14/04/2019
Chúa Nhật Lễ LÁ năm C
(phần III)
SCĐ Chúa Nhựt Lễ Lá C
Chủ đề :
Thập giá và Vinh quang
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem
Sợi
chỉ đỏ :
Những
bài đọc hôm nay đều trực tiếp hay gián tiếp nói đến việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu
chết trên Thập giá. Nhưng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không chỉ là
đau đớn tủi nhục, mà là nguồn phát sinh ơn phúc :
– Tin
Mừng (Lúc rước lá : Lc 19,28-40) : Việc Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem như một vị Vua Messia là dấu chỉ rằng bình an và ơn cứu độ mà Thiên
Chúa hứa sắp được thực hiện.
– Bài
đọc I (Is 50,4-7) : Người Tôi Tớ Thiên Chúa chịu đau khổ, nhưng hoàn toàn
tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình.
– Bài
đọc II (Pl 2,6-11) : Chính vì Chúa Giêsu chịu hạ mình mang thân phận loài
người và hy sinh cho đến chết, nên Thiên Chúa sẽ siêu tôn Ngài lên làm Chúa cả
trời đất.
– Bài
thương khó theo Thánh Luca (Lc 22,14—23,56) : Chúa Giêsu trên Thập Giá là
một Thiên Chúa nhân từ mở rộng vòng tay đón tiếp các tội nhân.
I.
Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Hôm
nay bắt đầu Tuần Thánh, tuần lễ tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết
và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Thập giá là con đường dẫn tới vinh quang.
Chúng ta hãy cùng đi theo Ngài trên con đường thập giá, chết cho con người cũ để
sống lại thành con người mới.
II.
Gợi ý sám hối
(Không
có)
III. Lời
Chúa
- Tin Mừng (Lúc rước lá : Lc 19,28-40)
Trong
đoạn này, Luca gói ghém 3 ý tưởng chính :
- Chúa Giêsu đích thân
thu xếp cuộc vào thành Giêrusalem, Ngài căn dặn các môn đệ từng chi tiết
nhỏ như đi vào làng, tìm gặp một con lừa đã cột sẵn ở một chỗ, cách trả lời
với người chủ lừa v.v. Điều này chứng tỏ Ngài coi việc vào thành là quan
trọng.
- Quan trọng thế
nào ? Vì qua cuộc vào thành lần này, Ngài sẽ tỏ cho mọi người biết
Ngài là vua. Ý nghĩa này thể hiện qua các chi tiết đám rước long trọng
(lưng lừa và con đường được lót áo, dân chúng tung hô, lời hoan hô “Chúc tụng
Đức Vua” v.v.
- Thế nhưng một số người
thuộc nhóm Pharisêu vẫn không công nhận vương quyền Ngài và còn đề nghị
Ngài quở trách các môn đệ đã tung hô Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đáp “Họ mà làm
thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên”, nghĩa là dù một ố người không công nhận
Ngài là vua thì thực chất Ngài cũng vẫn là vua.
2.
Bài
đọc I (Is 50,4-7)
Đây là
bài ca thứ 3 về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
– Người
Tôi Tớ này không bao giờ cưỡng lại Thiên Chúa. Trái lại luôn lắng nghe lời Ngài
và làm theo ý Ngài.
– Người
Tôi Tớ này cũng không chống lại sự áp bức của người khác.
– Người
Tôi Tớ đặt trọn niềm trông cậy vào Thiên Chúa.
– Mặc
dù bản thân đang chịu đau khổ, Người Tôi Tớ lại tìm cách nâng đỡ những người
khác đang chịu đau khổ.
3.
Đáp
ca (Tv 21)
Đây
là lời cầu nguyện của kẻ đang chịu đau khổ. Tuy nhiên không phải chỉ có những lời
than vãn, mà phần sau, tác giả bày tỏ niềm tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ giải
thoát mình.
4.
Bài
đọc II (Pl 2,6-11)
Đây
là một thánh thi diễn tả những bước thăng trầm của Chúa Giêsu : Ngài đã hạ
mình xuống đến mức tột cùng, nên Thiên Chúa đã nâng Ngài lên địa vị cao sang nhất.
5.
Bài
thương khó theo Thánh Luca (Lc
22,14—23,56)
Mỗi
quyển Tin Mừng nhìn ra một nét riêng biệt nơi Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết.
Raymond E. Brown đã tóm tắt rất súc tích như sau :
.
Chúa Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Matthêu và Marcô là một Thiên Chúa “gục đầu”
vì đau khổ và bị bỏ rơi.
.
Chúa Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Gioan là một “Vị Vua đang ngự trên ngai”.
.
Chúa Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Luca là một Thiên Chúa nhân từ đang “mở rộng
vòng tay” đón tiếp các tội nhân.
Như
thế, nhân từ là nét nổi bật nhất về Chúa Giêsu trong bài tường thuật của
Luca : Ngài đã chữa lành tai người đầy tớ của Vị Thượng Tế, Ngài đưa mắt
nhìn Phêrô ngay sau khi ông này chối Ngài nhờ đó làm cho ông sám hối, Ngài dừng
lại an ủi những phụ nữ khóc thương Ngài, Ngài hứa ban thiên đàng cho người trộm
lành v.v.
IV.
Gợi ý giảng
- Vinh quang của
Chúa Giêsu
Cuộc rước
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem đã biểu dương vinh quang của Ngài. Nhưng vinh
quang hôm nay chỉ thoáng qua và chóng lụi tàn vì vài ngày sau thì Ngài bị giết
chết nhục nhã trên thập giá. Vinh quang thực sự của Chúa Giêsu chỉ biểu lộ trọn
vẹn khi Ngài sống lại và tiến vào Giêrusalem trên trời.
Hôm
nay chúng ta cầm lá đi kiệu và biểu dương vinh quang của Chúa Giêsu. Tuy nhiên
chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta chỉ thực sự biểu dương vinh quang Chúa Giêsu khi
để cho Ngài thực sự làm vua ngự trị trong lòng mình, bằng cách tuân giữ những
giới răn của Ngài và sống theo tinh thần của Ngài.
Tinh
thần của Chúa Giêsu chính là tinh thần của Người Tôi Tớ được diễn tả trong các
bài đọc hôm nay : sẵn sàng tự hạ, chấp nhận hy sinh để bước theo Ngài và
cùng chết với Ngài để được cùng sống lại với Ngài.
2.
Làm
chứng cho Đức Kitô giữa nơi công cộng
Hôm
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, các môn đệ đã công khai bày tỏ lòng tin tưởng
và trung thành với Ngài. Điều đáng khen là các ông đã làm điều ấy trước mặt những
người biệt phái đang quyết liệt chống đối Chúa Giêsu. Khi những người biệt phái
nói với Chúa Giêsu hãy bảo môn đệ im đi, thì Ngài trả lời : “Họ mà làm
thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên”. Nhiều khi cũng cần có những sự ủng hộ công
khai. Bởi thế thông thường Chúa Giêsu rất âm thầm nhưng hôm nay Ngài tán thành
việc làm của các môn đệ.
Tuy
nhiên trong thái độ của các môn đệ cũng có điều đáng nghi ngờ. Không phải nghi
ngờ về lòng trung thành của các ông, mà nghi ngờ vì đó là một phản ứng theo đám
đông. Phản ứng theo đám đông thì thường là ồn ào, nhưng không sâu sắc.
Chúng
ta dễ làm chứng cho Chúa Giêsu trong Nhà thờ, vì nơi đây chúng ta đang ở giữa
những người cùng quan điểm với mình. Nhưng không dễ chút nào khi phải làm chứng
cho Ngài giữa một môi trường rất khác với mình và có khi còn thù nghịch với
mình nữa. Dù vậy nhiều khi chúng ta cần phải can đảm làm chứng trong hoàn cảnh
khó khăn như thế.
Thực
ra, sỏi đá không thể kêu lên. Chỉ con người mới kêu lên được. Có nhiều trường hợp
chúng ta được im lặng mà phải nói lên : nói lên để bênh vực một người đang
bị đối xử bất công, nói lên để khích lệ một người đang âm thầm đóng góp cho việc
chung, nói lên sự thật để đầy lùi những lời dối trá…
Chúng
ta đang làm chứng cho Chúa trong Nhà thờ. Nhưng đừng quên làm chứng cho Ngài ở
giữa chợ đời. Chúa Giêsu đã từng tuyên bố : “Ai tuyên xưng Ta trước mặt
người khác thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta trên trời”. (FM)
3.
Con
đường vinh quang
Trong
bài đọc II, Thánh Phaolô đã ngầm so sánh Chúa Giêsu với Ađam.
Ađam
đã đi tìm vinh quang bằng cách muốn được “ngang hàng với Thiên Chúa”. Nhiều người
chúng ta cũng tìm vinh quang bằng cách khẳng định chính mình. Đây là con đường
chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại.
Còn
Chúa Giêsu thì chỉ biết làm theo ý Thiên Chúa nên sẵn sàng tự hạ mình xuống đến
nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên Thập giá. Nhưng đây là con đường đưa đến
vinh quang thật. Chính nhờ thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu
trổi vượt mọi danh hiệu… khiến mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Chúa
Giêsu Kitô là Chúa”.
Ai
nâng mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
4.
Yêu
cho đến cùng
Tại
nhà thờ chính toà Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá nổi
tiếng được chạm trỗ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ đinh
và vòng ra phía trước như ôm một con người.
Tương
truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thứ tha tội lỗi.
Nhưng vì tội ông quá lớn, quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của
Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng tay âu yếm để bày tỏ
lòng Chúa khoan dung hải hà.
*
Trong
suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Chúa Giêsu đã bày tỏ tấm lòng
yêu thương con người : Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật,
xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Hôm
nay, Người quyết định bước vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến.
Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của
Người.
Nhưng
trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo
trước : “Quỉ rút lui để chờ dịp khác” (4,13). Dịp ấy, hôm
nay đã đến. Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung, tham của này đùng
cái hôn nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo để Phêrô thì chối
thầy, còn các ông khác thì bỏ trốn. Vườn Ghếtsêmani quả thật là nơi giao tranh
giữa Chúa Giêsu và quyền lực tối tăm, giữa sự thiện và cái ác. Người dùng
phương thế hữu hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường như trong cuộc
chiến nội tâm của Người rất căng thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người
khỏi uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến nỗi mồ hôi như những giọt
máu rơi xuống đất.
Thế
nhưng, Người vẫn nhân từ thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi
hoàn toàn dâng hiến trên thập giá : Người hiền hoà ra đón Giuđa, và dịu
dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô
chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người
an ủi những phụ nữ thương khóc người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ
đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.
Cuối
cùng, Người đã hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người.
Sinh thời Người đã nói : “Không có tình yêu nào cao quí bằng người
hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13). Vậy, Người đã yêu thương con
người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết : “Người vẫn
yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến
cùng” (Ga 13,1b).
*
Lạy
Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Cha và cũng vì yêu chúng con mà Chúa đã
sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ
nay cũng biết yêu Chúa hơn yêu bạn thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không mong
phần thưởng nào khác.
Xin
cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ của cuộc đời chúng
con, và vững bước theo Chúa trên đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu
toàn thánh ý Chúa. Amen. (TP)
5.
Chiến
thắng của Tình yêu
Mỗi
năm đến ngày Chúa nhật Lễ Lá là chúng ta lại được nghe Bài Thương khó của Chúa
Giêsu. Chúng ta nhớ lại sự hèn nhát của những môn đệ Ngài : họ đã bỏ Ngài
ngay giữa lúc Ngài cần họ ở bên cạnh nhất ; chúng ta nhớ lại lòng dạ xấu
xa của những nhà lãnh đạo do thái : họ đã tìm cách để giết Ngài ;
chúng ta cũng nhớ lại sự hung dữ của những người lính : họ đã hành hạ Ngài
rất tàn nhẫn. Chúng ta phải nhớ những điều ấy, bởi vì chúng có liên hệ với
chúng ta.
Tuy
nhiên, đó không phải là mục đích chính của những bài tường thuật việc Chúa
Giêsu chịu nạn chịu chết. Điểm nhấn mạnh của những tường thuật này không phải
là ở chỗ đó, mà là ở tấm lòng của Chúa Giêsu, nhân vật chính của các bài tường
thuật ấy. Điều mà các tác giả Tin Mừng muốn chúng ta nhớ nhiều nhất, đó là lòng
trung thành, lòng can đảm và lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Trên nền trời u ám của
đồi Canvê, lòng nhân từ của Chúa Giêsu càng chiếu tỏa sáng ngời.
Nhìn
bề ngoài thì xem ra Chúa Giêsu đã thất bại. Nhưng thực ra, đó là một chiến thắng,
chiến thắng của sự Thiện trên sự dữ, của Tình yêu trên hận thù, của ánh sáng
trên bóng tối, của sự sống trên sự chết. Trong lòng Ngài lúc đó, chẳng có tình
cảm nào khác ngoài Tình yêu. Nếu không có Tình yêu thì tất cả những khổ đau
Ngài chịu đều vô ích. Không phải những đau khổ của Chúa Giêsu mang lại ơn cứu độ,
mà chính Tình yêu của Ngài. Ai nói rằng mình thích chịu đau khổ thì đó là người
khùng, bởi vì ai cũng muốn tránh đau khổ, tuy nhiên vì yêu mà người ta sẵn sàng
chịu đau khổ cho người mình yêu. Chính Tình yêu làm cho đau khổ có ý nghĩa. Hơn
nữa, tình yêu còn đem lại niềm vui ngay giữa những đau khổ.
Noi
gương Chúa Giêsu, kitô hữu chúng ta hãy chấp nhận những đau khổ. Nhưng không chỉ
có thế, chúng ta hãy thánh hóa những đau khổ ấy. Tình yêu làm cho đau khổ được
thánh hóa. (FM)
6.
Những
đau khổ của Chúa Giêsu và của chúng ta
Một
buổi tối, một người trên đường từ sở làm về nhà. Khi đi ngang một nhà thờ, người
ấy như bị thúc đẩy bước vào. Hình ảnh đầu tiên đập vào đôi mắt anh là Chúa
Giêsu trên thánh giá. Thoạt nhìn, anh cảm thấy ghê sợ và muốn thụt lùi. Nhưng
sau đó, anh nhận ra có một mối giây liên kết giữa người đang chịu đóng đinh
trên thánh giá với những người mẹ khóc con bị chết vì chiến tranh, với những trẻ
em sắp chết đói bên Châu Phi, với những gia đình có người thân chết vì tai nạn,
với những bệnh nhân thể xác và tâm thần… Hình như tất cả những khổ đau của loài
người đều được gom lại trên thân thể của Người đang chịu đóng đinh trên thánh
giá.
Sau
đó anh nhìn chung quanh mình và thấy cũng có một số người đang quỳ cầu nguyện
trong thinh lặng. Một bà cao tuổi bước đến bên Thánh Giá và kính cẩn hôn những
vết thương của Chúa Giêsu. Sau đó Bà rời nhà thờ, vẻ mặt thanh thản, bình an,
có vẻ như Bà đã tìm lại được sức mạnh, hy vọng và tình yêu cho cuộc sống. Từ
trước đến nay, anh không biết cầu nguyện. Nhưng hôm đó, lần đầu tiên anh đã cầu
nguyện. Và anh khám phá rằng thập giá của sự khủng khiếp đã biến thành Thánh
giá của hy vọng, thân thể bì hành hạ của Chúa Giêsu biến thành thánh thể của sự
sống mới, những vết thương mở toang của Ngài trở thành nguồn thứ tha, cứu chữa
và hòa giải… Khi bước ra khỏi nhà thờ, anh cảm thấy lòng mình rất bình an thanh
thản.
Cuộc
chịu nạn của Chúa Giêsu không phải là một màn kịch mà là một sự thật. Ngài đã
chịu rất nhiều đau khổ, trong than xác và trong tinh thần. Nhưng tất cả những
đau khổ ấy Ngài tự ý tự nguyện gánh chịu, vì yêu.
Khi
chúng ta liên kết những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Chúa Giêsu
trên Thánh Giá, chúng ta sẽ tìm được bình an. Chúng ta biết rằng chúng ta không
cô đơn trong đau khổ, mà có Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta. Ngài chính là
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. (FM)
V.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, đã nói : Một khi được
nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. với ước muốn được chia
sẻ chén đắng với Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
- Hội thánh mời gọi
con cái mình cùng bước theo Chúa Giêsu trên con đường Thương Khó /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết can đảm vác thập giá
theo chân Chúa đến cùng.
- Trên thế giới
ngày nay / khuynh hướng thích hưởng thụ và ngại hy sinh rất phổ biến /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân phục vụ những
người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội.
- Con đường rộng
rãi thênh thang là con đường dẫn tới cái chết / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho các tín hữu / biết cố gắng sống theo con đường hẹp của Tin mừng /
để nhờ đó mà được sống đời đời.
- Tuần Thánh là tuần
lễ quan trọng nhất trong năm Phụng vụ / đặc biệt là Tam Nhật Vượt
Qua / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta /
biết cố gắng sắp xếp / để tham dự lễ nghi thật đông đảo và sốt sắng.
Chủ tế :
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương mà Chúa đã tự nguyện đón nhận cái chết trên thập
giá để cho chúng con được sống dồi dào. Xin Chúa cho chúng con luôn sống xứng
đáng với tình thương cao cả ấy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI.
Trong Thánh Lễ
– Trước
Kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha đến nỗi hạ mình chịu chết
và chết trên Thập Giá. Kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên
Thiên Chúa lời Kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
VII. Giải
tán
Chúng
ta đã chính thức bước vào tuần lễ thánh thiện nhất của Năm Phụng Vụ. Tuần này
chúng ta hãy cố gắng tham dự các nghi lễ Phụng vụ với tâm tình sẵn sàng chết với
Chúa để được sống lại với Ngài.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật Lễ Lá (C)
Chủ
Nhật 14 Tháng Tư, 2019
Cuộc
tử nạn của Chúa Giêsu:
Khi
tình yêu đi đến tột điểm
Lc
22:14-23,56
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Thánh Thần,
Đấng
đã được ban xuống thế gian bởi cái chết của Chúa,
xin
hãy hướng dẫn chúng con chiêm niệm và hiểu được
con
đường thập giá của Đấng Cứu Độ chúng con
và
tình yêu mà Người đã đi trên con đường này.
Xin
hãy ban cho chúng con đôi mắt và trái tim của những người thật sự tin vào Chúa,
Để
chúng con có thể cảm nhận được
Mầu
nhiệm vinh quang của thập giá.
“Nhờ
cây thập giá, qua đó chúng con không còn phải lang thang trong sa mạc,
Bởi
vì chúng con đã biết con đường chân chính;
Chúng
con không còn sống bên ngoài nhà của Thiên Chúa, Vua của chúng con,
Bởi
vì chúng con đã tìm thấy lối vào;
Chúng
con không còn sợ những ngọn giáo hung hăng của quỷ dữ,
Bởi
vì chúng con đã tìm thấy được suối nước.
Nhờ
Người, chúng con không còn đơn côi,
Bởi
vì chúng con đã tìm lại được người phối ngẫu;
Chúng
con không còn lo sợ thế gian,
Bởi
vì giờ đây chúng con đã tìm được vị Mục Tử Nhân Lành.
Nhờ
cây thập giá
Những
bất công của kẻ quyền thế không làm chúng con sợ hãi nữa,
Bởi
vì chúng con được ngồi vào cùng bàn với Đấng Quân Vương” (trích thánh Gioan Kim
Khẩu).
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bối
cảnh phụng vụ: truyền
thống cổ xưa của việc rao giảng Tin Mừng về cuộc Thương Khó và cái chết của
Chúa Giêsu Kitô trong dịp cử hành ngày Chúa Nhật trước lễ Phục Sinh, quay ngược
thời gian khi việc cử hành Tuần Thánh bị giảm tới mức tối thiểu. Mục
đích của bài đọc là để hướng dẫn người nghe chiêm niệm về mầu nhiệm cái chết để
chuẩn bị cho sự phục sinh của Chúa và vì thế, đó là điều kiện mà người tín hữu
tham gia vào “cuộc sống mới” trong Đức Kitô. Tập quán của việc đọc
bài Tin Mừng dài này chia thành nhiều đoạn, không những chỉ giúp cho bài đọc bớt
phần đơn điệu để tạo điều kiện cho việc chăm chú lắng nghe, mà cũng để bao gồm
cả cảm xúc thông phần của người nghe, gần như làm cho họ cảm thấy hiện diện và
dự phần trong bài tường thuật.
Hai
bài đọc trước bài Phúc Âm của Chúa Nhật tuần này giúp chúng ta với lời giải
thích đưa ra một quan điểm nhất định về văn bản: Người Tôi Tớ của Đấng
Gia-Vê là Đức Giêsu, Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng mà qua cái chết nhục
nhã của Người, đi vào vinh quang của Thiên Chúa Cha và thông hiệp chính sự sống
mình với những ai lắng nghe và tiếp nhận Người.
Bối
cảnh Tin Mừng: Ai
cũng biết rằng trọng tâm môi trường văn học mà các sách Tin Mừng được viết là Lễ
Vượt Qua của Chúa: cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của Người. Vì
vậy, chúng ta có ở đây một văn bản cổ đại và đồng nhất trong cấu trúc văn học của
nó, dù rằng nó đã được viết qua một quá trình từ từ. Tuy nhiên, tầm
quan trọng của nó thì tột bực: trong đó, chúng ta được biết sự kiện
căn bản của đức tin Kitô giáo, điều mà mọi tín hữu phải đối diện và tuân theo
(mặc dù văn bản phụng vụ của Chúa Nhật tuần này kết thúc với việc mai táng của
Chúa Giêsu).
Như
thường lệ, Luca chứng tỏ là một người kể chuyện hiệu quả và tinh tế, là người để
ý đến các chi tiết và có khả năng làm cho độc giả có ý niệm đại cương về cảm
xúc và động lực nội tâm của các nhân vật chính, hơn hết cả là Đức
Giêsu. Sự đau khổ khủng khiếp và bất công mà Chúa Giêsu gánh chịu được
gạn lọc qua thái độ bất di bất dịch của lòng thương xót đối với tất cả mọi người,
ngay cả những kẻ bắt bớ và sát hại Người. Một số những người này đã
xúc động vì cách Người đối diện với sự thống khổ và cái chết, đến nỗi mà họ cho
thấy dấu hiệu của niềm tin vào Người: sự đau khổ của cuộc thương khó
được trở thành dịu dàng bởi quyền năng tình yêu Thiên Chúa của Đức Giêsu.
Trong
bối cảnh của sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu đi vào Thành Thánh chỉ một lần: thời
điểm quyết định đối với lịch sử nhân loại của Đức Kitô và cho lịch sử ơn cứu độ. Toàn
bộ quyển sách Tin Mừng của Luca cũng giống như sự chuẩn bị lâu dài cho các sự
kiện vào những ngày cuối cùng mà Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, rao giảng và
hoạt động tại những thời điểm thậm chí một cách quy mô (đặc biệt là việc xua đuổi
những kẻ buôn bán trong Đền Thờ 19:45-48), vào những lúc khác thì một cách bí ẩn
hoặc trong một phong cách trêu chọc (đặc biệt là câu trả lời liên quan đến việc
nộp thuế cho Xêsarê, 20:19-26). Chẳng phải là việc tình cờ mà Thánh
Sử lại xếp đặt nhiều sự kiện và lời nói cùng với nhau trong những ngày cuối
cùng này trong khi các sách Phúc Âm Nhất Lãm khác thì đặt những nơi khác trong
đời sống công khai của Chúa Giêsu. Tất cả những điều này xảy ra
trong khi mưu đồ của các thượng tế trong xứ ngày càng phức tạp ly kỳ và trở nên
hiển nhiên hơn bao giờ hết, cho đến khi Giuđa cho họ một cơ hội bằng vàng và bất
ngờ (22:2-6).
Trong
giai đoạn cuối cùng và dứt khoát này của cuộc đời Chúa, vị Thánh Sử thứ ba đã sử
dụng các thuật ngữ khác nhau như “ra đi” hay là “cuộc xuất hành” (9:31), “đi
lên” (9:51) và “hoàn tất” (13:32). Do đó, thánh Luca hướng dẫn chúng
ta tìm hiểu, trước sự việc, làm thế nào giải thích cái chết khủng khiếp và nhục
nhã của Đức Kitô là Đấng mà họ đã giao phó cuộc đời họ: Người hoàn tất
một giai đoạn đau đớn và khó hiểu, nhưng “cần thiết” trong chương trình cứu rỗi
(9:22; 13:33; 17:35; 22:37) để mang lại thành công (“hoàn thành”) cuộc hành
trình của Người hướng tới vinh quang (xem 24:26;
17:25). Cuộc hành trình này của Đức Giêsu là khuôn mẫu cho cuộc hành
trình phải đạt được bởi mỗi môn đệ của Người (Cv 14:22).
b)
Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Câu
chuyện bữa tiệc ly: từ câu 22:7 đến câu 22:38;
Lời cầu
nguyện của Chúa Giêsu trong Vườn Giệtsêmani: từ câu 22:39 đến câu
22:46;
Việc
bắt giữ và quá trình tố tụng của người Do Thái: từ câu 22:47 đến câu
22:71;
Quá
trình xử án trước tổng trấn Philatô và vua Hêrôđê: từ câu 23:1 đến
câu 23:35;
Bản
án, việc đóng đinh và cái chết: từ câu 23:26 đến câu 23:49;
Các sự
kiện sau cái chết: từ câu 23:50 đến câu 23:56.
c)
Tin Mừng:
Câu chuyện bữa tiệc ly
14 Đến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười
hai tông đồ 15 và bảo các ông: “Thầy đã tha thiết ước ao
ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. 16Thầy bảo
các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện
trong nước Thiên Chúa”. 17 Rồi Người cầm chén, tạ ơn và
phán: “Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: 18 Thầy
bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên
Chúa đến!” 19 Đoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao
cho các ông mà phán: “Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc
này mà nhớ đến Ta”. 20 Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối,
Người cầm lấy chén mà phán: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các
con. 21 Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên
bàn này. 22Đành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng
vô phúc cho kẻ nộp Người!” 23 Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi
nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó.
24 Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh
giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. 25 Nhưng
Người bảo: “Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành
trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. 26 Phần các con,
thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ
nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. 27 Vì
người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế
mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. 28 Còn các
con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, 29 và
Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, 30 để
các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử
mười hai chi tộc Israel!”
31 Rồi Chúa nói: “Simon, Simon, này ma quỷ
đã đòi sàng các con như sàng gạo, 32nhưng Ta đã cầu nguyện để
con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững
tin”. 33 Ông thưa Người: “Lạy Thầy, con sẵn
sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết”. 34 Nhưng Người
đáp: “Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng
không biết Thầy”. 35 Và Người bảo các ông: “Khi Thầy sai
các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có
thiếu thốn sự gì không?” Các ông thưa: “Không thiếu gì cả”. 36 Vậy
Người nói: “Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như
vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. 37 Vì
Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm:
‘Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác’. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được
hoàn tất”. 38 Các ông thưa Người: “Thưa Thầy,
này có hai thanh gươm đây”. Và Người bảo: “Đủ rồi”.
Lời
cầu nguyện của Chúa Giêsu trong Vườn Giệtsêmani
39 Đoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như
thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. 40 Đến nơi, Người
bảo các ông: “Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. 41 Rồi
Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: 42 “Lạy
Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn,
một theo ý Cha”. 43 Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra
an ủi Người. 44 Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết
tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. 45 Cầu
nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang
ngủ vì buồn sầu. 46Người liền bảo: “Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu
nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”.
Việc
bắt giữ và quá trình tố tụng của người Do Thái
47 Người còn đang nói, thì này đây một lũ
đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu
để hôn Người. 48 Chúa Giêsu bảo hắn: “Giuđa, ngươi lấy cái
hôn để nộp Con Người ư?” 49 Thấy các sự sắp xảy ra, những
kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: “Thưa Thầy, chúng con có nên
dùng gươm mà chém không?” 50 Và một người trong các ông
chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. 51 Nhưng Chúa
Giêsu lên tiếng bảo: “Thôi, đủ rồi”. Và Người sờ vào tai người đầy tớ
ấy mà chữa cho y lành lại. 52 Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến
bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: “Các ngươi
cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? 53 Hằng
ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây
là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm”.
54 Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy
thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. 55Họ đốt lửa ngay giữa sân
và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. 56 Một đứa
đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: “Cả ông này cũng theo
hắn”. 57 Nhưng ông chối và nói: “Này chị, tôi
đâu quen biết người ấy”. 58 Một lát sau, có người khác
nhìn ông và nói: “Chính ông cũng là người trong bọn
đó”. Nhưng Phêrô đáp: “Này anh, đâu có phải tôi”. 59 Chừng
một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: “Đúng ông này cũng theo người ấy:
vì ông ta cũng là người xứ Galilêa”. 60 Phêrô đáp: “Này
anh, tôi không biết anh muốn nói gì?” Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền
gáy. 61 Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới
sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. 62Phêrô
liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
63 Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và
đánh đập Người. 64 Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người
rằng: “Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó”. 65 Và chúng còn thốt
ra nhiều lời khác nhục mạ Người.
66 Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các
thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà
nói: 67 “Nếu ông là Đấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay”.
Người trả lời: “Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, 68 và
nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. 69 Nhưng
từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. 70 Mọi
người đều hỏi lại: “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?” Người đáp: “Các
ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa”. 71 Bấy giờ họ nói:
“Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói”.
Quá
trình xử án trước tổng trấn Philatô và vua Hêrôđê
1 Đoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người
đến Philatô. 2 Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: “Chúng
tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và
còn tự xưng là Kitô Vua”. 3 Philatô hỏi Người: “Ông
là Vua dân Do Thái ư? Người trả lời: “Chính ngài nói đó.” 4 Philatô
bảo các thượng tế và đám đông rằng: “Ta không thấy người này có tội gì”. 5 Nhưng
họ cố nài rằng: “Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp
xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây”.
6 Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi
cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. 7 Và
khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê
cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. 8 Hêrôđê
thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe
nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. 9 Nhà
vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. 10 Trong
khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. 11 Còn
Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người
một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. 12 Chính
ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với
nhau.
13 Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế,
các thủ lãnh và dân chúng lại, 14 rồi bảo họ: “Các ngươi
đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra
xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội
các ngươi tố cáo. 15 Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì
ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết
cả. 16 Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi”.
18 Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng
thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: “Hãy giết người
này, và tha Baraba cho chúng tôi”. 19 Tên này vì dấy loạn
trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. 20 Nhưng
Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. 21 Nhưng
chúng càng la to hơn và nói: “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào
thập giá!” 22 Lần thứ ba, quan lại nói với dân
chúng: “Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để
lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi”. 23 Chúng
lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của
chúng càng dữ dội hơn. 24Philatô liền tuyên án theo lời chúng
yêu cầu. 25 Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy
loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó
để mặc ý chúng.
Bản
án, việc đóng đinh và cái chết
26 Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ
Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa
Giêsu. 27 Đám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người
phụ nữ khóc thương Người. 28 Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại
bảo họ rằng: “Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương
chính các ngươi và con cái các ngươi. 29 Vì này, sắp đến
ngày người ta sẽ than rằng: “Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không
sinh nở và những vú không nuôi con”. 30 Bấy giờ người ta sẽ
lên tiếng với núi non rằng: “Hãy đổ xuống đè chúng tôi”, và nói với các gò nổng
rằng: “Hãy che lấp chúng tôi đi”. 31Vì nếu cây tươi còn bị xử
như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?”
32 Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên
gian ác nữa đi xử tử. 33 Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ,
chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu
và một đứa bên tả Người. 34 Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
“Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Rồi
chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. 35 Dân chúng đứng đó
nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: “Nó đã cứu được
kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển
chọn
“. 36 Quân
lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống 37 và
nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”. 38 Phía
trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người
này là vua dân Do-thái”.
39 Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên
thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự
cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. 40 Đối lại, tên kia mắng nó
rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. 41Phần
chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã
làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?” 42 Và anh ta
thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. 43 Chúa
Giêsu đáp: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với
Ta”.
44 Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm
liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. 45 Mặt trời
trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa
Giêsu kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”. Nói đoạn,
Người trút hơi thở.
(Quỳ
gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
47 Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng
Thiên Chúa rằng: “Ông này quả thật là người công chính”. 48 Và
tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra,
liền đấm ngực trở về. 49 Đứng xa xa, có những kẻ quen biết
Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến.
Các
sự kiện sau cái chết
50 Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là
Giuse, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, người tốt lành và công
chính. 51 Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động
của các công nghị viên khác, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. 52 Ông
đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. 53 Đoạn ông hạ xác
Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác
ai. 54 Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày
Sabbát. 55 Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người
từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. 56 Rồi
các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbát, các bà nghỉ
theo đúng luật.
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để
cho Lời Chúa có thể thấm nhập vào lòng chúng ta và chiếu soi trên đời sống
chúng ta.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong phần suy gẫm và cầu nguyện cá nhân.
a) Vào cuối bài đọc dài này, những cảm giác
nào đang xâm chiếm hồn tôi: đó có phải là cảm giác thở ra nhẹ nhõm
vì bài đọc đã kết thúc, hay sự ngưỡng mộ đối với Chúa Giêsu, đau đớn cho nỗi
đau của Người, vui mừng vì ơn cứu độ đã hoàn thành, hay là cảm giác nào khác?
b) Tôi đọc lại bài đọc và đặc biệt chú ý đến
phương cách mà những “kẻ quyền thế” đã ứng xử: các kỳ lão, các Luật
Sĩ và Biệt Phái, tổng trấn Philatô, vua Hêrôđê. Tôi nghĩ gì về họ? Tôi
nghĩ mình sẽ suy nghĩ, hành động, nói năng và quyết định như thế nào nếu tôi ở
trong địa vị của họ?
c) Tôi đọc lại bài Thương Khó một lần nữa,
và lần này, chú ý đến hành vi của “những kẻ nhỏ bé”: các môn đệ, dân
chúng, những cá nhân, các người phụ nữ, những người lính và những người
khác. Tôi nghĩ gì về họ? Tôi sẽ hành xử, suy nghĩ và nói
năng như thế nào nếu tôi ở trong hoàn cảnh của họ?
d) Cuối cùng, tôi nhìn lại phong cách cư xử
trong đời sống hằng ngày của tôi. Tôi có thể nhận ra mình gần giống
với nhân vật chính hoặc nhân vật phụ nào không? Tôi muốn mình
được đồng hóa với nhân vật nào đây?
5.
Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề.
Lời bình luận về văn bản với sự nhấn mạnh
đặc biệt trên một số điểm chính:
22:14: Đến giờ, Chúa Giêsu vào bàn với mười hai
tông đồ: Mặc dù Luca đang viết cho một cộng đoàn
Kitô hữu hầu hết có nguồn gốc là dân ngoại, nhưng ông nhấn mạnh rằng bữa tiệc
ly của Chúa Giêsu là một phần nghi thức lễ vượt qua của người Do
Thái. Ngay trước bữa ăn, ông mô tả việc chuẩn bị (các câu 7-13).
22:15: Thầy đã ao ước được ăn lễ
Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn: Câu này gợi nhớ
lại lời trong chương 12:50: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và
lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (xem Ga
12:32). Luca cho chúng ta một tia sáng vào chiều kích nội tâm của
Chúa Giêsu khi Người đang chuẩn bị để chịu khổ nạn và chịu chết: điều
mà đã thúc đẩy Người là, cũng như luôn luôn đối với Người, sự chọn lựa triệt để
tuân theo thánh ý của Chúa Cha (xem 2:49), nhưng trong những lời này chúng ta
thấy thoáng qua có một sự mong mỏi rất con người vì tình huynh đệ, vì sự chia sẻ
và vì nghĩa bằng hữu.
22:17: Rồi Người cầm lấy chén, tạ
ơn: Nói đúng ra, chúng ta chưa hẳn đã tiến đến chén Thánh Thể,
mà chỉ đến bốn chén rượu đầu tiên được uống tại bữa ăn lễ vượt qua.
22:18: Thầy bảo cho các con biết: Thầy
sẽ không uống thứ rượu nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến: Đây
là điều ám chỉ rõ ràng lần thứ hai nói về cái chết gần kề của Người. Đó
là một sự lặp lại của lời công bố liên quan đến cuộc thương khó (9:22,44;
12:50; 18:31-32) và, giống như những lần khác, nó ám chỉ đến sự phục
sinh. Tuy nhiên, lời công bố, thậm chí ở thời điểm nghiêm trọng hơn
hết, vẫn chứa đựng những gợi ý cho sự hy vọng và niềm kỳ vọng cánh chung, cùng
với điều chắc chắn rằng Chúa Cha sẽ không bỏ rơi Người cho đến chết. Đức
Giêsu nhận thức được những gì Người phải đối mặt, nhưng lại khá thanh thản, nội
tâm thư thái, chắc chắn về số phận sau cùng của mình và về kết quả cuối cùng của
những gì Người sắp sửa trải qua.
22:19-20: câu chuyện về việc lập Phép
Thánh Thể thì khá tương tự như câu chuyện được nói đến ở trong thư của thánh
Phaolô (1Cr 11:23-25) và có một nhân vật hy sinh được nhắc tới: Đức
Giêsu hiến ban thân mình, không phải là tế vật, như một của lễ cho những ai tin
vào Người.
22:21: Ngay trên bàn này với Ta,
này tay kẻ đang nộp Ta: cùng ăn với Người, Chúa Giêsu cho phép
ngay cả Giuđa được tham gia vào việc hiệp thông với Người, nhưng Người biết rõ
rằng người môn đệ này sắp sửa nộp Người một cách thẳng tay. Sự tương
phản thì rất rõ ràng và được cố ý xếp đặt bởi Thánh Sử, cũng như ở những nơi
khác trong đoạn Tin Mừng này.
22:28: Các con đã kiên trì với Thầy
trong các gian nan của Thầy: không giống như Giuđa, các môn đệ
khác “đã kiên trì với Đức Giêsu trong lúc Người bị luận án”, bởi vì các ông đã ở
lại với Người ít ra là cho đến lúc này. Khi ấy, Chúa thừa nhận rằng
họ đã đạt đến cao điểm về sự hiệp thông với Người để xứng đáng được hưởng vinh
dự đặc biệt trong vinh quang của Chúa Cha (câu 29).
Sau
đó, chính Đức Giêsu đã tạo ra sự tương đương mật thiết giữa việc hiệp thông
liên tục của các môn đệ Người (cho những người bấy giờ và cho cả những người
ngày nay) với sự khổ nạn của Người và sự chia sẻ cuối cùng và vĩnh cửu trong
vinh quang của Người (“ăn và uống”, câu 30).
22:31-37: Simon,
Simon! Này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo; nhưng Ta đã cầu
nguyện để con khỏi mất đức tin: Đoạn này dường như được
trích từ một bối cảnh khác. Lời Chúa Giêsu nói về Satan và hành động
của Người đối với các môn đệ gợi nhớ lại những gì Thánh Sử đã nói liên quan đến
nguyên nhân gây ra sự phản bội của Giuđa (22:3) và gần như song song với quan
điểm của Luca về cuộc thương khó như là sự tấn công cuối cùng của Satan chống lại
Chúa Giêsu (xem 4:13; 22:53).
Ông
Phêrô thì được che chở khỏi cạm bẫy của những cám dỗ qua lời cầu nguyện của
chính Chúa Giêsu và bởi vì ông đã quyết tâm làm môn đệ Chúa, cũng bởi vì ông có
một sứ vụ đặc biệt đối với các anh chị em mình trong đức tin (câu
32b). Chúa Giêsu vội vàng cảnh báo ông: đối với ông, cũng
như đối với các môn đệ khác, cuộc thương khó khủng khiếp của Chúa Giêsu sẽ đòi
hỏi họ một cuộc chiến đấu khó khăn chống lại Satan và nhiều cuộc mai phục mà,
trong nhiều hình thức khác nhau, sẽ tấn công các môn đệ, những người sẽ được gần
gũi với Chúa Giêsu trong các giai đoạn khác nhau của cuộc thương khó (các câu
35-36) về sự việc của cuộc xử án kinh hoàng mà Người sẽ phải chịu đựng (câu
37); những lời cuối này một cách rõ ràng nói đến văn bản trong sách tiên tri Isaia
liên quan đến “Người Tôi Tớ phải đau khổ” (Is 53:12), Đấng mà Chúa Giêsu được
xác định rõ ràng.
22:33-34: Lạy Thầy… con sẵn sàng
theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết… Phêrô, Thầy bảo cho con biết,
hôm nay khi gà chưa gáy thì con sẽ chối Thầy ba lần rằng con không biết Thầy: Phêrô
là một người hào phóng, cũng là người thiếu kiên nhẫn, như chúng ta thấy trong
lời nói của ông, dường như để nài ép Chúa Giêsu nói cho ông biết về lời phủ nhận. Như
trong các câu 24-27, các thày cả của cộng đoàn Kitô hữu đã phải đối diện với
trách nhiệm của họ là “các tôi tớ” của đức tin các anh chị em giao phó cho họ,
cho nên giờ đây họ được nhắc nhở về nhiệm vụ của họ là phải cẩn trọng và cảnh
giác đối với bản thân và các khuyết điểm của mình.
22:39-46: câu chuyện về nỗi thống khổ
đạo đức-tinh thần trong vườn Giệtsêmani theo sát với văn bản của sách Tin Mừng
Máccô (14:32-42), ngoại trừ một số chi tiết, đặc biệt là những chi tiết đề cập
đến việc có thiên thần hiện ra an ủi Người (câu 43).
Thời
điểm khó khăn và nguy hiểm nhất trong đời của Người đang đến gần, Chúa Giêsu
tăng thêm lời cầu nguyện. Như Luca cho biết, vườn Giệtsêmani như
“thường lệ” (câu 37) là nơi mà Chúa Giêsu thường trú qua đêm (21:37).
22:47-53: cuộc thương khó thực sự bắt
đầu với việc bắt giữ Chúa Giêsu. Đoạn này trình bày các sự kiện sau
đây như là “giờ của quyền lực tối tăm” (câu 53) và cho thấy Chúa Giêsu như là Đấng
vượt qua và sẽ chiến thắng bạo lực bằng sự kiên nhẫn và khả năng yêu thương
ngay cả với những kẻ bách hại mình (câu 51); đó là lý do tại sao những lời buồn
bã nhưng yêu thương Chúa nói với Giuđa lại nổi bật lên: “Giuđa,
ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?” (câu 48).
22:54-71: Việc tố tụng của người Do
Thái không tiến triển trong đêm đó. Không có điều gì được nói về việc
Chúa Giêsu bị xem như là tù nhân cho đến buổi sáng. Việc thiếu các
tin tức liên quan đến Chúa Giêsu trong thời gian ngay sau khi bị bắt cho đến
khi bắt đầu vụ án là sự tiêu biểu Phúc Âm Luca.
22:60-62: Phêrô đáp: “Này anh, tôi
không biết anh muốn nói gì”… Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô và Phêrô
mới sực nhớ lời Chúa Giêsu đã bảo… Và Phêrô liền ra ngoài khóc lóc
thảm thiết: hai ánh mắt nhìn chạm nhau, ai mà biết bằng cách nào
chúng đã xảy ra trong lúc bối rối của đêm đen vô tận ấy, đánh dấu thời khắc khi
Phêrô trở nên ý thức: bất kể lời tuyên bố dũng cảm về lòng trung
thành của mình, ông nhận ra những gì Đức Giêsu đã bảo cho ông biết trước đó
không lâu. Trong cái nhìn ấy, Phêrô trực tiếp trải nghiệm lòng
thương xót của Chúa mà ông đã được nghe Đức Giêsu nói đến: nó không dấu diếm được
thực tế của tội lỗi, nhưng chữa lành và đem người ta trở lại một nhận thức đầy
đủ về tình trạng của họ và về tình yêu của Thiên Chúa dành riêng cho họ.
22:70-71: Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?…
Các ông nói đúng Ta là Con Thiên Chúa… Chúng ta còn cần chứng cớ chi
nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói: việc tố tụng của
người Do Thái chính thức bắt đầu vào tảng sáng của ngày hôm đó (câu 66) và tập
trung vào việc tìm kiếm chứng cớ (có một số sự thật, trong sách Luca, nhưng có
thể xem trong sách Máccô 14:55-59) để đưa ra bản án tử hình cho Chúa
Giêsu. Sau đó, theo Tin Mừng Luca, các thượng tế người Do Thái đã
không trưng ra những lời chứng dối, nhưng – ngay cả trong ác cảm dã man của họ
đối với Chúa Giêsu – họ cư xử với Người trong một phong cách có phần nào hợp
pháp.
Để trả
lời một cách tích cực cho câu hỏi “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư”, Chúa Giêsu cho
thấy rằng Người hoàn toàn ý thức về phẩm giá thiêng liêng của mình. Qua sự
nhận thức này, nỗi đau khổ, cái chết và sự phục sinh của Người là chứng tá hùng
hồn cho ý muốn nhân từ của Chúa Cha đối với nhân loại. Tuy nhiên,
như vậy Người “ký tên” vào chính bản án tử hình của mình: đó là một
sự báng bổ làm ô uế Danh Thánh và rất Đấng Gia-Vê bởi vì Người dõng dạc tuyên bố
một cách rõ ràng là “Con Thiên Chúa”.
23:3-5: “Ông là Vua dân Do Thái
ư?… Chính ngài nói đó… Người này đã làm náo động
dân chúng với lời giảng dạy của ông ta: chúng ta đang chuyển từ
một tiến trình pháp lý của người Do Thái sang của người La Mã: các
trưởng lão người Do Thái giao nộp người bị kết án cho quan tổng trấn để ông ta
có thể thi hành bản án và, để trình cho quan một lý do khả tín, họ “khai thác”
các vận động về bản án của họ, trình bày chúng trong màu sắc chính trị. Như
vậy, Chúa Giêsu bị tố cáo như người làm náo động dân chúng và toan tính lật đổ
vương triều nhà Israel (mà lúc ấy chỉ là một dĩ vãng và hoàn toàn hư danh).
Các
phương cách được dùng bởi Chúa Giêsu để thực hiện tội ác của Người, như có cơ hội,
là lời giáo huấn của Người: những lời của sự hòa bình và lòng thương
xót mà Người lan truyền rộng rãi giờ đây được sử dụng để chống lại Người!
Chúa
Giêsu xác nhận lời buộc tội, nhưng có điều chắc chắn rằng Người đã không bị buộc
tội về việc mưu đồ tìm kiếm vị thế hoàng tộc, mà chỉ là một trong những phản ảnh
về bản tính Thiên Chúa của mình. Tuy nhiên, về điều này thì chính
Philatô hoặc những kẻ khác cũng không thể hiểu được.
23:6-12: Quan liền sai giải Người
cho Hêrôđê: Có lẽ qua trực giác Philatô cảm nhận rằng họ đang cố
gắng chơi một “thủ thuật bẩn” với ông, vì vậy ông ta có lẽ cố gắng lánh xa phạm
nhân bằng cách viện dẫn việc tôn trọng thẩm quyền: Chúa Giêsu đến từ
một xứ, mà vào lúc thời điểm lịch sử đó, không thuộc trách nhiệm của người La
Mã mà thuộc về vua Hêrôđê Antipát.
Vua
Hêrôđê thì được trình bày trong các sách Phúc Âm như một người khá mơ hồ: ông
ta ngưỡng mộ và cùng lúc lại có ác cảm với Gioan Tiền Hô, bởi vì vị tiên tri
này đã lên tiếng khiển trách về tình trạng hôn nhân của ông ta, đó là tình trạng
bất thường và gần như là loạn luân, và cuối cùng thì vị tiên tri đã bị bắt và
sau đó bị xử tử như để không phải chặt đầu một nhân vật bất hạnh trước mặt các
quan khách dự tiệc (3:19-20; Mc 6:17-29). Sau đó ông ta ao ước gặp gỡ
Đức Giêsu vì tính hiếu kỳ, bởi vì ông ta đã nghe nói về tiếng tăm của Chúa như
người làm nhiều phép lạ, và ông ta dàn dựng chuyện tố tụng chống lại Người (câu
10). Vua đích thân tra hỏi Chúa Giêsu, nhưng khi ấy – trước sự im lặng
bướng bỉnh của Chúa Giêsu (câu 9) – đã bỏ mặc Người cho sự nhạo báng của các
quân lính, như đã xảy ra vào đoạn cuối của cuộc thượng hội đồng (22:63-65) và
như sẽ xảy ra khi Chúa Giêsu bị đóng đinh (các câu 35-38). Cuối cùng
nhà vua gởi trả Chúa Giêsu lại cho Philatô.
Luca
kết thúc cảnh này với một ghi chú thú vị: Philatô tỏ cử chỉ bắt đầu tình
bạn hữu với Hêrôđê. Những chi tiết tình huống nói lên một cách rõ
ràng về sự trong sáng của động lực cho tình bằng hữu này.
23:13-25: Các ngươi đã nộp cho ta
người này… như một kẻ xúi giục; …ta không thấy người này phạm tội
nào trong những tội các ngươi tố cáo: như ông ta đã nghi ngờ từ
buổi gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu (câu 4) và như ông sẽ lặp lại sau đó (câu
22), Philatô tuyên bố Người vô tội. Ông ta cố gắng thuyết phục các
trưởng lão và dân chúng hãy tha cho Chúa Giêsu, nhưng họ đã quyết định rằng Người
phải chết (các câu 18, 21, 23) và khăng khăng về bản án tử hình.
Bản
chất cuộc thẩm vấn của quan tổng trấn là gì? Không nhiều, theo như một
ít câu nói mà Luca thuật lại (câu 3). Tuy nhiên, Chúa Giêsu trả lời một cách
tích cực cho Philatô, tuyên bố mình là “vua dân Do Thái”! Vào lúc
này, rõ ràng là Philatô đã không coi Chúa Giêsu như là một người nguy hiểm cho
lãnh vực chính trị, cũng chẳng cho trật tự công cộng, có lẽ bởi vì phong thái lời
tuyên bố của Chúa Giêsu đã cho thấy là không có gì nghi ngờ về những lãnh vực
này.
Mục
đích của Thánh Sử thì khá rõ ràng trong đó ông tìm cách làm giảm bớt trách nhiệm
của quan tổng trấn La Mã. Tuy nhiên, sau đó dựa theo các dữ liệu lịch
sử thì được biết ông ta là “một người không nhân nhượng và, ngoài tính kiêu ngạo,
khó khăn thì ông ta chỉ có khả năng tống tiền, bạo lực, cướp bóc, tàn bạo, tra
tấn, hành quyết không cần xử án, đáng sợ và độc ác vô hạn” (Philo Alexandria)
và rằng “ông ta ưa khiêu khích các dân tộc được trao phó cho ông ta, đôi khi bằng
sự thô lỗ và vào những thời điểm khác thì bằng cách trấn áp hà khắc (Josephus
Flavius).
23:16,22: Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi
tha đi… : thực tế là Đức Giêsu đã được xem như là vô tội
đáng lẽ được tha khỏi bị “sự trừng phạt” nặng nề, bắt phải chịu như vậy chẳng
qua là để không làm thất vọng các trưởng lão người Do Thái.
23:16,18,25: Hãy giết nó đi! Và
tha Baraba cho chúng tôi! Quan phóng thích người đã bị cầm tù vì dấy
loạn và giết người, và trao Chúa Giêsu cho chúng để mặc ý chúng: cuối
cùng, Philatô hoàn toàn nhượng bộ trước lời kêu cầu van lơn của các trưởng lão,
cho dù quan không hề tuyên bố một bản án chính thức nào về Chúa Giêsu.
Baraba,
một tên thực sự phạm pháp và dấy loạn chính trị, vì thế trở thành kẻ thứ nhất
được cứu rỗi (ít ra là vào thời điểm đó) bởi sự hy sinh của Chúa Giêsu.
23:26-27: Họ bắt một người xứ
Xyrênê, tên là Simon, ở ngoài đồng về, và chúng bắt ông vác thập giá theo sau
Chúa Giêsu. Đám đông dân chúng đi theo Người, có cả mấy người phụ nữ
khóc thương Người: Simon và những người phụ nữ không chỉ là những
người được ưu tiên làm nhân chứng về cuộc thương khó, mà trong sách Tin Mừng
Luca, họ còn là những mẫu mực cho tình đồ đệ, những người cho độc giả thấy cách
để đi theo Chúa trong hành động. Ngoài ra, nhờ họ và nhờ đám đông dân
chúng, Chúa Giêsu đã không cô độc khi Người tiếp cận với cái chết, mà được bao
quanh bởi những người thân cận sâu xa và tình cảm gắn bó với Người, dù rằng họ
cần phải hoán cải, một vấn đề mà Người nhắc nhớ họ mặc dù tình trạng khủng khiếp
của Người (các câu 28-31).
Simon
xứ Xyrênê đã “bị bắt”, nhưng Luca không nói rằng ông đã ngại ngùng để giúp Chúa
(xem Mc 15:20-21).
“Đám
đông dân chúng” thì cũng khá tham gia vào những gì đang xảy ra cho Chúa
Giêsu. Điều này tương phản gay gắt với đàm đông mà, trước đó không
lâu, đã đòi hỏi Philatô tuyên án tử hình Chúa.
23:34: Lạy Cha, xin tha cho
chúng; vì chúng không biết việc chúng làm: Luca cho thấy mối
quan tâm chính của Chúa chịu đóng đinh, Đấng mặc dù đang trong cơn đau đớn thể
xác cách dã man bởi việc đóng đinh vào thập giá, đã cầu nguyện với Chúa Cha cho
họ: Người đã không màng tới tình trạng của chính mình hay là tới những
nguyên nhân lịch sử đã tạo ra tình trạng ấy, mà chỉ chú trọng tới sự cứu rỗi của
cả nhân loại. Thánh Stêphanô tử đạo sẽ hành động giống như Ngài (Cv
7:60), để cho thấy đặc tính kiểu mẫu về sự sống và cái chết của Đức Giêsu vì sự
tồn tại của mọi Kitô hữu.
Để nhấn
mạnh đến xu hướng mạnh mẽ này của Chúa Giêsu, Luca bỏ qua tiếng than ai oán được
ghi lại qua các sách Phúc Âm Nhất Lãm khác: “Lạy Chúa con, lạy Chúa
con, sao Chúa đành bỏ rơi con?”
23:33,39-43: Chúng đóng đinh Người vào
thập giá cùng với hai tên trộm cướp… Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin Ngài
hãy nhớ đến tôi… Quả thật, Ta bảo ngươi… ngay hôm nay,
ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta: cuộc đối thoại với một trong
hai kẻ đồng chịu án của mình là một sự tiêu biểu phương cách thánh Luca hiểu biết
về cái chết của Đức Giêsu: một hành động tự hiến mình cho tình yêu
và trong tình yêu để mang lại ơn cứu độ cho vô số người bất kể trong điều kiện
hoặc tình huống nào của họ.
“Ngay
hôm nay” (câu 43): tên trộm nói về việc trong tương lai, nhưng Chúa
Giêsu lại trả lời bằng cách dùng động từ trong thì hiện tại: ơn cứu
độ Người ban cho thì ngay lập tức, “ngày sau hết” bắt đầu với sự kiện cứu rỗi
này.
“Ngươi
sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (câu 43): câu nói này cho thấy sự hiệp
thông hoàn toàn mạnh mẽ giữa Chúa và những ai mà chính Ngài đón tiếp vào cõi đời
đời (xem 1Tx 4:17). Theo một số các ngụy thư của cuối thời kỳ Do
Thái, chính Đấng Cứu Thế đã “mở cửa thiên đàng”.
23:44-46: Lúc đó vào khoảng giờ thứ
sáu… Chúa Giêsu kêu lên lớn tiếng rằng: Lạy Cha, Con phó linh hồn
Con trong tay Cha. Nói đoạn, Người trút hơi thở: những
lời cuối cùng của Chúa Giêsu, bởi bản chất tốt đẹp của nó, dường như tương phản
với những lời Người kêu lớn tiếng trước đó.
Đi dần
đến kết thúc cuộc đời làm người của mình, Chúa Giêsu, làm một cử chỉ lúc lâm
chung tin cậy vào Chúa Cha, Đấng vì vâng theo ý muốn mà Người đã chịu nhiều đau
khổ. Trong những lời này, chúng ta có thể thoáng thấy một gợi ý về sự
sống lại: Chúa Cha sẽ trao lại Người sự sống này mà Chúa Giêsu bây
giờ phó thác nơi Chúa Cha (xem Tv 16:10; Cv 2:27; 13:35).
Thánh
Luca đã viết một cách rất chính xác về những khoảnh khắc cuối cùng của Chúa
Giêsu: ông không quan tâm ở những chi tiết mà sẽ đem đến sự thỏa mãn
cho một số lòng hiếu kỳ ma quái, giống như điều mà đã thu hút và vẫn còn thu
hút rất nhiều khán giả vào lúc hành quyết tại nhiều quảng trường trên thế giới.
23:47-48: Khi thấy sự việc xảy ra,
viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: “Ông này quả thật là người
công chính”. Và tất cả dân chúng… đấm ngực trở về nhà: hiệu
quả ơn cứu chuộc về sự hy sinh của Chúa Giêsu tác động gần như ngay lập tức đơn
thuần dựa trên bằng chứng về những gì đã xảy ra: dân ngoại (như viên
đội trưởng chỉ huy trung đội phụ trách việc hành hình), dân Do Thái (đám đông
dân chúng) bắt đầu thay đổi. Viên sĩ quan “ca tụng Thiên Chúa” và có
vẻ như là chỉ cần một bước nữa thì sẽ trở thành một Kitô hữu. Dân
chúng Do Thái, có lẽ đã không có ý thức, đã trở về bằng cách sử dụng cử chỉ của
sự ăn năn như Chúa Giêsu đã yêu cầu những người phụ nữ thành Giêrusalem (câu
38).
23:49: Đứng xa xa, những kẻ quen
biết Người cũng đã chứng kiến: từ một khoảng cách thận trọng, biết
rằng thái độ người La Mã cấm ngặt những cử chỉ than khóc tang chế cho những kẻ
bị kết án phải chịu đóng đinh (đau đớn vì chính mình bị đóng đinh), nhóm các
môn đệ hiện diện chết lặng vì toàn bộ khung cảnh. Luca không đưa ra
một gợi ý nào về cảm xúc hoặc thái độ của các ông: có lẽ sự đớn đau
và cảnh bạo hành đã làm họ choáng váng đến độ khiến cho các ông không còn có khả
năng phát tiết ra bên ngoài bất kỳ một phản ứng nào.
Tương
tự như vậy, những người phụ nữ môn đệ đã không tham dự vào bất kỳ việc nào
trong việc mai táng Chúa Giêsu của ông Giuse Arimathia: họ chỉ đứng
nhìn (câu 55).
23:53: Ông Giuse hạ xác Chúa
Giêsu xuống khỏi thập giá, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục
sẵn trong núi đá: Chúa Giêsu đã thực sự trải qua cuộc tra tấn. Chúa
thực sự đã chết, cũng giống như nhiều người khác trước và sau Người, trên thập
giá, trong một thân xác thông thường. Sự kiện này, nếu không xảy ra
thì sẽ không có ơn cứu rỗi hay sự sống đời đời cho bất cứ ai, được xác nhận bởi
thực tế rằng cần phải chôn cất Người. Điều này đúng đến nỗi mà Luca
thêm vào một số chi tiết liên quan đến tốc độ mà nghi thức mai táng được thực
hiện bởi ông Giuse (các câu 52-54).
23:56: Vào ngày Sabbát, các bà nghỉ lễ
như Luật truyền: như Đấng Tạo Hóa nghỉ ngơi và ngày thứ bảy của việc
sáng tạo, do đó ngày Sabbát được thánh hóa (St 2:2-3), vì vậy giờ đây Chúa nghỉ
lễ ngày Sabbát trong mồ.
Giờ
đây, không có một người nào của Chúa dường như có thể hy vọng được bất cứ điều
gì: Lời của Chúa Giêsu liên quan đến sự sống lại dường như đã bị
lãng quên. Những người phụ nữ tự giới hạn mình trong việc chuẩn bị một
số dầu và thuốc thơm dành cho việc chôn cất Chúa một cách trang nghiêm hơn.
Tin Mừng
về “Ngày Chúa Nhật Thương Khó” này kết thúc ở đây, bỏ lại câu chuyện về việc
khám phá ra ngôi mộ trống (24:1-12) và để cho chúng ta thưởng thức sự hy sinh
cay đắng ngọt ngào của Chiên Thiên Chúa, chúng ta ở lại trong tình trạng đau buồn
và hụt hẫng nơi mà chúng ta còn đắm mình, dù rằng chúng ta biết rõ kết quả cuối
cùng của câu chuyện Tin Mừng. Cái chết kinh hoàng của vị thày cả trẻ
làng Nagiarét không làm mất đi ý nghĩa về sự phục sinh của Người, nhưng thu được
một giá trị hoàn toàn mới mẻ và bất ngờ, mà không lấy đi bất cứ điều gì từ chiều
kích của việc đã bị giết chết trong sự tự nguyện hy sinh được chấp nhận bởi vì
việc tôn trọng “cách quá mức” cho quyền hạn hiểu biết của loài người chúng
ta: đó là thuần khiết mầu nhiệm.
6.
Cầu Nguyện với sách Tiên Tri Isaia 50:4-10
“Chúa
là Thiên Chúa phù trợ tôi”
ĐỨC
CHÚA là Chúa Thượng
đã cho tôi nói năng như một người môn đệ,
để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!
Này, có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Này, tất cả chúng sẽ mục đi như chiếc áo, và sẽ bị mối ăn.
Ai trong các ngươi kính sợ ĐỨC CHÚA,
nghe theo tiếng tôi tớ của Người,
ai đi trong bóng tối, không một tia sáng nào chiếu rọi,
hãy tin tưởng vào danh ĐỨC CHÚA
và tìm nương tựa nơi Thiên Chúa mình thờ.
đã cho tôi nói năng như một người môn đệ,
để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!
Này, có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Này, tất cả chúng sẽ mục đi như chiếc áo, và sẽ bị mối ăn.
Ai trong các ngươi kính sợ ĐỨC CHÚA,
nghe theo tiếng tôi tớ của Người,
ai đi trong bóng tối, không một tia sáng nào chiếu rọi,
hãy tin tưởng vào danh ĐỨC CHÚA
và tìm nương tựa nơi Thiên Chúa mình thờ.
7.
Lời Nguyện Kết
Trích
từ Kinh nguyện Thánh Thể cho Chúa Nhật tuần này
Lạy
Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, Chúa ban cho loài người chúng con Chúa Giêsu
Kitô Đấng Cứu Độ chúng con như một mẫu mực của đức khiêm nhường. Người
đã chu toàn thánh ý Chúa bằng cách xuống thế làm người và hiến ban mạng sống
Người trên thập giá. Xin cho chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng
cách noi gương sự khổ nạn của Chúa Giêsu và làm cho chúng con thông phần vinh
quang phục sinh với Người.



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét