Trang

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2019

03-10-2019 : THỨ NĂM - TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN


03/10/2019
 Thứ năm đầu tháng, tuần 26 thường niên

BÀI ĐỌC I: Nkm 8, 1-4a. 5-6. 7b-12
“Thầy Esdra mở sách luật ra, chúc phúc cho dân và toàn dân đáp lại: Amen! Amen!”
Trích sách Nơkhemia.
Trong những ngày ấy, toàn dân mọi người như một, tụ họp lại ở phố trước cửa Nước, họ xin thầy Esdra mang ra sách Luật của Môsê mà Chúa đã truyền cho dân Israel. Vậy thầy tư tế Esdra mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật.
Thầy thư ký Esdra đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdra chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, Amen. Họ cúi mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Các thầy Lêvi khiến dân chúng thinh lặng để nghe đọc Lề Luật: Dân chúng mỗi người đứng nơi mình. Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc.
Nơkhemia là tổng trấn, Esdra là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: “Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta: anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc”. Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật.
Họ nói với dân chúng rằng: “Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gởi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn lũy của chúng ta”.
Các Thầy Lêvi khiến toàn dân thinh lặng mà rằng: “Anh chị em hãy thinh lặng, vì hôm nay là ngày thánh, nên chớ lo buồn”. Vì thế toàn dân đi trở ra ăn uống, gởi phần cho những người không có, và đầy hân hoan vui mừng, vì người ta hiểu rõ những lời mình nghe giảng dạy. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Đáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c. 9a).
Xướng:
1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. – Đáp.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. – Đáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy. – Đáp.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật, và hơn cả mật chảy tự tàng ong. – Đáp.

ALLELUIA: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! – Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 10, 1-12
“Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
“Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ‘Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi’. Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: ‘Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần’. Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này”. Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Tinh Thần Nghèo Khó Ðích Thực
Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:
Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta?
Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp:
Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này?
Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói:
Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của những con người được tái sinh.
Trong thực tế, người Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó, Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.
Thế nhưng, làm thế nào để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.
Hơn bao giờ hết, người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó. Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá cao độ cho Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 26 TN1, Năm lẻ.
Bài đọcNeh 8:1-4a, 5-6, 7b-12; Lk 10:1-12.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhiệt thành với việc truyền giáo cho dân chúng.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu mà chúng ta mừng hôm nay, được Giáo Hội đặt làm quan thầy của những người truyền giáo; vì chị rất thương yêu và quan tâm đến linh hồn của những người chưa nhận biết Đức Kitô. Chị ao ước được giống như thánh Phaolô, đi các nơi để rao giảng Tin Mừng và thiết lập các giáo đoàn; nhưng vì sức khỏe và khả năng không cho phép, chị nài xin Thiên Chúa chấp nhận tình yêu thương của chị dành cho những nhà truyền giáo và những người chưa nhận biết Thiên Chúa. Chị xin dâng mỗi một mũi kim khâu vá của chị để xin Thiên Chúa cứu một linh hồn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự khẩn thiết của Lời Chúa trong việc dạy dỗ dân chúng biết Thiên Chúa, và trong việc hoán cải lòng dân trở về với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thống đốc Nehemiah và tư tế Ezra, sau khi đã dựng lại Đền Thờ và xây dựng tường thành chung quanh, đã nghĩ ngay đến việc dạy dỗ Lề Luật cho dân chúng trong Kinh Thánh. Họ tập họp tất cả con cái Israel lại, những người có đủ trí khôn để hiểu Lời Chúa, để học hỏi Kinh Thánh suốt từ sáng tới trưa. Hậu quả là dân chúng nhận ra và khóc than tội lỗi của họ đã phản bội tình yêu Thiên Chúa dành cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không chỉ sai đi Nhóm Mười Hai, mà còn sai đi Nhóm Bảy Mươi; để họ chuẩn bị trước cho Chúa Giêsu đến gặp gỡ dân chúng. Ngài dặn họ đừng để bất cứ điều gì ngăn cản Triều Đại của Thiên Chúa đến với con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà, và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn.
1.1/ Sự quan trọng của Lời Chúa: Là những nhà lãnh đạo khôn ngoan, Nehemiah và Erza biết điều gì cần thiết cho dân chúng: Họ không thể sống đúng nếu không biết đúng; để biết đúng, họ phải học hỏi sự dạy dỗ của Thiên Chúa trong Sách Thánh (Lề Luật). Thói quen nghe Lời Chúa đã bị mất từ khi con cái Israel bị lưu đày; giờ đây, trong ngày Lễ Khánh Thành Đền Thờ, họ phải tập luyện lại thói quen này. Vì thế, “muôn người như một, tụ họp ở quảng trường trước cửa Nước. Họ xin ông Ezra là kinh sư đem sách Luật Moses ra. Đó là Luật Đức Chúa đã truyền cho Israel.
Hôm ấy là ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ezra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.”
1.2/ Các thầy Lêvi giải thích Lề Luật cho dân: Sau khi đã nghe tư tế Ezra long trọng công bố Lời Chúa và chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa. Lời Chúa không phải cứ nghe là hiểu ngay. Để giúp dân chúng hiểu thấu Lời Chúa, các thầy Lêvi liên tục giải thích Lề Luật cho dân, trong khi dân vẫn đứng tại chỗ. Trình thuật nói rõ, vì “ông Ezra và các thầy Lêvi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc.”
(1) Dân chúng hối hận và khóc lóc, vì họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa: Mục đích của việc rao giảng Kinh Thánh là giúp dân nhận ra hai điều: Thứ nhất, tình thương của Thiên Chúa dành cho họ. Ngài luôn quan tâm đến cuộc sống của họ, nhất là trong thời gian lưu đày. Thứ hai, giúp dân nhận ra tội lỗi của họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân; tội lỗi là lý do của việc lưu đày và mọi sự khốn khổ mà dân phải chịu. Ăn năn thống hối là hậu quả của việc rao giảng Tin Mừng. Nếu không có ăn năn thống hối, lời rao giảng chưa đạt được mục đích.
(2) Dân chúng vui mừng và sẵn sàng chia cơm sẻ áo trong ngày thánh hiến Đền Thờ: Việc ăn năn thống hối dẫn tới việc đền bù các tội lỗi dân chúng đã phạm. Hai tội chính mà con cái Israel đã làm là quay lưng lại với Thiên Chúa và đối xử bất công với tha nhân. Sau khi đã nhận ra tội và hòa giải với Thiên Chúa, con cái Israel cần phải hòa giải tội bất công với nhau bằng cách san sẻ cơm bánh cho những anh chị em nghèo đói. Ông Ezra khuyên bảo dân chúng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em.”
2/ Phúc Âm: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
2.1/ Hãy làm cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến: Ý định muôn đời của Thiên Chúa là làm sao cho mọi người nhận biết và tin vào Đức Kitô, để được hưởng ơn cứu độ. Ý định này không thể hoàn tất bởi một mình Đức Kitô; nhưng là do nỗ lực góp phần của tất cả mọi người. Chính Chúa Giêsu đã chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Nhiệm vụ của các ông cũng giống như Gioan Tẩy Giả, là chuẩn bị tâm hồn con người sẵn sàng để tiếp rước Đức Kitô.
Trước khi sai đi, Người dặn dò các ông những điều quan trọng: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” Mục đích chính mà Chúa sai các môn đệ đi là để rao giảng Tin Mừng, các ông phải loại bỏ tất cả những gì ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng, như các cám dỗ: tìm kiếm lợi nhuận của cải vật chất, ăn ngon mặc đẹp, ham uy quyền danh vọng, ngay cả việc tán gẫu nhảm.
2.2/ Phản ứng của những người nghe giảng Tin Mừng: Người loan báo Tin Mừng là người mang bình an cho dân chúng. Chúa Giêsu dặn các môn đệ: Vào bất cứ nhà nào, trước tiên anh em hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.
(1) Những người tiếp nhận: Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, cả người rao giảng lẫn người nghe đều có liên hệ hỗ tương với nhau: nhà rao giảng mang Lời Chúa và sự bình an đến cho dân chúng; để đền bù lại, dân chúng lo sức khỏe cho nhà rao giảng bằng cách cung cấp lương thực và những nhu cầu vật chất. Mỗi người một phần vụ giúp cho việc loan truyền Tin Mừng. Vì lý do này mà Chúa dặn các môn đệ: ”Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.””
(2) Những người từ chối: ”Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Sodom còn được xử khoan hồng hơn thành đó.” Từ chối nhà rao giảng Tin Mừng là phải lãnh nhận hậu quả nặng hơn hậu quả của dân thành Sodom. Theo Sáng Thế Ký, thành Sodom đã bị lửa từ trời xuống thiêu rụi thành tro bụi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta sống đời này không phải để vơ vét của cải để trở nên giầu có; nhưng để cứu rỗi phần linh hồn của chúng ta và của mọi người qua việc học hỏi và rao truyền Tin Mừng.
– Của cải Thiên Chúa ban là để cho mọi người hưởng dùng. Chúng ta đừng đối xử bất công để dành của cải; nhưng phải sẵn lòng san sẻ cho các anh chị em đang túng thiếu.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


03/10/2019 – THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 26 TN
Lc 10,1-12


MỆNH LỆNH TRUYỀN GIÁO
“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” (Lc 10,4)
Suy niệm: Những chỉ thị cho các môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng luôn mang tính cách đòi hỏi khẩn thiết và quyết liệt. Dù “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì thiếu”, Chúa vẫn yêu cầu Hội Thánh của Ngài phải mang tính cộng đoàn nên đã sai các môn đệ đi từng hai người một. Việc loan báo Tin Mừng thật cấp bách, đến nỗi dường như Chúa bỏ qua phép xã giao thông thường: Ngài dặn các môn đệ đừng để phân tán vì những việc chào hỏi vô bổ dọc đường. Lệnh lên đường nói những điều “đừng làm” để nhấn mạnh vào những điều “hãy làm”. Thay vì chỉ “la cà” trên đường thì hãy vào thành, đến các ngôi nhà, nơi tụ họp đông người. Thay vì cậy dựa vào “túi tiền, bao bị, giày dép” là những phương thế vật chất, thì hãy chú tâm vào việc loan báo sứ điệp Tin Mừng, đó là sứ điệp: “Bình an cho nhà này” và “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần.”
Mời Bạn: Các môn đệ đến nhà nào là để lại lời chúc bình an cho nhà đó, đây là hạnh phúc thiêng liêng với những người mở lòng ra đón nhận. Bạn đã đáp lời hiệu triệu của Đức Giê-su truyền giáo mỗi ngày qua đời sống chưa? Bằng cách nào? Bạn có gieo bình an cho những người bạn gặp gỡ mỗi ngày không?
Sống Lời Chúa: Làm một việc bác ái với ý nguyện cầu cho việc truyền giáo.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con vẫn biết lúa chín nhiều nhưng đôi chân của chúng con trì trệ, trái tim chúng con chưa mở ra đủ để lên đường với lòng hăng say nhiệt thành. Xin Chúa thêm sức mạnh để trái tim con bừng lửa truyền giáo và yêu thương qua cuộc sống hàng ngày, qua những người mà chúng con gặp gỡ. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


SUY NIỆM : Như chiên con

Suy niệm :
Đức Giêsu sai các môn đệ của mình đi trước,
từng hai người một, vào mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến.
Sứ mạng dọn đường này không dễ chút nào.
Đức Giêsu biết rõ những hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ.
“Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3).
Chiên con trở nên hình ảnh của người môn đệ,
yếu đuối, không có khả năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn.
Chính Đức Giêsu cũng là Chiên Con được Thiên Chúa sai đi.
Chính Ngài cũng “như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).
Người môn đệ được sai vào thế giới mãi mãi thấy mình mong manh,
trước thế lực tưởng như không thể thắng nổi của sự dữ.
Nhưng người môn đệ lại không được trang bị nhiều:
không túi tiền, không bao bị, không giầy dép,
dù đó là những điều bình thường thiết yếu cho một cuộc hành trình.
Chính vì thế họ buộc lòng phải cậy dựa vào người khác.
Mà không phải ai cũng có lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận.
Như thế là chấp nhận liên tục bấp bênh,
liên tục cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nhà của các tín hữu là nơi hoạt động của người môn đệ.
Căn nhà là nơi các môn đệ được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn.
Họ sống gần gũi như người trong nhà, như người thợ làm việc.
Nếp sống giản dị và siêu thoát của họ phải được bày tỏ
qua việc chấp nhận mọi đồ ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8),
cũng như việc không đi tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7).
Ngoài ra các thành phố cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12).
Nhưng dù là vào một căn nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8),
thái độ của người môn đệ đều rất tích cực và thân thiện.
Họ chúc bình an, chữa bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Họ cũng khiêm tốn chấp nhận bị từ chối,
khi ơn bình an không được đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe.
Những lời dặn dò của Đức Giêsu ngày xưa, bây giờ vẫn còn giá trị.
Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay.
Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần,
với những thứ bệnh mới của thời đại được coi là văn minh.
Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng.
Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố.
Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín,
và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc ?
Làm sao nói về Đấng Vô Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình ?
Người môn đệ hôm nay vẫn phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống,
như xưa các môn đệ xưa đã sống chung, ăn chung,
và làm việc như một người thợ để phục vụ.
Giáo Hội vẫn cần xin nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới.

Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta).
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG MƯỜI
Khuôn Mặt Nhân Loại Của Thiên Chúa
Thánh Kinh đưa ra câu trả lời rất phong phú cho câu hỏi: “Con người là ai?” Chúng ta tìm thấy câu trả lời này trong Sách Huấn Ca : “Đức Chúa tạo dựng con người từ bùn đất, và Ngài tạo nên họ giống hình ảnh Ngài. Ngài cho họ sống đời tạm trên trần gian và rồi lại trở về với đất bụi. Ngài ban tặng con người sức mạnh của Ngài, Ngài trao cho họ quyền thống trị mọi sự trên mặt đất.” (Hc 17,1-3)
Ở đây chúng ta có câu trả lời cho vấn nạn con người và định mệnh của họ. “Ngài tạo nên con người giống hình ảnh Ngài”. Vì thế, theo cách diễn tả rất khéo của thánh Gregory thành Nyssa (PG 44,446), con người là “khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa”. Để hiểu biết đúng đắn về con người, chúng ta không bao giờ được phép đánh mất quan điểm này của mạc khải Thánh Kinh; từ Sách Sáng Thế đến Sách Khải Huyền, Thánh Kinh khai mở đầy đủ chiều kích đích thực của con người. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Và để cứu độ và giải phóng con người khỏi tội lỗi, Thiên Chúa đã đi vào thân phận con người.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03/ 10
Nkm 8, 1-4a.5-67b-12; Lc 10, 1-12.

LỜI SUY NIỆM: “Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai người, và sai các ông đi từng hai người một đi trước; vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Người bảo các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”
          Chúa Giêsu đã thiết lập cho cộng đoàn của Người một cơ cấu tồn tại cho tới khi Nước Thiên Chúa được hoàn thành trọn vẹn. Trước hết, Người tuyển chọn nhóm Mười Hai với ông Phêrô làm thủ lãnh. Những vị này, đại diện cho mười hai chi tộc Israen là những tảng đá nền móng của Giêrusalem mới. Nhóm Mười Hai và các môn đệ khác, được tham dự vào sứ vụ của Đức Kitô, vào quyền năng của Người, và cả số phận của Người. Bằng tất cả các hành động này. Đức Kitô chuẩn bị và xây dựng Hội Thánh của Người.” (Gl 765).
          Lạy Chúa Giêsu. Ngày hôm nay, chúng con cũng đang được Chúa đặt để một nơi chốn ở trần gian này, để trở nên nhân chứng tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con tràn đầy ơn Chúa để chúng con thoát khỏi những nanh vuốt của trần gian.
Mạnh Phương


03 Tháng Mười
Báu Vật Cuối Cùng
Ngày 10 tháng 3 năm 1615, tại Glasgow bên Tô Cách Lan, một vị thừa sai lừng danh là cha Ogilvie bước lên máy chém vì tội rao giảng Phúc Âm.
Trong giây phút cuối đời, đứng trên đoạn đầu đài thấy hàng ngàn người đứng coi, muốn để lại cho họ một kỷ niệm và một bảo đảm đức tin, vị tử đạo lấy ra vật cuối cùng còn lại trong mình: đó là một cỗ tràng hạt… Ngài cố sức ném tràng chuỗi vào giữa biển người. Tràng chuỗi đã rơi xuống trúng một ông hoàng xứ Hungary đang trên đường chu du học hỏi, tình cờ ghé qua Glasgow.
Chuỗi tràng hạt này đã bám riết ông khắp nơi, mãi đến ngày ông quyết định rời bỏ giáo phái Calvin để quay trở lại với Công Giáo.
Những mẩu chuyện trên đây không phải là ít trong lịch sử Giáo Hội. Việc sám hối luôn gắn liền với kinh Mân Côi. Ðó là mệnh lệnh mà Mẹ Maria đã ban bố tại Fatima năm 1917: “Hãy năng lần hạt Mân Côi”.
Thánh Grêgoriô thành Nysse thường dùng thí dụ sau đây để nói về ảnh hưởng của kinh Mân Côi trong đời sống Kitô của chúng ta: “Mỗi người chúng ta được ví như một họa sĩ, linh hồn chúng ta là một khung vải còn nguyên vẹn, màu sắc được dùng là các nhân đức Kitô giáo, hình ảnh phải họa theo là chính Chúa Giêsu Kitô, hình ảnh sống động của Chúa Cha. Họa sĩ nào càng muốn hình ảnh họa lại được giống hình mẫu, càng phải năng ngắm nhìn mẫu khi đặt bút vẽ”.
Mẹ Maria là mẫu gương của đời sống Kitô. Qua kinh Mân Côi, chúng ta chiêm ngắm các biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Nhờ ôn đi, đọc lại nhiều lần, các biến cố đó sẽ thấm nhập tâm hồn chúng ta để dần dần biến chúng ta theo khuôn mẫu của các Ngài.
Kinh Mân Côi không những là hình thức đạo đức có tính cách cá nhân, nhưng còn là chất keo nối kết mọi người trong gia đình lại với nhau. Còn hình ảnh nào được ghi đậm trong tâm khảm chúng ta cho bằng những giờ kinh Mân Côi đọc chung trong gia đình… Gần đây, người ta phát động việc đọc kinh Mân Côi trong gia đình với khẩu hiệu: “Một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng vững”.
“Nơi nào có hai hay ba người ngồi lại với nhau vì danh Ta, Ta sẽ ở giữa họ”. Mà nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó cũng sẽ có Tình Yêu. Vì Tình Yêu là chất men liên kết mọi người trong gia đình lại với nhau.
Việc cầu nguyện trong gia đình, nhất là với kinh Mân Côi, là yếu tố bảo đảm sự bền vững của hôn nhân và khơi dậy ơn gọi trong gia đình.
Trong tông huấn về việc tôn kính Mẹ Maria, Ðức Phaolô VI đã nhắn nhủ chúng ta như sau: “Những điều kiện sinh sống đổi thay của ngày nay khiến việc hội họp gia đình không được dễ dàng và dù khi sum họp được thì nhiều hoàn cảnh lại làm cho cuộc họp mặt khó biến thành một dịp nguyện cầu. Các gia đình muốn sống trọn vẹn ơn gọi và tinh thần của gia đình Công Giáo phải tận lực lướt thắng những áp lực cản trở gia đình không thể hội họp và cầu nguyện chung”.
Tinh thần đạo đức của các phần tử trong gia đình được thể hiện và tăng triển trong những giờ cầu nguyện chung, gồm cả việc đọc kinh hay đọc sách Thánh, chia sẻ lời Chúa, nhưng thuận lợi hơn cả đối với các gia đình Việt Nam đó là việc đọc kinh Mân Côi. Cũng chính Ðức Cố Giáo Hoàng VI khuyên nhủ chúng ta: “Sau việc đọc kinh Nhật Tụng thì việc đọc kinh Mân Côi được coi như một trong những kinh cầu nguyện chung tốt đẹp nhất, hữu hiệu nhất mà gia đình Công Giáo được khuyến khích đọc”.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét