
các đầy tớ: ‘Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón
tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng,
vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt
đầu ăn uống linh đình.
Người con cả đang ở
ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên
đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: ‘Đó là em cậu đã trở về và cha
cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu trở về mạnh khỏe’. Anh liền nổi giận và quyết
định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: ‘Cha coi, đã bao
nhiều năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ
cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của
cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha
lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó’.
Nhưng người cha bảo:
‘Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn
tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’”.
3. Suy Niệm
– Chương 15 của sách Tin Mừng Luca được kèm theo những
dữ kiện sau đây: “Những người thu thuế và những người tội lỗi, tất cả mọi người
đều vây quanh Chúa Giêsu để nghe Người giảng, và các người Biệt Phái và Kinh Sư
lẩm bẩm rằng: ‘Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và ngồi ăn uống với chúng’ (Lc
15:1-3). Ngay lập tức, Luca trình bày ba dụ ngôn được kết lại với nhau bởi cùng
một chủ đề: con chiên lạc (Lc 15:4-7), đồng tiền bị đánh mất (Lc 15:8-10), đứa
con bị mất (Lc 15:11-32). Dụ ngôn cuối cùng này tạo thành chủ đề của bài Tin Mừng
hôm nay.
– Lc 15:11-13: Quyết định của người con thứ. Người
kia có hai con trai. Đứa em xin chia phần gia tài thuộc về nó. Người cha chia tất
cả gia tài cho hai con và cả hai đều nhận phần gia tài của chúng. Được nhận phần
thừa kế không phải vì bất cứ công trạng nào của chúng ta. Đó là món quà cho
không. Việc thừa kế những ân huệ của Thiên Chúa được phân chia cho tất cả nhân
loại, cho dù là dân Do Thái hay dân ngoại, cho dù là Kitô hữu hay không phải là
Kitô hữu. Tất cả mọi người đều nhận được một phần gia nghiệp của Chúa Cha.
Nhưng không phải tất cả ai cũng chăm sóc nó trong cùng một cách. Trong trường hợp
tương tự, đứa con thứ bỏ nhà và trẩy đi miền đất xa xôi, và phung phí tiền bạc
của mình vào cuộc sống trác táng, lìa xa người Cha. Vào thời thánh sử Luca, người
con cả được tượng trưng cho các cộng đoàn phát xuất từ Do Thái giáo, và người
con thứ được tượng trưng cho các cộng đoàn họp thành từ dân ngoại. Và ngày nay,
người con út là ai, và người con cả là ai?
– Lc 15:14-19: Ảo tưởng và ý chí quay trở về nhà Cha.
Nhu cầu sinh nhai khiến cho người thanh niên đánh mất sự tự do của mình và anh
ta trở thành người làm công và phải chăn heo. Đây là tình trạng đời sống của
hàng triệu người nô lệ trong Đế quốc La Mã vào thời thánh Luca. Tình huống khiến
người con thứ hồi tưởng lại cuộc sống ngày xưa ở nhà Cha mình. Cuối cùng, anh
ta nhủ thầm những lời mà anh ta sẽ nói với người Cha: “Lạy cha, con đã lỗi phạm
đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với
con như một người làm công của cha!” Người làm công làm theo lệnh của chủ, phải
hoàn thành bổn phận của người tôi tớ. Người con thứ muốn tuân thủ lề luật y như
người Biệt Phái và Kinh Sư của thời Chúa Giêsu muốn (Lc 15:1). Sứ vụ của người
Biệt Phái cáo buộc dân ngoại là những người đã cải đạo sang đạo Thiên Chúa của
ông Abraham (Mt 23:15). Vào thời của ông Luca, một số Kitô hữu xuất phát từ Do
Thái giáo, tự mang cái ách của Lề Luật vào mình (Ga 1:6-10).
– Lc 15:20-24: Niềm vui mừng của người Cha khi ông được
gặp lại người con thứ của mình. Dụ ngôn nói rằng khi người con thứ còn ở đàng
xa, mà người Cha đã trông thấy con mình, và chạy lại, ôm choàng lấy nó và hôn
nó. Chúa Giêsu cho chúng ta ấn tượng rằng người Cha vẫn luôn ở bên cửa sổ để
ngóng xem con mình có xuất hiện ở đầu ngõ không. Theo lối suy nghĩ và cảm xúc của
con người, niềm vui mừng của người Cha dường như được phóng đại. Thậm chí ông ấy
đã không để cho con mình nói hết những gì nó muốn nói. Không ai muốn nghe! Người
Cha không muốn con của ông trở thành kẻ nô lệ cho mình. Ông muốn nó là con của
ông! Đây là Tin Mừng tuyệt vời mà Chúa Giêsu đã đem đến cho chúng ta! Một chiếc
áo mới, giầy mới, nhẫn đeo vào tay nó, con bê, tiệc mừng! Trong niềm vui lớn
lao của việc gặp gỡ, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy nỗi buồn to lớn của người Cha
như thế nào vì sự mất mát con trai của ông. Thiên Chúa đã rất buồn và người ta
bây giờ đã ý thức được điều này, khi nhìn thấy niềm vui bao la của người Cha vì
được gặp lại con mình! Đó là niềm vui được chia sẻ với tất cả mọi người trong
tiệc mừng mà ông đã chuẩn bị sẵn sàng.
– Lc 15:25-28a: Phản ứng của người con cả. Người con
cả từ ngoài ruộng trở về và trông thấy trong nhà đang có yến tiệc linh đình.
Anh ta từ chối bước vào nhà. Anh ta muốn biết chuyện gì đang xảy ra. Khi được
biết lý do cho việc ăn uống linh đình, anh ta liền nổi giận và quyết định không
vào nhà. Anh ta tự cách biệt, anh ta nghĩ mình có quyền lợi riêng. Anh ta không
thích việc yến tiệc và không hiểu được lý do cho sự vui mừng của Cha mình. Đây
là dấu hiệu cho thấy anh ta đã không có sự gắn bó mật thiết với Cha, mặc dù thực
tế là họ sống trong cùng một nhà. Thật ra, nếu người con cả đã có liên hệ mật
thiết với Cha mình, thì anh ta đã nhận ra được nỗi muộn phiền của người Cha vì
mất đi người con thứ và sẽ hiểu được niềm vui mừng của ông khi thấy con mình trở
về. Những ai sống rất lo lắng về việc tuân giữ Lề Luật Thiên Chúa, có nguy cơ
quên chính Thiên Chúa! Người con thứ, dù rằng sống xa nhà, dường như biết về
Cha nhiều hơn người con cả là kẻ sống chung nhà với ông. Bởi vì người con thứ
đã có can đảm để quay trở về với Cha mình, trong khi đó người con cả thì lại
không muốn bước vào nhà Cha. Anh ta không ý thức được rằng không có anh ta, người
Cha sẽ mất đi niềm vui mừng. Bởi vì, anh ta, người con trưởng, cũng là con, giống
như người con thứ!
– Lc 15:28b-30: Thái độ của người Cha và
câu trả lời của người con cả. Người Cha đi ra và xin người con cả vào nhà.
Nhưng anh ta trả lời: “Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái
lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn
mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của
cha với bọn đàng điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng
nó”. Người con cả cũng muốn có một bữa tiệc và vui chơi, nhưng chỉ với nhóm bạn
riêng của anh ta thôi. Không muốn vui với em mình và càng không muốn với Cha
mình, và anh ta không gọi em mình là em, mà lại gọi “thằng con của cha kia”,
như thể rằng người con thứ không còn là em của anh ta nữa. Và anh ta, người con
cả, nói đến những cô gái mãi dâm. Đó là ác tâm mà anh ta diễn giải cuộc sống của
em mình theo cách này. Đã bao nhiêu lần, người Công Giáo chúng ta đã diễn giải
tồi tệ về đời sống và tôn giáo của các kẻ khác! Thái độ của người Cha thì ngược
lại! Ông chấp nhận người con thứ, nhưng cũng không muốn mất người con cả. Cả
hai đều là phần tử của gia đình. Người này không thể loại trừ người kia!
– Lc 15:31-32: Câu trả lời cuối cùng của người Cha.
Người Cha là người đã không chú ý đến lời đối đáp của người con thứ, thì trong
cùng một cách, ông cũng không màng đến những lời của người con cả và nói rằng:
“Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn
tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy!” Có
phải là người con cả đã thực sự nhận thức được rằng anh ta luôn ở bên Cha mình
và tìm thấy rằng sự hiện diện của anh ta là nguyên nhân cho niềm vui của cha
mình không? Câu nói: “Mọi sự của cha đều là của con!” cũng bao gồm cả người con
thứ là người đã quay về nhà! Người con cả không có quyền phân biệt, và nếu anh
ta muốn là con trai của người Cha, thì anh ta phải chấp nhận người cha như thế
và không như là người cha mà anh ta muốn! Câu chuyện dụ ngôn không nói đến câu
trả lời của người con cả ra sao sau đó. Điều đó tùy thuộc vào người con cả, mà
chúng ta là người ấy, cho câu trả lời!
– Những ai có kinh nghiệm về sự dạt dào đáng ngạc
nhiên và cho không về tình yêu Thiên Chúa trong đời sống của mình thì trở nên
vui vẻ và mong muốn được truyền bá niềm vui mừng này cho những người khác. Hành
động cứu độ của Thiên Chúa là nguồn mạch của sự vui mừng: “Hãy chung vui với
tôi!” (Lc 15:6-9). Và từ kinh nghiệm này về sự cho không của Thiên Chúa dấy lên
ý nghĩa của tiệc mừng và niềm vui (Lc 15:32). Vào cuối câu chuyện dụ ngôn, người
Cha đòi hỏi phải được hạnh phúc và ăn mừng, tiệc vui. Niềm vui mừng đang bị đe
dọa bởi người con cả, là người không muốn vào nhà. Anh ta nghĩ rằng mình có quyền
vui vẻ nhưng chỉ riêng với chúng bạn của mình và không muốn chia sẻ niềm vui mừng
với tất cả các thành viên của gia đình nhân loại. Anh ta đại diện cho những ai
tự coi mình là công chính và tuân giữ lề luật, và những ai nghĩ rằng họ không cần
bất kỳ một sự chuyển đổi nào.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Đâu là hình ảnh về Thiên Chúa mà tôi đã có từ thời
thơ ấu? Hình ảnh ấy có đã thay đổi trong những năm qua không? Nếu nó đã thay đổi,
tại sao?
– Trong hai người con, tôi nhận thấy mình giống người con
nào: người con thứ hay người con cả? Tại sao?
5. Lời nguyện
kết
Chúc tụng CHÚA đi, hồn
tôi hỡi,
Toàn thân tôi, hãy
chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn
tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ
của Người.
(Tv 103:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét