Trang

Thứ Ba, 15 tháng 10, 2019

16-10-2019 : THỨ TƯ - TUẦN XXVIII THƯỜNG NIÊN


16/10/2019
 Thứ Tư tuần 28 thường niên


BÀI ĐỌC I: Rm 2, 1-11
“Người sẽ trả lại cho ai nấy theo công việc họ đã làm, trước là những người Do-thái, sau là những người Hy-lạp”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Hỡi con người kia, hễ ngươi xét đoán, thì ngươi không thể chữa mình được đâu. Vì ngươi xét đoán kẻ khác thế nào, thì ngươi tự lên án mình như vậy: bởi lẽ ngươi cũng phạm điều ngươi lên án. Chúng ta đều biết Thiên Chúa căn cứ theo chân lý mà xét đoán những kẻ hành động như thế.
Hỡi con người kia, ngươi xét đoán những kẻ hành động thể ấy, mà chính mình ngươi cũng làm, ngươi nghĩ rằng: ngươi thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa được sao? Hay là ngươi khinh thị lòng nhân hậu, nhẫn nại và khoan dung của Người? Ngươi chẳng biết rằng lòng nhân lành của Thiên Chúa phải thối thúc ngươi hối cải sao?
Thật bởi lòng ngươi chai đá, không chịu hối cải, ngươi chỉ tích trữ cho mình cơn thịnh nộ trong ngày thịnh nộ, ngày sẽ tỏ ra thẩm phán công bình của Thiên Chúa, Đấng sẽ trả lại cho ai nấy tuỳ theo công việc họ đã làm, vì hễ những ai bền đỗ làm lành, tìm kiếm vinh quang, danh dự và ơn bất tử, thì sẽ được sống đời đời; còn những ai ương ngạnh, không vâng phục chân lý, mà lại tin theo sự gian ác, thì sẽ gặp cơn thịnh nộ và giận dữ.
Hễ kẻ nào làm sự dữ, thì mắc phải gian nan phiền muộn, trước là những người Do-thái, sau là những người Hy-lạp: vì Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai cả. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv  61, 2-3. 6-7. 9
A+B=Lạy Chúa, Chúa sẽ trả công mỗi người theo như việc họ làm (c. 13b).
A=Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui; do chính mình Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Đá tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng. 
B=Nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi ơi, hãy an vui, vì do Người, tôi được điều tôi trông đợi. Phải, chính Chúa là Đá tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng.    
A=Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc, hãy đổ giốc niềm tâm sự trước nhan Người, vì Thiên Chúa là nơi ta nương náu.
A+B=Lạy Chúa, Chúa sẽ trả công mỗi người theo như việc họ làm (c. 13b).

ALLELUIA:  Mt 4, 4b
– Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia. 

PHÚC ÂM:  Lc 11, 42-46
“Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái, và khốn cho các ngươi, hỡi những tiến sĩ luật”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa phán rằng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi nộp thuế thập phân, bạc hà, vân hương, và các thứ rau, mà lại bỏ qua đức công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Phải thi hành những điều này, và không được bỏ những điều kia. Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi ưa thích ngồi ghế nhất trong các hội đường, và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ. Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ mả không rõ rệt, người ta bước đi ở trên mà không hay biết!”
Có một tiến sĩ luật trả lời Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy nói như thế là Thầy sỉ nhục cả chúng tôi nữa”. Người đáp lại rằng: “Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các ngươi nữa! Vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới”. Đó là lời Chúa.


Suy niệm
Trong bài đọc I, trích thư gửi cho các tín hữu Rôma, Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng người Do Thái cũng phạm tội giống như dân ngoại. Thực vậy, ngài vạch ra cho người Do Thái thấy rằng họ quá dễ dàng xét đoán các dân ngoại về nếp sống vô luân, và họ tự phụ là người tốt hơn những người khác vì họ hoàn toàn tuân giữ Lề Luật. Để chứng minh cho các đồng bào Do Thái của mình rằng họ đã lầm đường lạc lối như thế nào, Thánh Tông Đồ cố gắng đánh đổ những xác tín sai lạc của họ mà chính ngài cũng đã từng chia sẻ trước khi ngài được biết Chúa Phục Sinh. Trước đó, Phaolô luôn cậy dựa vào xác thịt và vào tư cách là thành viên của dân đã lãnh nhận Lề Luật. Bây giờ Phaolô được hoán cải về với Đức Kitô nhờ đức tin, cái làm cho người ta trở nên công chính và hoạt động nhờ đức mến, chứ không phải nhờ việc tuân giữ lề luật theo nghi thức. Chỉ tin bằng miệng và thi hành Lề Luật bề ngoài thì không đủ; người ta phải sống trong đức tin. Trên thực tế, chúng ta sẽ được xét xử dựa trên đức ái, kết quả của việc gắn bó với đức tin vào Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại. Đức tin là tham dự vào bản tính Thiên Chúa và tình yêu Thiên Chúa của Đức Giêsu.
Phaolô tố giác tội cứng lòng và ngoan cố của một dân tộc tin rằng chỉ có họ đáng được cứu rỗi. Thời kỳ đặc quyền qua rồi; đã đến lúc mỗi người phải có một quyết định về Đức Kitô là ai. Đó là lúc mỗi người phải phó thác cho lòng thương xót của Thiên Chúa, khám phá ra rằng Thiên Chúa muốn tuôn đổ lòng từ bi nhân hậu cả trên những ai ở xa Người. Thiên Chúa là thẩm phán duy nhất của loài người; tất cả chúng ta đều chịu sự phán xét của Người, không có ngoại lệ. Niềm tin chắc rằng mình công chính và thái độ kiêu căng nghĩ mình là người duy nhất bảo về sự thật và luân lý (Lề Luật) có thể khiến người ta khinh thường Thiên Chúa, coi lòng thương của Người là sự yếu đuối, và khiến người ta loại trừ những người khác khỏi ơn cứu độ.
Đoạn Tin Mừng hôm nay, một sự tố cáo có tính ngôn sứ chống lại những người Pharisêu và những luật sĩ, là một lời cảnh cáo đối với những cộng đoàn Kitô của quá khứ và hiện tại về các cám dỗ của chủ nghĩa nệ luật, chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nghi thức, chúng nuôi dưỡng kẻ thù lớn của công trình cứu độ của Đức Kitô, một thái độ qui ngã kiêu căng và tự mãn. Tha hóa Lề Luật thành một thái độ hình thức bề ngoài và thu hẹp ơn gọi của dân tuyển chọn vào một đặc quyền loại trừ mà các dân ngoại không bao giờ có thể có, thái độ này gây phương hại tới tính phổ quát của ơn cứu độ và sứ mạng của các môn đệ Đức Giêsu.
Đức Giêsu bắt đầu tố giác những lạm dụng của người Pharisêu liên quan đến việc dâng cúng. Họ có thể tuân giữ các quy luật tối thiểu và phụ thuộc, như nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương và đủ thứ rau cỏ. Đức Giêsu không muốn bác bỏ những việc thực hành này (việc nộp thuế thập phân hằng năm tại đền thờ được quy định bởi Đnl 14:22), nhưng Người đặt nó vào vị trí đúng đắn trong bối cảnh của một mối quan hệ đích thực của lòng tin vào Thiên Chúa và lòng bác ái đối với tha nhân. Dâng của lễ mà không có sự dấn thân trong hành trình hoán cải thì có thể là cái cớ để bỏ qua việc tuân giữ các giới luật cơ bản, như công bằng và lòng yêu mến Thiên Chúa, là những thực tại đòi hỏi một sự biến đổi cõi lòng mình và thế giới một cách dứt khoát và liên tục.
Một lời tố cáo khác của Đức Giêsu liên quan đến khuynh hướng tìm kiếm danh dự, theo đuổi các phần thưởng, chăm lo vẻ bề ngoài của quyền lực, giữ những chỗ ngồi danh dự. Mối quan tâm quá đáng về vẻ bề ngoài này là hậu quả của một sự sa đoạ bên trong khiến người ta trở nên giống như một cái mồ mả, bên ngoài trông đồ sộ sang trọng, nhưng bên trong hoàn toàn thối rữa. Trong khi những cái bên trong thì người khác không thấy được, người ta chăm chút cho những cái bên ngoài vì những mục đích ích kỷ.
Những lời chỉ trích quyết liệt của Đức Giêsu khiến cho không chỉ những người Pharisêu mà cả những luật sĩ cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Đức Giêsu cũng tiếp tục nặng lời quở trách họ về việc họ thích chất lên vai những người khác những gánh nặng của việc tuân giữ lề luật, mà bản thân họ không đụng tới, cho thấy sự bất nhất giữa lời giảng dạy của họ và đời sống của họ. Luật là để phục vụ đời sống, duy trì và thăng tiến đời sống. Đức tin không bao giờ hạ giá con người; trái lại, đức tin khuyến khích mỗi người tăng trưởng viên mãn.
Ở đây chúng ta thấy một quan điểm tông đồ thực sự: đối diện với ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa và sứ mạng của Đức Giêsu và các môn đệ Người, những người Pharisêu và luật sĩ phải xét lại cách suy nghĩ của họ về mối quan hệ với Thiên Chúa và ơn cứu rỗi. Cơ hội để Đức Giêsu có phản ứng chỉ trích gay gắt này là việc ngài vào bàn ăn mà không rửa tay trước theo luật truyền thống.
Chỉ trích gay gắt đầu tiên của cảnh này (Lc 11:39-44), ngay trước khi bài đọc của chúng ta bắt đầu, được nhắm vào một quan niệm sai lạc của người Pharisêu về đời sống và về mối quan hệ với Thiên Chúa. Người Pharisêu ngạc nhiên (Lc 11:38) vì hành vi của Đức Giêsu, và ngay lập tức nhận được câu trả lời cứng rắn của Đức Giêsu (Lc 11:39). Tầm quan trọng mà Lc gán cho cuộc tranh luận này, giọng điệu phê bình của Đức Giêsu, lời Đức Giêsu nói về các ngôn sứ và các tông đồ dựa theo đức khôn ngoan của Thiên Chúa (Lc 11:49), tất cả điều này chứng tỏ sự nghiêm túc của Người. Điều được nhắm tới trong thái độ có vấn đề của những người đối thọai với Đức Giêsu là việc họ giới hạn ơn cứu rỗi vào việc tuân giữ Lề Luật bên ngoài, nó gây nguy hiểm cho sứ mạng phổ quát dựa trên ý muốn cứu độ của Thiên Chúa Giao Ước.
Vấn đề trước hết nảy sinh trên bình diện phân biệt giữa thanh sạch và ô uế, bên trong và cái bên ngoài, các quy luật áp đặt trên người khác nhưng lại không được thực hành bởi những người áp đặt chúng. Điều này làm ta nhớ lại thị kiến của ông Phêrô trước khi gặp viên đại đội trưởng Cornêliô, trong thị kiến ấy Phêrô thẳng thắn thưa với Chúa rằng “những gì ô uế và không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con!” (Cv 11:8). Trong đoạn Tin Mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu đưa ra câu trả lời rõ ràng: Mọi sự đều bởi tay Thiên Chúa làm ra, cả cái bên trong lẫn cái bên ngoài, vì thế mọi sự đều thanh sạch (x. Cv 10:15; Mc 7:15). Và Phêrô hiểu rằng, không được gọi ai là ô uế hay không thanh sạch (x. Cv 10:28). Việc tông đồ và truyền giáo là để tỏ lộ sự tốt lành của Thiên Chúa Cha, Đấng tạo dựng mọi sự, Đấng không muốn có những rào cản nghi thức hay sự phân cách bên ngoài nào. Người truyền giáo được kêu gọi sống gần với mọi người (x. Cv 10:46-47), vì Thiên Chúa không thiên tư thiên vị người nào (x. Cv 10:34).
Luca sử dụng một câu nói súc tích để diễn tả việc Thiên Chúa mở rộng ơn cứu độ phổ quát cho mọi người trong Đức Giêsu và sứ mạng của Hội Thánh Người: “Ðồ ngốc! Ðấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người” (Lc 11:40-41). Để nên thanh sạch, hãy thực hành lòng thương xót và sống bác ái. Trong nước Thiên Chúa, yếu tố quyết định các mối quan hệ giữa người với người, khắc phục các rào cản của sự phân biệt và chia cắt, chính là mầu nhiệm lòng nhân từ của Thiên Chúa, Đấng tự kết hợp với mọi người trong Đức Giêsu và ban lòng thương xót cho mọi người. Các môn đệ truyền giáo của Đức Giêsu được kêu gọi trao ban những gì mình có bên trong. Không chỉ bằng những của bố thí vật chất, nhưng trước hết là trao hiến thân mình: cuộc sống và trái tim của mình. Không yêu cầu phải có những hành vi đơn giản bên ngoài, hay thi hành những giới luật theo nghi thức; người môn đệ truyền giáo được đòi hỏi trao hiến toàn thân mình cho Đức Giêsu, linh hồn và thân xác, bên trong và bên ngoài, trái tim và cảm xúc, các mối quan hệ và quy tắc, vì sự cứu rỗi của mọi người trong sứ mạng truyền giáo.
(Trích 31 bài giảng của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)
Nguồn: Uỷ ban loan báo Tin Mừng


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 28 TN1
Bài đọcRom 2:1-11; Lk 11:42-46.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết xét mình trước khi xét người.
Nhiều người có thói quen nhận xét và phê bình người khác; nhưng ít bao giờ chịu xét mình. Để có thể chừa bớt thói quen này, Giáo Hội khuyên con người năng xét mình và xưng tội thường xuyên. Khi con người năng xét mình và xưng tội, ngoài lợi ích nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, hối nhân còn biết cảm thông với những yếu đuối và khuyết điểm của tha nhân: mọi người đều mang trong mình những yếu đuối và bất toàn; nếu mình dám xin ơn tha thứ từ Thiên Chúa, mình cũng phải tha thứ cho những người đã xúc phạm đến mình. Nhưng nếu con người không năng xét mình và xưng tội, họ cảm thấy thập toàn, và rất dễ nhìn xuống và phê bình tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta phải rất cẩn thận trong việc xét đoán tha nhân. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các người Do-thái phải biết xét mình và cẩn thận trong việc xét đoán các Dân Ngoại vì Thiên Chúa không thiên vị một dân tộc hay một hạng người nào. Ngài cứ theo sự thật mà xét xử những ai đã làm điều đó: Do-thái cũng như Dân Ngoại. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách mắng các biệt-phái khi họ quá chú trọng đến việc nộp thuế thập phân thì là, rau húng; mà bỏ quên những điều quan trọng hơn như lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Khi nhóm kinh-sư trách Chúa Giêsu đã đụng chạm đến họ, Ngài trách mắng luôn việc lạm dụng Lề Luật của họ. Các kinh-sư đã đối xử bất công với tha nhân khi phiên dịch Lề Luật: chất trên vai dân chúng những gánh nặng mà họ không muốn nhúng tay vào.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình.
1.1/ Bạn tưởng mình sẽ khỏi bị Thiên Chúa xét xử sao? Trình thuật hôm nay tiếp tục trình thuật tố tội của Dân Ngoại. Thánh Phaolô có ý muốn người Do-thái cũng phải cẩn thận xét tội của mình; chứ không phải chỉ căng miệng lên án các Dân Ngoại. Ngài muốn họ phải chú ý đến 3 điểm sau:
(1) Phải biết xét chính mình: Thánh Phaolô khuyên các người Do-thái: “Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình.” Khi lên án người khác, đương sự tự đặt mình vào chỗ quan tòa mà kết tội người khác. Nếu đã hiểu biết mà kết tội người khác, mình đừng bao giờ vi phạm những lầm lỗi như vậy. Nếu mình vẫn ngoan cố phạm tội đó, mình sẽ không thể nào tự bào chữa được, vì đã tự kết tội và ra bản án cho mình. Ví dụ, một người Do-thái kết tội Dân-Ngoại đã không nhận ra và thờ phượng Thiên Chúa cho phải đạo là phải chết, họ cũng phải mang án chết đó nếu họ không thờ phượng Ngài cho đúng đạo làm con.
(2) Thiên Chúa xét xử công minh: Nhiều người Do-thái tự cho Thiên Chúa có hai tiêu chuẩn phán xét: một cho Dân Ngoại, và một cho người Do-thái. Thánh Phaolô tuyệt đối đả phá quan niệm này, và bênh vực sự công bằng của Thiên Chúa. Ngài nói: ”Chúng ta biết rằng Thiên Chúa cứ theo sự thật mà xét xử những ai làm những điều đó. Còn bạn, hỡi người xét đoán những kẻ làm những điều đó trong khi chính mình cũng làm như vậy, bạn tưởng mình sẽ khỏi bị Thiên Chúa xét xử sao?” Người đời có thể phán xét theo hai tiêu chuẩn; nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm như thế; khi một người càng được hưởng đặc quyền như người Do-thái hay người tín hữu, họ càng phải biết sống tốt lành hơn.
(3) Đừng lạm dụng tình thương Thiên Chúa: Đứng trước tình thương bao la của Thiên Chúa, con người có thể có hai thái độ: hoặc cảm thấy xấu hổ và ăn năn trở lại, hoặc lạm dụng tình thương để ngày càng lấn sâu vào tội lỗi hơn, với hy vọng Thiên Chúa sẽ tha thứ hết. Đây là một trong hai tội phạm đến Thánh Thần và sẽ không được tha. Thánh Phaolô chất vấn những người có thái độ này: ”Hay là bạn coi thường lòng Chúa vô cùng nhân hậu, khoan dung, đại lượng, mà không nhận ra rằng: Thiên Chúa nhân hậu như thế là để thúc giục bạn hối cải sao? Thế nhưng bạn lòng chai dạ đá không chịu hối cải, và như vậy bạn càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên đầu bạn, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh.”
1.2/ Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm: Có nhiều người cắt nghĩa sai thánh Phaolô khi nhấn mạnh “con người nên công chính chỉ bằng niềm tin vào Thiên Chúa, sola fides” (Rom 3:21-22). Nhưng trước khi nói điều đó, Phaolô đã tuyên bố sự cần thiết của việc phải bền chí làm việc thiện trong trình thuật hôm nay: ”Ngày đó, Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm; những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời; còn những ai chống Thiên Chúa mà không vâng phục chân lý và chạy theo điều ác, thì Người sẽ nổi trận lôi đình, trút cơn thịnh nộ xuống đầu họ. Người sẽ bắt mọi kẻ làm điều ác phải gian nan khốn khổ, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. Nhưng Người sẽ ban vinh quang, danh dự và bình an cho tất cả những ai làm điều thiện, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp, vì Thiên Chúa không thiên vị ai.”
2/ Phúc Âm: Phải cẩn thận xét mình trước khi đoán xét tha nhân.
2.1/ Các người xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Là người lãnh đạo tinh thần, các người Pharisees giả sử phải biết đường và làm gương sáng cho dân chúng noi theo; nhưng họ đã không được như thế. Chúa Giêsu mời gọi họ hãy ngồi xuống xét mình về 3 điều:
(1) Phân biệt cái chính yếu và cái phụ thuộc: “Hỡi các người Pharisees! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ.”
(2) Tính thích danh vọng bề ngoài: ”Hỡi các người Pharisees! Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng.”
(3) Tính giả hình: ”Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay.”
2.2/ Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi: Một người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói: “Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa!” Các kinh-sư là những người hiểu biết Lề Luật; nhưng thay vì dùng Lề Luật để mưu cầu ích lợi cho dân; họ lại dùng Lề Luật để mưu cầu lợi ích cho chính bản thân họ.
Đức Giêsu thẳng thắn trách họ luôn: “Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.” Ví dụ, họ ra luật để cho người khác giữ; còn họ thì có một tiêu chuẩn khác để khỏi phải giữ (luật trừ).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta đừng bao giờ xét đoán người khác, nếu họ không nằm trong quyền hạn của chúng ta. Khi phải xét đóan, chúng ta hãy có đủ bằng chứng để xét đóan cách khôn ngoan và nhân từ; vì đấu nào chúng ta đong cho tha nhân, Thiên Chúa sẽ đong lại cho chúng ta bằng đấu đó.
– Nếu muốn người khác thế nào, chúng ta cũng phải thi hành như vậy. Đừng bao giờ đặt ra hai tiêu chuẩn: một tiêu chuẩn dễ dàng cho mình, và một tiêu chuẩn khó khăn cho người khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

16/10/2019 – THỨ TƯ TUẦN 28 TN
Th. Ma-ga-ri-ta A-la-cốc, trinh nữ  Lc 11,42-46


LỜI CHÚA ĐỔI MỚI CUỘC ĐỜI
“Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa.” (Lc 11,42)

Suy niệm: Sứ mệnh loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giê-su không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái. Có lúc người ta đón nhận và khen ngợi lời Ngài như “có uy quyền.” Thế nhưng, cũng có lắm khi người ta cho rằng lời ấy “chói tai.” Hôm nay một số người lại bảo rằng lời Ngài làm nhục họ. Để hiểu lời Đức Giê-su, ta phải đặt lời ấy trong một bối cảnh rộng lớn hơn: Ngài đến loan báo năm hồng ân, bao hàm cả ơn tha thứ. “Tội của con được tha” là Tin Mừng được loan báo cho mọi người. Ơn tha thứ của Thiên Chúa không áp đặt trên tội nhân, nhưng mời gọi họ mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Những lời “chói tai” lại là lời khai quang và chuẩn bị tâm hồn trở nên mảnh đất tốt đón nhận ơn tha thứ.
Mời Bạn: Không ít lần bạn thấy Lời Chúa “chói tai”, từ đó ngại ngùng đọc và suy niệm Lời Chúa. Hôm nay Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra điều Chúa muốn khi loan báo lời hồng ân. Quả thật, Lời Chúa vừa “vạch nát tâm can,” vừa có sức cứu độ.
Chia sẻ: Vì sao bạn ngại đọc và suy niệm Lời Chúa?
Sống Lời Chúa: Đọc lại đoạn Lời Chúa ngày hôm nay, và xét xem mình có vấp phải những lầm lỗi như Chúa vạch ra không, rồi tìm cách sửa đổi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giúp con yêu mến và chuyên cần suy niệm Lời Chúa. Ngay cả những lúc Lời Chúa mổ xẻ những lầm lỗi của con, xin cho con biết tri ân Chúa, và chân thành thưa với Chúa rằng chỉ có Chúa mới có những Lời ban sự sống đời đời. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)

Xao lãng lẽ công bình (16.10.20139 – Thứ Tư Tuần 28 TN)
Suy niệm:


Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu trách các nhà lãnh đạo.
Họ là những người Pharisêu, những nhà thông luật.
Họ được dân chúng kính nể vì học thức, vì chức vụ, vì đời sống đạo đức.
Nhưng họ cũng có những khiếm khuyết cần sửa đổi.


Đức Giêsu ba lần nói “Khốn cho” đối với người Pharisêu (cc. 42-44).
Khốn cho thứ nhất vì họ quá chú tâm giữ những điều lặt vặt, phụ thuộc,
mà xao lãng cái chính yếu và quan trọng.
Họ nộp thuế 10% về những thứ rau cỏ ngoài vườn để tỏ lòng đạo đức.
Tiền thuế này được dùng để giúp đỡ các tư tế và các thầy Lêvi.
Nhưng tiếc là họ không để ý đến sự công bình đối với tha nhân,
và lòng yêu mến đối với Thiên Chúa (c. 42).
Tương quan hai chiều của họ bị tổn thương.
Việc nộp thuế, dâng cúng cho nhiều cũng không sao kéo lại được.
Đức Giêsu đòi giữ cả hai, nhất là những bổn phận chính yếu:
“Các điều này phải làm mà các điều kia cũng không được bỏ.”


Khốn cho thứ hai vì họ thích tiếng khen từ người đời.
Không yêu mến Thiên Chúa, nhưng họ lại yêu mến ghế đầu nơi hội đường,
và yêu thích được chào hỏi nơi công cộng (c. 43).
Địa vị, tiếng tăm là điều họ tha thiết tìm kiếm.
Mọi việc họ làm đều nhằm tôn vinh cho cái tôi.
Chính vì thế một đời sống bề ngoài có vẻ sống cho Chúa,
kỳ thực lại là một tìm kiếm hư danh cho chính mình.
Khốn cho thứ ba gắn liền với sự giả hình trên đây.
Đức Giêsu ví họ với mồ mả người chết chôn dưới đất.
Vì không có gì làm dấu, nên chẳng ai biết đó là mồ mả để tránh.
Nhiều người giẫm lên nên bị ô nhơ mà không hay.


Nghe Đức Giêsu nói, một nhà thông luật cảm thấy bị xúc phạm.
Đức Giêsu cũng sẽ nói ba lần Khốn cho đối với các vị này.
Họ là những nhà chuyên môn giải thích luật và là thầy dạy dân chúng.
Khốn cho đầu tiên vì họ đã làm cho luật trở nên một gánh quá nặng.
Những giải thích của họ làm sinh ra bao cấm đoán và đòi buộc
vượt xa những gì chính bản văn lề luật đòi hỏi.
Thí dụ trong ngày sabát, có 39 loại công việc không được phép làm.
Luật thay vì là nguồn vui, nguồn hạnh phúc, thì lại trở nên ách nặng nề.
Nhiệm vụ của người thông luật không phải chỉ là dạy luật,
mà còn là giúp người khác giữ luật.
Với thái độ đứng ngoài, không muốn động vào,
không muốn trợ giúp, dù bằng một ngón tay (c. 46),
người thông luật sẽ không làm cho người ta cảm thấy tình yêu Thiên Chúa.


Những lời Khốn cho của Đức Giêsu cách đây hai mươi thế kỷ
vẫn còn nguyên giá trị cho Hội Thánh của các Kitô hữu hôm nay.
Để có thể xây dựng một Hội Thánh Việt Nam cho kỷ nguyên mới,
chúng ta cần tránh những lỗi của người xưa.


Cầu nguyện:


Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.


Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.


Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.


Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.


Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.


Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG MƯỜI
Yêu Thương Bằng Con Đường Dâng Hiến
Lòng bác ái và sự hy sinh của Mẹ Tê-rê-sa, phát xuất từ tình yêu đối với Đức Kitô, đã trở nên một thách đố cho thế giới. Thế giới này vẫn thường được thấy như là một thế giới của ích kỷ và dục vọng, một thế giới đầy tham lam, đầy những đam mê danh lợi và quyền lực.
Đứng trước những sự dữ của thời đại chúng ta, chứng tá của Mẹ Tê-rê-sa nêu bật – không phải bằng lời nói mà bằng chính những hành động hy sinh cụ thể – giá trị siêu vượt của tình yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Tình yêu này kêu gọi các tội nhân hoán cải và mời họ sống theo Chúa Kitô: “Mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18).
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 16/ 10
Thán Hedviges, nữ tu,
Thánh Margarita Alacoque, nữ tu
Rm 2, 1-11; Lc 11, 42-46.

LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu nói: Khốn cho các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật! Các ngươi chất lên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các ngươi, thì dù một ngón tay cũng không đụng vào.”
          Chúa Giêsu đang nhắc nhở tất cả những ai đang hiểu biết; đang làm trưởng các cộng đoàn cần phải để ý đến những gì mình đòi hỏi nơi những thành viên trong nhóm, trong đoàn phải hy sinh cái này cái khác, phải thực hiện điều này điều nọ, còn chính mình thì lại không thực thi, không đóng góp mà lại đòi có một tổng kết tốt.
          Lạy Chúa Giêsu, chất gánh nặng trên vai người anh em là một tật xấu mà tất cả mỗi người trong chúng con đều đang mắc phải. Xin Chúa cho chúng con biết sửa mình, canh tân đời sống mình bằng Lời Chúa, để sống đức ái hầu giúp nhau trong việc thực thi Lời Chúa.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 16-10
Thánh MAGARITA MARIA ALACOQUE
Đồng Trinh (1647 – 1690)

Thánh Magarita sinh ngày 22 tháng 6 năm 1674 tại Lauthecour miền Charolais. Ngài là con thư năm của ông Claude Alacoque, một viên chức triều đình. Khác với các trẻ em cùng tuổi chỉ ham chơi, Magarita dường như hiểu rằng chỉ có yêu mến Chúa mới là điều quan trọng. Biết được điều gì không đẹp lòng Chúa là Ngài bỏ ngay. Mới 4 tuổi, Ngài đã lần chuỗi Mân côi hàng ngày và thường lẻn vào rừng để suy gẫm cầu nguyện.
Lên 8 tuổi, Magarita gặp thử thách lớn lao. Cha Ngài từ trần. Không đòi được tiền nợ. Mẹ Ngài phải dẫn con về quê ngoại, sống với những người tham lam quê mùa. Họ rút tỉa gia tài của gia đình Ngài đến nỗi phải đi ở đợ. Magarita được gửi học tại tu viện thánh Clara. Nơi đây, Ngài được rước lễ lần đầu và khoảng 9 tuổi.
Magarita lại gặp một thử thách nữa vào năm 14 tuổi. Khi ấy Ngài ngã bệnh nặng. Nhưng rồi Ngài đã được chữa lành sau khi khấn hứa sẽ trở thành con Đức Mẹ. Khỏi bệnh Ngài bị cám dỗ sống đời vui chơi phù phiếm. Không chịu thỏa hiệp với nếp sống như thế, Ngài bị người chung quanh đối xử tàn tệ. Muốn đi dự lễ, Ngài phải mượn áo. Có những ngày Ngài bị bỏ đói. Khi mẹ lâm bệnh, Ngài phải đi ăn xin để chạy chữa cho mẹ. Dầu vậy, Ngài chỉ ham đọc truyện các thánh và muốn bắt chước các Ngài, sống đời hy sinh bác ái.
Biết Chúa gọi mình, Magarita cố gắng để mình đỡ bất xứng với ơn gọi. Nhân dịp năm thánh, Ngài xưng tội chung và đã mất 15 ngày để xét mình. Hai mươi tuổi, Ngài được thêm sức và nhận thêm tên thánh Maria. Sau nhiều chiến đấu cực nhọc, ngay với chính mình, tháng 6 năm 1671, Magarita vào dòng thăm viếng ở Paray-le-Monnical, sống với 40 nữ tu quý phái mà một số không có ơn kêu gọi:
Trong cuộc tĩnh tâm dọn mình khấn dòng, Chúa nói với Ngài: – Này là vết thương cạnh sườn Cha, nơi đây con hãy ẩn náu bây giờ và mãi mãi.
Ngày 6 tháng 11 năm 1672, Ngài khấn dòng. Ngài được Chúa Giêsu cho thấy một thánh giá phủ đầy hoa và nói: Đây là giường các bạn tình trinh khiết của ta nằm, dần dần hoa rụng xuống và chỉ còn lại những gai. Thị kiến này tiên báo cuộc đời đầy chông gai thánh nữ sẽ trải qua. Nhưng Ngài chỉ biết hiến thân cho Chúa “như một tấm vải căng trước mặt họa sĩ”. Ngài sẽ còn xuất thần và được nhiều thị kiến nữa.
Thị kiến đầu tiên trong bốn thị kiến quan trọng xảy ra vào dịp này, Chúa Giêsu tỏ trái tim Người ra: – Trái tim Cha cháy lửa yêu thương đối với loài người và cách riêng đối với con, đến nỗi không còn giữ trong lòng được nữa, ngọn lửa này con phải trải rộng ra.
Chúa Giêsu đã xin thánh nữ trái tim của Ngài và đặt vào lòng mình. Ngài cảm thấy như ở trong hỏa lò. Khi Chúa Giêsu trả lại trái tim, MAGARITA phải chịu mãi cơn đau đớn bên sườn và phải trích máu cho nhẹ bớt cơn đau.
Trong thị kiến thứ hai, thánh nữ viết: – Người quả quyết với tôi rằng: chúng ta phải tôn kính trái tim Chúa dưới hình thể trái tim con người.
Thị kiến thứ ba diễn ra ngày thư sáu đầu tháng nào đó không được rõ. Đức Kitô dạy Ngài rước lễ mỗi thứ sáu đầu tháng.
Những thị kiến này kéo theo một thứ đau đớn thân xác. Thánh nữ đều vui nhận hết. Tuy nhiên Ngài còn bị dằn vặt về tinh thần. Bề trên và chị em trong dòng cho rằng: Ngài bị ám ảnh vì bệnh hoạn, đến mùa thu năm 1674, Thiên Chúa hứa gửi một tôi tớ để trợ lực thánh nữ. Tháng 2 năm 1675, cha Claude la Colombiere khấn trọn tại Lyon. Ngay sau đó, cha được cử về làm bề trên dòng tên ở Paray, dưới sự ngạc nhiên của tất cả những ai đã theo dõi việc làm sáng giá của cha ở Paris.
Không hề có kinh nghiệm về những cuộc xuất thần, cha có trí khôn rất bén nhậy và bằng lòng với việc yêu mến Chúa Kitô trong “mây mù của sự bất tri”. Khi gặp Magarita, cha đã nói với mẹ Samaise: – Chị là một linh hồn ưu tuyển.
Cha đã xác quyết cho thánh nữ về đường lối của Ngài.
Thị kiến trọng đại nhất diễn ra trong tuần bát nhật kính Mình thánh Chúa năm 1676. Trước Thánh Thể trưng kính trên bàn thờ, thánh nữ đã nghe những lời này: – Này là trái tim đã yêu thương loài người không còn tiếc rẻ gì, đến độ mỏi mòn tiêu hao để làm chứng tình yêu đối với họ.
Và xin thánh nữ dành riêng ngày thứ sáu sáu tuần bát nhật kính Thánh thể, để tôn thờ trái tim Người. Hôm đó, người ta rước lễ và long trọng làm việc đền tạ. Cha Lolombière dạy thánh nữ viết ra tất cả các thị kiến của Ngài rước khi cha dời đi Luân Đôn .
Cuộc bách hại của cộng đoàn lên tới cao điểm ngày 20 tháng 11 năm 1677, Chúa đã đòi thánh nữ Magarita dâng mình làm hiến vật cho sự công thẳng của Chúa, để đền bù những tội phản nghịch cùng đức ái của cộng đoàn. Khi thánh nữ quỳ xuống để làm như vậy, thì mọi người nghĩ rằng: Ngài bị mất trí. Đêm hôm sau thật khó tin nổi. Ngài nói rằng: đau khổ trong đời gộp lại cũng không thể sánh nổi với những gì Ngài đã phải chịu đêm ấy.
Lễ lên trời năm 1678, mẹ Saumaise rời chức vụ. Ngày 17 tháng 6 mẹ Greyfié được Chúa quan phòng đưa lên để làm sáng tỏ vấn đề. Trắc nghiệm thánh nữ, mẹ thấy thánh nữ rất mực khiêm tốn. Mẹ còn quyết định rằng: thánh nữ phải được lành bệnh hoàn toàn trong một thời gian nhất định, để chứng tỏ rằng các thị kiến là chân thực.
Năm 1684, mẹ Greyjié rời Paray, một thế hệ các nữ tu trẻ xuất hiện. Magarita được chỉ định làm giáo tập. Ngày 20 tháng 6 năm 1685, lễ thánh Magarita nhằm ngày thứ sáu, Magarita dạy các tập sinh, thay vì tặng quà cho Ngài, hãy dâng cho Chúa một vinh dự. Họ dọn một bàn thờ nhỏ và đặt hình Trái tim bị thương tích có mão gai và lửa chung quanh. Tháng 6 năm 1686, các nữ tu tôn kính trái tim Chúa trong nguyện đường. Ngày 07 tháng 9 năm 1688, một nguyện đường nhỏ đầu tiên trong vườn được thánh thiến để kính trái tim.
Ngày 08 tháng 10 năm 1960, Magarita mang bệnh và ngày 17 tháng 10 năm đó Ngài từ trần, lúc 43 tuổi. Các nữ tu thấy Ngài trở nên xinh đẹp lạ lùng. Ngài được phong chân phước năm 1864 và tuyên thánh 1920.
*************************
Ngày 16-10
Thánh HEDVIGA
Nữ Tu (1174 – 1243)

Thánh nữ Hedviga sinh tại Bavaria vào khoảng năm 1174. Ngay từ hồi 4 tuổi, Ngài đã được gửi học tại tu viện. Lên 12 tuổi, Ngài kết hôn với Henri, bá tước miền Silêsia.
20 tuổi, thánh nữ Hedviga đã là mẹ của sáu người con, ba trai ba gái. Năm 1209, họ quyết định hiến thân cho Thiên Chúa để sống đời khiết tịnh nhưng vẫn chu toàn trách vụ thuộc bổn phận mình. Họ sống như anh em, lo cho con cái lẫn các gia nhân sống đạo đức mà không dung túng cho bất cứ một chuyện dèm pha nào. Mỗi ngày nữ bá tước nuôi cho 13 người ăn, để kính Chúa Giêsu và 12 tông đồ. Ngài mặc một áo nhặm bên trong các y phục thường ngày, khiến Ngài phải chịu nhiều hy sinh lớn lao.
Nhưng các đau khổ tinh thần còn lớn lao hơn, như xé nát lòng người. Vị bá tước dầu đáng kính nhưng lại có khuyết điểm là thương riêng Conrad, người con thứ hơn các người con khác. Ông coi Conrad như người kế vị mình. Sự thiên tư này đã là nguồn gốc gây nên mối thù oán… dữ dằn giữa người anh út với anh mình. Họ gây chiến đấu với nhau và Conrad bại trận. Sau đó ít lâu, Conrad từ trần trong tinh thần sám hối. Nhưng những tranh chấp tương tàn và những cái tang này đã làm cho vị bá tước còn tránh xa thế sư hơn nữa.
Thánh nữ Hedviga thiết lập một nhà dòng khổ tu ở gần Breslau… Gertrude, người con gái duy nhất còn sống cho tới khi thánh nữ từ trần sẽ làm bề trên tu viện này. Nơi đây các em gái mồ côi và nghèo túng tìm được chỗ dung thân, chúng được đào tạo để trở nên những bà mẹ tốt trong gia đình hơn là để theo đuổi ơn kêu gọi. Riêng thánh nữ Hedviga lại đóng vai trò người tôi tớ rửa chân cho các người phong cùi. Lời Ngài mang lại hạnh phúc cho những ai tới gần và gặp gỡ Ngài.
Trong một cuộc chiến, bá tước Henri bị bá tước miền Warzava cầm tù. Ong này từ chối mọi thỏa hiệp, để cứu cha, công tử Henri II muốn khởi binh. Nhưng thánh nữ Hedviga muốn tránh đổ máu nhiều hơn nữa, Ngài đích thân đến gặp kẻ chiến thắng. Gặp Ngài, ông ta bỗng dịu lại và chấp nhận thỏa hiệp. Vị bá tước được trả tự do. Nhưng vì vết thương quá trầm trọng, ông qua đời năm 1238.
Hedviga đau lòng, nhưng vâng ý Chúa, Ngài mặc áo dòng ở Treibnitz, và dù không tuyên bố lời khấn, Ngài trung thành với các bổn phận, dưới sự điều khiển của con mình là Gertrude. Làm những việc thấp hèn, phục vụ những người nghèo khổ, Ngài nói với các nữ tu: – Các chị là hôn thê của Chúa Giêsu, còn tôi chỉ là tôi tớ Người.
Sau ba năm goá bụa, thánh Hedviga còn chịu một nỗi thống khổ chót, đó là cái chết của Hênri II… Ông đã ngã gục trong cuộc chiến chống lại người Rartares. Thánh Nữ Hedviga đã linh cảm thấy trước về cái chết này. Một bản tường thuật ghi lại rằng, vào một buổi tối hôm khởi chiến, thánh nữ đánh thức một chị bạn và nói: – Demundis ơi ! chị biết, tôi đã mất con rồi. Đứa con yêu dấu đã xa tôi như con chim gãy cánh. Tôi sẽ không còn thấy nó trên trần gian này nữa.
Ba ngày sau, một nguồn tin xác quyết này, thánh Hedviga nói: – Đó là ý Chúa. Điều Chúa muốn và vui thỏa cũng phải làm cho chúng ta mãn nguyện.
Và vui mừng trong Chúa Ngài nói: – Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã ban cho con được những đứa con như vậy. Suốt đời nó thương mến con và không hề làm gì cho con đau lòng. Con muốn có nó trong đời. Nhưng con hết lòng chúc tụng Chúa về việc đổ máu của nó, khiến nó được kết hợp với Chúa trên trời là đấng tạo thành nên nó.
Thánh nữ vẫn tiếp tục theo đuổi con đường thăng tiến. Ngài đã trải qua những buổi cầu nguyện thâu đêm. Các sử gia còn ghi lại nhiều phép lạ thánh nữ đã thực hiện. Cuối cùng, Ngài được mạc khải cho biết trước giờ chết của mình.
Dầu không có gì trầm trọng, Ngài đã xin được lãnh các bí tích sau hết. Khi vừa rước Mình Thánh Chúa và cầu nguyện được hai tiếng: “Lạy Chúa, Lạy Chúa” thì Ngài từ trần. Hôm đó là ngày 15 tháng 10 năm 1243, năm 1267, nghĩa là 24 năm sau, Ngài được suy tôn lên bậc hiển thánh .
(daminhvn.net)


16 Tháng Mười
Xin Cho Chúng Con Lương Thức Hằng Ngày
Hôm nay là ngày quốc tế về lương thực do tổ chức Lương Nông của Liên Hiệp Quốc đề xướng.
Nói đến lương thực, nhất là trong một quốc gia nghèo đói như Việt Nam, có lẽ tự nhiên, ai trong chúng ta cũng nghĩ đến cái đói trên thế giới.
Ðói không chỉ là một trạng thái cần ăn uống, nhưng được các chuyên viên về thực phẩm và sức khỏe định nghĩa như là một tình trạng thường xuyên của một người không đủ ăn để có thể có một cuộc sống lành mạnh. Danh từ chuyên môn thường được dùng để chỉ tình trạng này là dưới mức dinh dưỡng. Nạn nhân dễ thấy nhất của tình trạng này là các trẻ em của những nước nghèo.
Mỗi năm người ta tính có đến 15 triệu trẻ em chết vì nhiều nguyên do có liên quan đến tình trạng thiếu dinh dưỡng. Mỗi ngày, trên khắp thế giới, có khoảng 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Số người chết vì đói ăn cũng tương đương với số thương vong nếu cứ ba ngày có một trái bom hạt nhân được ném xuống một vùng đông dân cư.
Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến nạn đói kém. Người ta cho rằng nguyên nhân chính nằm trong chính sách kinh tế, chế độ chính trị, xã hội. Nhưng tựu trung, căn rễ sâu xa nhất vẫn là sự ích kỷ của con người. Nếu một phần mười những người giàu có trên thế giới biết san sẻ cho những người nghèo, thì có lẽ thế giới này không còn có những trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu ngay cả trong một quốc gia, người ta biết dùng tiền bạc để mua cơm bánh cho con người hơn là đầu tư vào khí giới, thì chắc chắn sẽ không còn cảnh người chết đói nữa.
Tại một vài quốc gia kỹ nghệ đang chuyển mình để bước vào cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ ba, người ta thường nói đến kỷ nguyên điện toán, thụ thai trong ống nghiệm… Thế nhưng, tại rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói ăn… Thế giới của chúng ta quả là một nhân thể bệnh hoạn. Một nơi nào đó trong cơ thể, một số bộ phận phát triển một cách dư dật, một nơi khác, nhiều cơ phận đang chết dần chết mòn vì thiếu tiếp tế.
Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói cho bằng vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương của đồng loại. Những người dư dật nhưng không biết san sẻ cũng là những người đang chết dần trong ích kỷ. Con người cần có cơm bánh để sống đã đành, nhưng con người cũng cần có tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống.
Chúng ta phải làm gì để được sống? Dĩ nhiên, chúng ta phải có đủ cơm bánh hằng ngày. Nhưng câu trả lời mà mỗi người Kitô phải tự nói với mình là: để được sống, tôi cần phải làm cho người khác được sống. Ðó là sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vì ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét