14/04/2019
Chúa Nhật Lễ LÁ năm C
(phần II)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật Lễ Lá, Năm C
Bài đọc: (Làm phép lá: Lk 19:28-40); Isa 50:4-7; Phi
2:5-11; Lk 22:14-23:56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vinh quang đạt
được qua con đường đau khổ
Không
ai muốn chấp nhận con đường đau khổ; nhưng chỉ có con đường này mới dẫn con người
tới chỗ vinh quang. Đường rộng rãi thênh thang sẽ chỉ đưa con người tới chỗ bị
hủy diệt. Các lực sĩ thế vận hội sẽ không thể thắng huy chương nếu không qua tiến
trình rèn luyện. Trên bước đường thiêng liêng, con người cũng phải trải qua một
tiến trình tương tự; nhất là phải được thử thách bằng đau khổ, để minh chứng đức
tin vững mạnh của họ vào Thiên Chúa. Thánh Phaolô và tục ngữ Việt-nam đã từng
xác tín: “lửa thử vàng, gian nan thử nhân đức.” Người nhân đức là người đã trải
qua một tiến trình luyện tập, đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ, và giờ đây trở
nên hoàn thiện.
Các
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của
Đấng Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người
Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba; mục đích là để Ngài cảm thông và
an ủi những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa
Giêsu phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang mà
Thiên Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Trong Phúc Âm, Lucas tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu; mục đích của
Cuộc Thương Khó là để Ngài gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ
cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Bài ca thứ ba về Người
Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ.
1.1/ Người
Tôi Trung chịu đau khổ vì tin vào Thiên Chúa: Là con người ai, cũng sợ đau khổ; nhưng sở dĩ có những
người dám can đảm để chịu đau khổ, vì họ có một niềm tin vững chắc vào hậu quả
sẽ đạt tới; chẳng hạn, huy chương cho các lực sĩ, sự giải thoát của Thiên Chúa
cho con người. Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, Ngài tuyên xưng: “Tôi
đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không
che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ;” vì Ngài tin: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng
phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi
biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Thiên Chúa sẽ giải thoát và ban cho Ngài được
vinh quang tuyệt đỉnh; đồng thời, vì sự đau khổ của Ngài mà muôn dân được giải
thoát khỏi tội và được sống.
1.2/ Người
Tôi Trung biết nâng đỡ những ai chịu đau khổ: Không những chỉ lãnh nhận huy chương sau cuộc đua, người
lực sĩ còn có những phần thưởng khác kèm theo: sức khỏe dẻo dai, ý chí kiên cường
… Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, ngoài việc được tuyên dương bởi Chúa
Cha, Ngài còn có thể nâng đỡ những ai đang phải chịu đau khổ. Ngài nói: “Đức
Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời
nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để
tôi lắng nghe như một người môn đệ.”
2/ Bài
đọc II: Đức Giêsu Kitô trải
qua đau khổ để đạt tới vinh quang.
2.1/ Đức
Kitô khiêm nhường chịu đau khổ: Thế gian luôn cám dỗ con người bằng danh dự và uy quyền; nhưng
Thánh Phaolô dùng gương của Chúa Giêsu chịu đau khổ để khuyên bảo các tín hữu
Philipphê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức
Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây Thập Tự.”
Ngài
là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình chấp nhận một thân thể như con người. Điều này
làm người Hy-lạp không thể hiểu nổi, vì trong khi họ đang tìm cách thoát ra khỏi
thân xác mà họ coi là ngục tù của linh hồn; thì Chúa Giêsu lại muốn bị giam hãm
trong một thân xác để nên giống con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn có uy quyền
tuyệt đối của Thiên Chúa để dẹp tan các đau khổ; nhưng Ngài tự nguyện theo con
đường của Chúa Cha, chấp nhận chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người.
2.2/
Thiên Chúa đã siêu tôn Đức Kitô: Vì không một ai khiêm nhường, vâng lời, hy sinh chịu đau khổ như
Chúa Giêsu; nên như một hậu quả, không ai được hưởng vinh quang như Ngài. Thánh
Phaolô xác tín: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả
trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh
Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là
Chúa.””
Chúa
Giêsu và Thánh Phaolô cũng dùng gương sáng này để dạy các môn đệ và các tín hữu:
“Ai trong các con muốn làm lớn nhất, hãy trở nên rốt hết và phục vụ mọi người”
(Lk 22:26). “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng
vinh quang với Người.” (Rom 8:17b).
3/
Phúc Âm: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo thánh Luke
Mỗi
tường thuật về Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu mang một sắc thái riêng biệt tùy
vào sự nhấn mạnh của mỗi thánh sử: Trong Marcô, Chúa Giêsu dường như người bị bỏ
rơi bởi Thiên Chúa và các môn đệ. Matthew muốn nhấn mạnh đến Kế hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa, mọi sự xảy ra là để làm tròn lời Kinh Thánh đã chép về Ngài. John
muốn nêu bật sự biết trước và sự can đảm của Chúa Giêsu trước những biến cố xảy
ra. Luke muốn mời độc giả cùng đồng hành với Chúa Giêsu, như Simon Cyrene cùng
vác Thập Giá với Ngài. Độc giả có thể nhận ra sự yếu đuối của mình và hy vọng
được tha thứ vì lòng thương xót của Chúa, qua sự sa ngã và trở lại của Phêrô và
người trộm lành. Có nhiều điểm tương đồng giữa Luke và John trong trình thuật về
Cuộc Thương Khó đến nỗi C. Stuhmueller cho trình thuật của Luke gần với trình
thuật của John hơn là của Mark và Matthew (x/c The JBC, 156).
3.1/ Chuẩn
bị Cuộc Thương Khó:
(1) Lễ
Vượt Qua rơi vào ngày 14 tháng tư (Nissan). Lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày
sau Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua là một trong 3 lễ chính của người Do-thái. Các người
Do-thái nam, đã đến tuổi trưởng thành, và sống trong khoảng 15 dặm của
Jerusalem, phải lên Đền Thờ để mừng Lễ Vượt Qua. Luật ngày Sabbath được áp dụng
cho các lễ này. Các thượng tế và kinh sư có lý do để lo sợ, vì dân chúng tụ họp
rất đông ở Jerusalem trong ngày Lễ Vượt Qua. Các thượng tế và kinh sư thường phải
cầu viện với quân đội Roma để tăng cường an ninh trong những ngày này; nhất là
tại cứ điểm Antonia Fortress, cạnh Đền Thờ. Theo sử gia Josephus, dân chúng có
thể lên tới 2, 3 triệu người, cứ 10 người phải sát tế một con chiên. Lễ Vượt
Qua có lịch sử trong biến cố Xuất Hành của dân Do-thái ra khỏi Ai-cập. Trong
đêm đó, sứ thần của Thiên Chúa vào nhà tàn sát tất cả các con đầu lòng của người
Ai-cập; nhưng nhà nào có máu chiên bôi trên cửa, các sứ thần đã băng ngang qua
và không vào tàn sát.
Trong
Kế Hoạch Cứu Độ, Thiên Chúa cũng muốn dùng chính ngày Lễ này, để bắt đầu một Lễ
Vượt Qua mới: ngày Chúa Giêsu sẽ từ giã cuộc đời này mà về lại với Chúa Cha;
ngày toàn dân Thiên Chúa được cứu thoát khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết,
nhờ máu Con Chiên là Chúa Giêsu Kitô đổ ra để chuộc tội cho nhân loại, và đưa họ
về cho Thiên Chúa.
(2)
Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ: “Khi giờ đã đến, Đức Giêsu vào
bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. Người nói với các ông: “Thầy những khát
khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy
nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến
khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.” Rồi Người nhận
lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. Bởi vì, Thầy
bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho
đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến.”
Hai
câu 15-16 chỉ tìm thấy trong Luke. Chúa Giêsu biết sẽ có ngày này và hằng mong
mỏi để ăn Lễ Vượt Qua với tất cả các Tông-đồ. Luke có lẽ muốn nhấn mạnh tới
khía cạnh toàn vẹn trong tương lai của Nước Thiên Chúa, khi Chúa Giêsu cùng ngồi
ăn với các Tông-đồ và mọi người cách hữu hình trong Nước của Cha Ngài. Đây có lẽ
tương ứng với ly thứ nhất, là ly chúc tụng (Quiddush) trong ba ly rượu
mà người Do-thái có thói quen làm trong Lễ Vượt Qua.
(3)
Chúa Giêsu lập Bí-tích Thánh Thể: “Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ
ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy
làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng
làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì
anh em.”
Ly thứ
hai (Haggadah) là ly nhắc lại những gì xảy ra trong biến cố Xuất Hành.
Trong bối cảnh của Lễ Vượt Qua cũ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài hiểu những
gì sắp xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới. Giống như các ngôn sứ của Cựu Ước phải
dùng biểu tượng và hành động, khi dân chúng đã quá quen và không còn hiểu được
những gì Thiên Chúa muốn dạy dỗ qua các ngôn sứ nữa; chẳng hạn, Ahijah đã xé
chiếc áo ra 12 mảnh và cho Vua Jeroboam 10 mảnh tượng trưng cho 10 chi tộc muốn
Vua là người lãnh đạo của họ (1 Kgs 11:29-32), hay tiên-tri Jeremiah làm xiềng
xích và gông cùm đeo vào người để cho dân biết những điều như vậy sẽ xảy đến
cho dân trong tương lai (Jer 27:2). Chúa Giêsu cũng dùng hai biểu tượng của Lễ
Vượt Qua cũ để các tông đồ hiểu những gì xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới:
* Giống
như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra như vậy
cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn cuối bữa ăn (ly thứ ba, Hallel),
Máu Ta cũng sẽ bị đổ ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội.
*
Giao ước cũ Thiên Chúa thiết lập với dân là Giao-ước Sinai (Exo 24:3-8). Theo
Giao-ước này, Thiên Chúa sẽ săn sóc và bảo vệ dân như dân của Ngài, phía người
Do-thái, họ phải giữ cẩn thận Thập Giới. Vì người Do-thái đã vi phạm Giao-ước
cũ bằng việc không giữ các Lề Luật, nên Chúa Giêsu phải thiết lập với dân một
Giao-ước mới; theo Giao-ước mới này, Máu của Chúa Giêsu phải đổ ra để chuộc tội
cho con người. Họ không còn tùy thuộc vào Lề Luật để được sự săn sóc của Thiên
Chúa; nhưng hoàn tòan tùy thuộc vào tình yêu của Ngài, đặt căn bản trên Máu của
Chúa Giêsu sắp đổ ra.
Khi
nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết,
nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá,
nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài
cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ. Lời khuyên của Chúa
Giêsu cho các Tông-đồ: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” chỉ có
trong Luke và Thư Corintô 1 (I Cor 11:23-25). Giống như người Do-thái cử hành Lễ
Vượt Qua hàng năm để nhớ lại tình thương của Thiên Chúa dành cho họ và khuyên
nhủ nhau biết đáp trả tình thương Thiên Chúa; người tín hữu cũng phải tụ họp
nhau để than dự Lễ Bẻ Bánh và nhắc nhở cho nhau biết sống xứng đáng với tình
yêu hy hiến mà Đức Kitô đã dành cho họ.
(4) Lời
tiên đoán phản bội:
+ của
Judah: “Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy. Đã hẳn
Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người.” Các Tông
Đồ bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy. Các
ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất.”
– Phản
ứng của Chúa Giêsu: Rất can đảm và tự tin nơi kế hoạch của Thiên Chúa. Ngài có
thể chỉ rõ Judah là người toan tính phản bội, hắn sẽ không thoát khỏi bàn tay của
các tông-đồ khác, và Ngài sẽ thoát khỏi kế hoạch của hắn. Nhưng Chúa Giêsu
không tố cáo Judah, Ngài cho hắn cơ hội để trở lại; nhưng Judah có tự do và đã
chọn để làm ngơ trước lời cảnh cáo của Ngài: “Đã hẳn, Con Người sẽ ra đi theo
như lời đã chép về Người; nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng
sinh ra thì hơn!”
– Phản
ứng của các môn đệ: Các Tông-đồ tuy có bàn tán về “kẻ phản bội” nhưng tranh luận
sôi nổi hơn về đề tài “ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất.” Đề tài thứ
hai này được tường trình trong lần tiên báo thứ hai hay thứ ba về Cuộc Thương
Khó (Mk 10:41-45; Mt 19:28, 20:25-28). Đức Giêsu bảo các ông: “Vua các dân thì
dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng
anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên
như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ,
giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế
mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ. Còn anh em, anh em vẫn
một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế,
Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được
đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai
chi tộc Israel.”
+ của
Phêrô: Rồi Chúa nói: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh như người
ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần
anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.”
Phêrô
không biết sức yếu đuối của mình, nên ông thưa Ngài: “Lạy Chúa, dầu có phải vào
tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng.” Chúa Giêsu nói với ông:
“Này anh Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần
anh chối là không biết Thầy.” Chỉ có Thiên Chúa biết chắc chắn những gì sẽ xảy
ra cho con người, con người không biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho mình.
Vì thế, phải tin những gì Thiên Chúa nói hơn những gì loài người hay chính mình
xác tín.
(5)
Chúa Giêsu lên núi Cây Dầu để cầu nguyện: Rồi Người đi ra núi Olive như đã
quen. Các môn đệ cũng theo Người. Đến nơi, Người bảo các ông: “Anh em hãy cầu
nguyện kẻo sa chước cám dỗ.” Rồi Người đi xa các ông một quãng, chừng bằng ném
một hòn đá, và quỳ gối cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén
này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” Bấy giờ có
thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người. Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi,
nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất.
Cầu nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ vì
buồn phiền, Người liền nói với các ông: “Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện,
kẻo sa chước cám dỗ.”
Trong
giờ hấp hối trước Cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu muốn có sự liên hệ mật
thiết với Cha Ngài. Người nói: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con.
Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” Chúa Giêsu, trong thân
xác con người, sợ hãi những gì sắp xảy ra cho Ngài; nên Ngài cầu xin Cha cất
chén đắng, vì Ngài tin Thiên Chúa có thể làm mọi sự. Dẫu vậy, Ngài vẫn một lòng
tuân phục thánh ý của Thiên Chúa hơn ý riêng mình. Trong những lúc tăm tối của
cuộc đời, con người cũng sẽ cảm thấy như Chúa Giêsu: Thiên Chúa dường như cũng
vắng mặt. Trong những lúc như thế, con người càng cần sống niềm tin vào Thiên
Chúa hơn lúc nào hết, và cầu nguyện xin sức mạnh từ Thiên Chúa để có thể chịu đựng
đau khổ.
Rồi
Người trở lại với các Tông-đồ, thấy các ông còn đang ngủ, Người liền nói với
các ông: “Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.” Chúa nhắc
nhở các ông một điều vô cùng cần thiết trong cuộc đời, dù các ông không nghe thấy:
Phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ; vì tinh thần thì hăng hái,
nhưng thể xác lại yếu đuối. Con người dễ sa ngã nhất khi con người không chuẩn
bị; vì vậy, con người phải luôn biết chuẩn bị sẵn sàng.
3.2/ Cuộc
Thương Khó bắt đầu: Người
còn đang nói với các Tông-đồ, thì một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là
Judah, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giêsu để hôn Người. Đức
Giêsu bảo hắn: ” Judah ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” Thấy việc sắp
xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: “Lạy Chúa, chúng con tuốt
gươm chém được không?” Thế rồi một người trong nhóm chém tên đầy tớ của thượng
tế, làm nó đứt tai bên phải. Nhưng Đức Giêsu lên tiếng: “Thôi, ngừng lại.” Và
Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành. Sau đó Đức Giêsu nói với các thượng tế,
lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông
đem gươm giáo gậy gộc đến? Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các
ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối
tăm.”
(1) Sự
phản bội của Judah: Hắn biết rõ nơi Chúa Giêsu thường đến để cầu nguyện; và để
phân biệt Chúa Giêsu với các môn đệ khác, hắn cho họ một dấu hiệu và dặn: “Tôi
hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận.” Judah
tiến lại gần Người và nói: “Thưa Thầy!” rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người.
Cái hôn thường được con người dùng để tỏ tình yêu với nhau; người Do-thái có
thói quen hôn thầy của họ. Đàng này, Judah lại dùng cái hôn để phản bội Thầy
mình. Có lẽ Judah nghĩ ông có thể qua mặt Chúa Giêsu. Trong trình thuật của
Luke, Chúa Giêsu vạch cho Judah thấy rõ ràng sự phản bội, khi Ngài nói: “Judah!
Anh lấy chiếc hôn để nộp con người sao?” (Lk 22:48).
Người
rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế là chính Phêrô, như được nói rõ
ràng trong trình thuật của Gioan (Jn 18:10). Phản ứng này rất hợp với tính khí
của Phêrô. Ông là người duy nhất có can đảm để bảo vệ Thầy mình.
(2)
Cuộc thẩm vấn sơ khởi tại dinh Thượng Tế: Họ bắt Đức Giêsu, điệu Người đến nhà
vị thượng tế. Còn ông Phêrô thì theo xa xa.
+
Phêrô phản bội Chúa Giêsu: Phêrô cũng trải qua cuộc thanh luyện đồng thời với
Chúa Giêsu: Hai cuộc tra vấn xảy ra đồng thời: khi Chúa Giêsu bị thẩm vấn cách
công khai trong dinh, ông Phêrô bị thẩm vấn cách âm thầm ngòai dinh.
– Chối
lần thứ nhất: Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc
và nói: “Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!” Ông liền chối: “Tôi có biết ông ấy
đâu, chị!” Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Đàn bà lắm chuyện, tuy vậy, cũng
làm cho Phêrô phải sợ hãi bỏ đi.
– Chối
lần thứ hai: Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: “Cả bác nữa, bác
cũng thuộc bọn chúng!” Nhưng ông Phêrô đáp lại: “Này anh, không phải đâu
– Chối
lần thứ ba: Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: “Đúng là bác này
cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilee.” Nhưng ông Phêrô trả lời:
“Này anh, tôi không biết anh nói gì!” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy.
Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp
gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.
Dẫu
Phêrô chối Chúa ba lần, ông vẫn can đảm hơn các tông đồ khác, vì các ông không
dám theo Chúa Giêsu vào dinh. Khác với Judah, ông nhận ra sự phản bội của mình,
và tiếng khóc trong lòng của ông giúp ông bắt đầu tiến trình giao hòa và làm chứng
cho Chúa Giêsu.
+
Chúa Giêsu bị tra tấn: Cuộc thẩm vấn sơ khởi trước Thượng Hội Đồng: Họ điệu
Chúa Giêsu đến vị Thượng Tế Tối Cao. Thượng Hội Đồng được coi như tòa án tối
cao của người Do-thái, gồm có tất cả 71 người: các thượng tế, kỳ mục, và các
kinh sư. Họ chỉ có quyền trên các vấn đề liên quan đến tôn giáo của người
Do-thái mà thôi; và họ không có quyền giết người. Thượng Hội Đồng phải họp tại
“Tòa Hewn Stone trong khu vực của Đền Thờ.” Họ đã phá rất nhiều luật không được
làm như: xử trong ngày Lễ Lớn, xét xử không đúng chỗ, các nhân chứng không được
điều tra tại các nơi khác nhau và bằng chứng phải được đúng từng chi tiết, mỗi
thành phần của Thượng Hội Đồng không cho sự cáo buộc riêng rẽ, bắt đầu từ người
trẻ nhất. Nếu là bản án xử tử, thời gian một đêm cần thiết trước khi bản án được
thi hành. Mục đích là để mọi thành phần của THĐ có cơ hội suy nghĩ cẩn thận, nếu
cần được khoan hồng. Nói tóm, vì họ muốn loại trừ Chúa Giêsu ngay.
Câu hỏi
của THĐ: “Ông có phải là Đấng Mesiah thì nói cho chúng tôi biết!” vi phạm Luật
trầm trọng, vì Luật không cho phép THĐ hỏi người bị cáo những câu hỏi mà người
bị cáo khi trả lời có thể liên quan chính mình trong đó. Họ biết Chúa Giêsu sẽ
trả lời khi hỏi đến sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, vì Ngài không thể
nói dối. Chúa Giêsu không chút do dự trả lời Ngài chính là Đấng Thiên Sai, một
đàng đó là sự thật, một đàng Ngài nghĩ cần chấm dứt trò bẩn thỉu của THĐ. Qua
câu trả lời, Ngài muốn cho họ thấy Ngài có dư can đảm để nói sự thật, dẫu sự thật
mang lại cho Ngài án tử hình. Nếu Ngài không trả lời điều đó, họ không có lý do
để buộc tội Ngài. Điều khác Ngài muốn cho họ thấy, tất cả những gì họ sẽ làm
cho Ngài chỉ tạm thời. Họ sẽ nhìn thấy chiến thắng vinh quang của Ngài sau Cuộc
Thương Khó.
(3)
Chúa Giêsu tại dinh quan Tổng-trấn Philatô: Toàn thể cử toạ đứng lên, điệu Đức
Giêsu đến ông Philatô. Trong trình thuật của Luke, người kết án Chúa Giêsu là
những người trong THĐ và dân chúng, chứ không phải là Philatô hay vua Herode;
vì Philatô đã tìm ít nhất là ba lần để tha án tử hình cho Chúa Giêsu. THĐ chỉ
có quyền trên những vấn đề thuộc tôn giáo và không có quyền ra án tử hình cho bị
cáo. Vì thế, sau khi đã tìm được lý do để buộc tội Chúa Giêsu phạm thượng, họ
phải tìm một lý do chính trị khác để kiếm án tử hình cho Chúa Giêsu; vì họ biết
rằng Philatô sẽ không quan tâm đến những bất đồng ý kiến về tôn giáo, như trình
thuật của Luca ghi lại. Họ tìm được một lý do chính trị để Philatô có thể kết
án Chúa: Chúa Giêsu xưng mình là Vua dân Do-thái. Khi xưng mình là Vua dân
Do-thái là chống lại quyền lực của đế quốc Roma và hoàng đế Caesar.
+ Lần
thứ nhất: Họ tố cáo Người: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc
chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Caesar, lại còn xưng
mình là Mesiah, là Vua nữa.” Hai tội xúc động dân chúng phản loạn chống lại
hoàng đế Caesar và xưng mình là vua là tội chính trị và có thể lãnh án tử hình;
nhưng Philatô biết Chúa Giêsu không vi phạm hai tội đó. Chỉ có một tội Philatô
biết khi ông hỏi Người: “Ông là Vua dân Do-thái sao?” Người trả lời: “Chính
ngài nói đó.” Làm vua dân Do-thái không có nghĩa chính trị; nhưng chỉ có nghĩa
tôn giáo. Điều này không đủ để kết án Chúa Giêsu. Vì thế, ông Philatô nói với
các thượng tế và đám đông: “Ta xét thấy người này không có tội gì.” Nhưng họ cứ
khăng khăng nói: “Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Judah, bắt đầu
từ Galilee cho đến đây.”
+ Lần
thứ hai: Nghe họ nói thế, ông Philatô liền hỏi xem đương sự có phải là người
Galilee không. Và khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Herode, ông liền cho áp
giải Người đến với nhà vua lúc ấy cũng đang có mặt tại Jerusalem. Vua Herode thấy
Đức Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe
nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. Nhà vua
hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả. Các thượng tế và kinh sư
đứng đó, tố cáo Người dữ dội. Vua Herode cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra
mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại
cho ông Philatô. Ngày hôm ấy, vua Herode và tổng trấn Philatô bắt đầu thân thiện
với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù.
Bấy
giờ ông Philatô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại mà nói: “Các
ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung
ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố
cáo. Cả vua Herode cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng
ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. Vậy ta sẽ cho
đánh đòn rồi thả ra.” Họ từ chối việc đánh đòn và phóng thích.
+ Lần
thứ ba: Vào mỗi dịp lễ lớn, ông Philatô phải phóng thích cho họ một người tù;
nhưng tất cả mọi người đều la ó: “Giết nó đi, thả Barabba cho chúng tôi!” Tên
này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết
người. Ông Philatô muốn thả Đức Giêsu, nên lại lên tiếng một lần nữa. Nhưng họ
cứ một mực la lớn: “Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!” Lần thứ ba, ông
Philatô nói với họ: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy
không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” Nhưng họ cứ la
to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội.
Sau
khi đã tìm mọi cách để tha Chúa mà không được, Philatô quyết định chấp thuận điều
họ yêu cầu. Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội
bạo động và giết người. Còn Đức Giêsu thì ông trao nộp theo ý họ muốn.
(4)
Ông Simeon vác đỡ Thập Giá: Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê
lên, tên là Simeon, gốc Cyrene, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức
Giêsu.
–
Chúng bắt ông Simon Cyrene vác đỡ Thánh Giá Chúa: “Lúc ấy, có một người từ miền
quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Cyrênê. Ông là thân phụ hai ông
Alexandre và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Chúng đưa Người
lên một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Đồi Sọ. Chúng trao rượu pha mộc dược cho
Người, nhưng Người không uống.”
(5)
Chúa Giêsu yên ủi dân thành Jerusalem: Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong
số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giêsu quay lại phía
các bà mà nói: “Hỡi chị em thành Jerusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có
khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. Vì này đây sẽ tới những ngày người
ta phải nói: “Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không
cho bú mớm!” Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi
đi! và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối
xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?”
(6)
Hai tên trộm cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu: Trình thuật của Lucas đặc biệt
có biến cố hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người: Khi đến
nơi gọi là “Đồi Sọ,” họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian
phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: “Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi họ lấy áo của Người
chia ra mà bắt thăm.
Dân
chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người
khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người
được tuyển chọn!” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho
Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!” Phía trên
đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do-thái.”
Một
trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải
là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng tên kia mắng
nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết
sợ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với
việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Đức
Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói
với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”
–
Quân dữ nhục mạ và thách thức Chúa Giêsu: “Chúng đóng đinh Người vào thập giá,
rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng
đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: “Vua người Do-thái.”
Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên
trái. (Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm
pháp).” Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: “Ê, mi là kẻ
phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá
mà cứu mình đi!” Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với
nhau: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Israel, cứ xuống
khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin.” Cả những tên cùng chịu
đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.”
Trong
cám dỗ thứ ba theo Tin Mừng Matthew, quỉ thần thách thức Chúa Giêsu gieo mình
xuống vực thẳm để các thiên sứ đỡ nâng Ngài khỏi vướng vào vách đá. Đối lại,
Chúa Giêsu nói: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa là Chúa ngươi!” Cám dỗ của quỉ
thần giờ được đặt trong miệng lưỡi những người đứng dưới chân Thập Giá. Chúa
Giêsu có uy quyền xuống khỏi Thập Giá; nhưng trong cả hai trường hợp, Ngài
không muốn trái ý Thiên Chúa để làm thoả mãn thách thức của quỉ thần và con người.
(7)
Chúa Giêsu sinh thì trên Thánh Giá: Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng
tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức
màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.
+ Thấy
sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng:
“Người này đích thực là người công chính!” Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh
tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.
+ Đứng
đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giêsu cũng như những phụ nữ đã
theo Người từ Galilee; các bà đã chứng kiến những việc ấy.
–
Chúa Giêsu hấp hối trên Thập Giá: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất
mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: “Eloi, Eloi,
lama sabacthani!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ
rơi con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông
Elijah.” Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một
cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Elijah có đến đem hắn xuống
không.””
–
Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng: “Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt
thở.
Bức
màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới.”
–
Viên đại đội trưởng tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa: Viên đại đội trưởng
đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật,
người này là Con Thiên Chúa.” Lời tuyên bố này là cao điểm của Tin Mừng Nhất
Lãm; nhưng trớ trêu thay, người nhận ra sự thực lại là một viên sĩ quan Dân Ngoại.
(8)
Táng xác Chúa Giêsu trong hang đá: Khi ấy có một người tên là Joseph, thành viên
của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. Ông đã không tán thành
quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành Arithmatha, một
thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. Ông đến
gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu. Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm
vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn
cất ai bao giờ. Hôm ấy là áp lễ, và ngày Sabbath bắt đầu ló rạng. Cùng đi với
ông Joseph, có những người phụ nữ đã theo Đức Giêsu từ Galilee. Các bà để ý
nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà, chuẩn bị
dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày Sabbath, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.
– Ông
Joseph Arimathea xin thi hài Chúa Giêsu: “Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức
là hôm trước ngày Sabbath, nên ông Joseph tới. Ông là người thành Arimathea,
thành viên có thế giá của Hội Đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của
Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức
Giêsu.”
–
Quan Philatô ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu đã chết: “Nghe nói Người đã chết,
ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người
đã chết lâu chưa.
Sau
khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Joseph lãnh lấy
thi hài.”
–
Táng xác Chúa Giêsu trong mồ: “Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giêsu xuống,
lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi
lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maria Magdala và bà Maria mẹ ông Joseph, thì để
ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
–
Chúa Giêsu chịu đau khổ để con người được sống.
– Đau
khổ giúp con người nên hoàn thiện và giúp con người thông cảm với những người đồng
cảnh ngộ.
– Qua
Cuộc Thương Khó, chúng ta nhận ra rõ ràng tình thương Thiên Chúa và sự gian dối
ác độc của con người.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Phụng
Vụ Lời Chúa: Chúa nhật Lễ Lá năm C
(Is 50,4-7; Tv 22; Pl 2,6-11; Lc
22,14-23,56)
THẬP GIÁ – ĐƯỜNG CỨU ĐỘ KHÁC BIỆT
VÀ ĐẦY YÊU THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA
VÀ ĐẦY YÊU THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA
“Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của
ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42)
Đấng
Mêssia tiến vào Giêrusalem
Chúa
Nhật Lễ Lá dẫn chúng ta vào tuần Thương khó của Chúa Giêsu. Tuy vậy, khung cảnh
phụng vụ lại không diễn tả cách chính xác theo bối cảnh của bài Tin Mừng (Lc
19,28-40). Với thánh Luca, việc tiến vào thành thánh Giêrusalem không phải là sự
khởi của trình thuật Thương khó. Sau khi vào thành thánh, ta thấy toàn bộ sứ vụ
của Đức Giêsu tại Giêrusalem. Dĩ nhiên, mối tương quan là có, nhưng đằng sau một
bối cảnh rộng lớn hơn nhiều.
Giêrusalem
và Đền Thờ có một vai trò biểu tượng quan trọng với thánh Luca; mọi sự đều xuất
phát từ Đền Thánh (1,9). Có tới hai lần (và có thể nhiều hơn) Đức Giêsu lên
Giêrusalem và Đền Thờ (2,22-38 và 2,41-50). Đây là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với
dân Người; đây cũng là nơi của những xung đột và cả sự quang lâm của Thiên Chúa
theo niềm hy vọng của dân Israel. Nhưng hôm nay, niềm hy vọng này được mở ra
cho toàn nhân loại.
Chúa
Giêsu tiến vào Giêrusalem và cuối cùng dừng chân tại Đền thờ. Không như trước
kia, khi Người như đứa trẻ bước vào Đền thờ và được các ngôn sứ chứng nhận; giờ
đây đã bắt đầu bước sang cuộc xung đột, nhưng với đầy đủ uy quyền trong hành động
của Người. Đây là giây phút đỉnh cao, khai mở một cách thế mới về sự hiện diện
của Thiên Chúa trong Đền thờ.
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài
đọc I (Is 50,4-7)
Hôm
nay chúng ta đọc phần đầu bài thứ ba trong bài ca người Tôi trung trong sách
ngôn sứ Isaia. Một vài nét ta có thể thấy ở đây:
- Người
tôi trung không cưỡng lại thánh ý Thiên Chúa. Người tôi trung này được khích lệ
qua việc lắng nghe Lời của Thiên Chúa và sẵn sàng để Lời Người chỉ bảo.
- Người
tôi trung không dùng bạo lực để chống lại bạo lực của con người.
- Người
tôi trung đặt hết niềm tin cậy nơi Chúa, Đấng được tin tưởng sẽ luôn phù trợ
tôi tớ của Người.
- Người
tôi trung là mẫu gương, và là khích lệ cho những ai đang lâm cảnh khốn cùng.
Hình ảnh
người tôi trung cũng được bắt gặp nơi những dòng thánh vịnh 22 mà ta nghe hôm
nay, đó là lời nài xin của người bị bách hại vô cớ. Đây không phải là thái độ
tuyệt vọng của người tín hữu, nhưng là niềm tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa
và ơn cứu độ của Người. Ba câu cuối cùng (20.23.24) diễn tả rõ thái độ này và
hướng chúng ta tới niềm Phục Sinh của Đức Kitô sau này.
2. Bài
đọc II (Pl 2,6-11)
Đây
là một bài vinh tụng ca cổ xưa mà chúng ta có được trong thư gởi các tín hữu
Philipphê. Lẽ ra, Đức Kitô phải là một Đấng Messia vinh thắng, và muôn dân muôn
người phải nhìn nhận bản chất quyền uy của Người. Thế nhưng, Đức Giêsu đã chọn
cách thế hạ mình, trở nên tất cả giống như con người, và còn hơn thế nữa,
chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá. Đây là vị Tôi Trung trong Isaia
(x. Is 53).
Trong
khi phương cách thứ nhất, nghĩa là một Đấng Messia vinh thắng, không dạy dỗ hay
mang lại cho chúng ta điều gì, thì phương cách thứ hai, nghĩa là hạ mình, vâng
lời cho đến chết trên thập giá, lại là phương cách trực tiếp mạc khải về chính
Thiên Chúa.
Thật
là một điều nghịch lý cho người Kitô hữu khi vì Thiên Chúa của mình không bày tỏ
trong cách thế uy quyền, nhưng lại trong khiêm nhường, kiên nhẫn, phục vụ, tình
yêu, và trở nên là quà tặng đời sống cho con người. Chính lúc này, lúc ô nhục
trên thập giá, vinh quang của Thiên Chúa mới tỏ hiện rõ nét nhất.
3. Cuộc
Thương Khó của Chúa Giêsu (Lc 22,14-23,56)
Cuộc
thương khó của Chúa Giêsu là phần quan trọng trong cả bốn Tin Mừng. Nó
không phải là một sự kiện tự nhiên, bình thường. Câu hỏi được đặt ra là: tại
sao trong ánh sáng Phục sinh, các tác giả Tin Mừng đã không làm mờ đi những ký ức
không tốt đẹp, hay có thể bỏ trong dấu ngoặc, để nhấn mạnh những việc làm phi
thường và giáo huấn cao cả của Đức Giêsu? Và như thế sẽ đúng theo lẽ thường!
Tuy
nhiên, sự việc lại diễn ra hoàn toàn trái ngược: cuộc thương khó, cùng với sự
Phục sinh, đã mang lại ánh sáng cho cuộc sống con người. Nó không phải một “trường
hợp” như bao trường hợp khác, cũng không phải là một trường hợp điển hình, mà
là cuộc thương khó và cái chết của Con Thiên Chúa, một trường hợp độc nhất.
Nhìn
chung, cuộc thương khó đều có cùng chung một cấu trúc, không chỉ trong Tin mừng
nhất lãm, mà còn cả với Tin Mừng Gioan. Điều đó có nghĩa là ngay từ lúc khởi đầu
sứ vụ rao giảng, cuộc thương khó đã được đặt để trong một lược đồ chính xác.
Sau đó, mỗi Tin Mừng lại triển khai và kiện toàn theo nguồn dữ liệu riêng của
mình cùng với lối diễn tả thần học riêng biệt: Marcô có tính rao giảng
(kerygma); Máthêu mang đậm chất học thuyết và nói về giáo hội; Luca thì cá vị
và huấn dụ; còn Gioan nhấn mạnh sự tự do của Đức Kitô và tính vương đế của Người.
Trình
thuật cuộc thương khó theo thánh Luca có một số đặc điểm sau:
- như
là một sự ứng nghiệm của một kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Thuật ngữ này được
lặp lại nhiều lần (x. 24,5-6; 24,44.46-47).
- như
là một cuộc chạm trán diện đối diện và mang tính quyết định với Satan (x.
22,31-32; 22,53)
- như
là một cuộc tử đạo của người vô tội, và như thế, Đức Giêsu được trình bày như một
mẫu gương cho những người chịu chết vì đức tin.
-
Luca muốn làm nhẹ đi sự liên can của chính quyền Rôma trong việc tố cáo và kết
án Chúa Giêsu. Trong bối cảnh của một Giáo hội non trẻ thời sơ khai dưới quyền
cai trị của đế quốc La Mã, Đức Giêsu được trình bày như là một Đấng Messia
không mang tính chính trị và không gây nguy hiểm cho bất cứ quyền lực trần thế
nào. Cuộc bút chiến với cộng đoàn Do Thái có thể được giải thích với những sự
bách hại của người Do Thái mà đối tượng là các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai.
II. GỢI
Ý SUY NIỆM
Như
là một vị Tôi trung vô tội chịu bách hại và khổ đau, cuộc thương khó và tử nạn
của Đức Giêsu vừa là một sự kiện toàn lời ngôn sứ trong Cựu ước, vừa được xem
như là một dự báo về số phận của Giáo hội và các Kitô hữu sau này. Vì thế, có
thể nói thương khó và phục sinh vừa diễn tả con đường cứu độ khác biệt và đầy
yêu thương của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là số phận và là đường đi
của người tín hữu.
Có biết
bao lần ta theo Chúa và tìm đến với Người như là một sự ẩn mình, né tránh những
sự gian nan cơ cực và tìm kiếm những lợi lộc và giá trị theo nghĩa thế trần.
Nhưng như thế là ta đã hiểu lầm về Kitô giáo, và vô hình chung, ta trở nên những
tín đồ như bao tín đồ của các tín ngưỡng dân gian khác.
Đặc
nét của người Kitô hữu mà không ai có thể có được, đó là một đời sống trong ơn
thánh vì có Chúa ở cùng và đỡ nâng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của đời mình, để
cùng với Đức Giêsu Kitô, vâng phục thánh ý Cha trên trời trong mọi biến cố, để
rồi cuối cùng, được sống và kết hiệp với Người trong cuộc sống mai hậu.
Nếu
đúng theo nghĩa này, tôi sẽ cầu nguyện gì với Chúa hôm nay? Mỗi lần gặp cảnh khổ
và cơ cực (không phải sự dữ), tôi sẽ xin Chúa điều gì?
Tôi
nghĩ gì về lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén
này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha”? (Lc 22,42)
Hay của
hai tên gian phi: “Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” và “Ông Giêsu
ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” ? (x. Lc 23,39-43)
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Tình yêu
cứu độ của Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại đã thể hiện trọn vẹn trên thánh
giá qua cái chết của Đức Giêsu, Con Một yêu dấu của Người. Với tâm tình
tri ân cảm tạ, cộng đoàn chúng ta cùng chúc tụng Chúa và dâng lời cầu xin.
1. Đức
Giêsu đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Chúng ta cùng cầu
xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn biết hạ mình và hy sinh theo
gương Thầy Chí Thánh, dấn thân phục vụ và loan báo Tin Mừng cứu độ cho con người
thời đại hôm nay.
2. Cuộc
vượt qua của Chúa Kitô đem lại ơn giải thoát toàn diện cho nhân loại. Chúng
ta cùng cầu xin cho những người đang đau khổ tìm được nguồn an ủi nơi cuộc
khổ nạn của Chúa Kitô, và cho những ai đã qua đời được chia sẻ vinh quang phục
sinh cùng với Người.
3.
Chúa Giêsu nói với kẻ trộm lành: “Ngay hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với
Ta.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi kitô hữu, cách riêng những người
trẻ, luôn trọn niềm cậy trông nơi Chúa, và siêng năng đến với Người qua việc
tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích.
4.
Chúa Giêsu bước vào cuộc thương khó trong tâm tình vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Chúng ta cùng cầu xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta biết ý thức chu
toàn ý Chúa qua bổn phận hằng ngày, luôn tích cực loan báo niềm vui
và hy vọng đích thực cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng
thương xót, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và dẫn đưa chúng con ngày càng tiến
sâu vào trong sự sống viên mãn mà Đức Giêsu Kitô đã đem đến cho nhân loại nhờ sự
chết và cuộc phục sinh của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét