17/10/2019
Thứ Năm tuần 28 thường niên
Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo
Lễ nhớ
* Giám mục
I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a đã bị án quăng làm mồi cho thú dữ, tại Rôma,
quãng năm 110. Tại các chặng dừng chân trên con đường tiến đến nơi hành hình,
người đã gửi bảy thư cho nhiều giáo đoàn. Trong các thư đó, người nói về Chúa
Kitô, về Hội Thánh và về đời sống Kitô hữu một cách khôn ngoan và thông thái.
Trong các thư đó còn có một trong những bài tình ca thốt lên từ một trái tim thấm
nhuần tinh thần Kitô giáo: “Hãy để tôi lãnh nhận ánh sáng tinh tuyền. Nơi tôi
chỉ còn một dòng nước sống động đang thầm thì: Hãy đến với Chúa Cha”.
BÀI ĐỌC I: Rm 3,
21-30a (Hl 21-29)
“Con người nhờ đức tin mà được
công chính hoá, chứ không phải bởi việc làm theo lề luật”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, hiện
giờ sự công chính của Thiên Chúa đã tỏ hiện không tuỳ vào lề luật, nhưng có lề
luật và các tiên tri làm chứng. Sự công chính của Thiên Chúa nhờ tin vào Đức
Giêsu Kitô sẽ ban cho mọi kẻ tin vào Người, không có gì phân biệt: vì mọi người
đều phạm tội và đã thiếu mất vinh quang của Thiên Chúa, họ được công chính hoá
cách nhưng không, do ơn nghĩa của Người và nhờ sự cứu chuộc nơi Đức Giêsu Kitô,
Đấng Thiên Chúa đã đặt làm của lễ đền tội, nhờ tin vào máu của Người, để tỏ cho
thấy đức công chính của Người, bởi Người tha thứ những tội đã phạm khi trước,
trong thời kỳ nhịn nhục của Thiên Chúa, ngõ hầu tỏ ra đức công chính của Người
trong lúc này, để tỏ ra chính Người là Đấng công chính và công chính hoá người
tin vào Đức Giêsu Kitô.
Vậy đâu là việc tự hào
của ngươi? Nó đã bị loại đi rồi. Bởi lề luật nào? Có phải lề luật chỉ việc làm
không? Không phải, song là bởi lề luật đức tin. Quả thế, chúng tôi thâm tín rằng:
con người nhờ đức tin mà được công chính hoá, chứ không phải bởi việc làm theo
lề luật. Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do-thái thôi sao? Người
không phải là Thiên Chúa các dân ngoại nữa sao? Ắt hẳn Người là Thiên Chúa các
dân ngoại nữa: vì chỉ có một Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 129,
1-2. 3-4ab. 4c-5
A+B=Bởi vì Chúa rộng
lượng từ bi, và Chúa rất giầu ơn cứu độ (c. 7).
A=Từ vực sâu, lạy
Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu! Dám xin Chúa hãy lắng
tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con.
B=Nếu Chúa nhớ hoài sự
lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để
cho thiên hạ tôn thờ kính yêu.
A=Con hy vọng rất nhiều
vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Ngài. Linh hồn con mong đợi Chúa, hơn
người lính gác mong trời rạng đông. Hơn lính gác mong hừng đông dậy, Israel
đang mong đợi Chúa.
A+B=Bởi vì Chúa rộng
lượng từ bi, và Chúa rất giầu ơn cứu độ (c. 7).
ALLELUIA: Ga 14, 5
-Chúa phán: “Thầy
là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
– Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc
11, 47-54
“Sẽ bị đòi nợ máu của các tiên
tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa phán: “Khốn
cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ các ngươi
đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những hành động của tổ phụ
các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các ngươi thì xây mồ mả
cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến với chúng
các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì chúng giết đi, người
thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu của tất cả các
tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của Abel cho đến máu của
Dacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện. Phải, Ta bảo các
ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu. Khốn cho các ngươi! Hỡi những tiến sĩ
luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu biết. Chính các ngươi đã không được
vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại”.
Khi người phán bảo
cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người
một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra
bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng. Đó là lời Chúa.
*******************************
Thánh Inhaxiô Antiôkia, giám mục, tử đạo
BÀI ĐỌC I: Pl 3, 17 –
4, 1
“Quê hương chúng ta ở trên trời”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, anh
em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh
em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường nói với anh em, và giờ đây
tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Đức
Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh
danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời
này. Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng
Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của
chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có,
để bắt muôn vật suy phục Người.
Bởi thế, anh em thân mến
và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến,
hãy vững vàng trong Chúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 2-3.
4-5. 6-7. 8-9
A+B=Chúa đã cứu tôi
khỏi mọi điều lo sợ (c. 5b).
A=Tôi chúc tụng Chúa
trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi
hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
B=Các bạn hãy cùng tôi
ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm
lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.
A=Hãy nhìn về Chúa để
các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và
Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
B=Thiên Thần Chúa hạ
trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm
thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai nương tựa ở
nơi Người.
A+B=Chúa đã cứu tôi khỏi
mọi điều lo sợ (c. 5b).
ALLELUIA : Gc 1, 12
– Phúc cho người biết
kiên tâm chịu cám dỗ thử thách, vì khi thí luyện thành công, họ sẽ lĩnh triều
thiên sự sống. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 12, 24-26
“Nếu hạt lúa mì thối đi, thì sẽ
sinh nhiều bông hạt”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: “Thật, Thầy nói thật với các con: Nếu hạt lúa mì rơi
xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi,
thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống
mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Thầy, hãy
theo Thầy, và Thầy ở đâu, thì kẻ phụng sự Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Thầy,
Cha Thầy sẽ tôn vinh nó”. Đó là lời Chúa.
Suy niệm
Phaolô kết thúc đoạn
trình bày trong Rm 1:18–3:20 bằng một lời phát biểu ấn tượng: “Do Thái cũng như
Hy Lạp… tất cả đều bị tội lỗi thống trị” (Rm 3:9). Nếu đúng là như thế, có vẻ
như không ai có thể được cứu rỗi nếu chỉ dựa vào khả năng con người. Nhưng
Phaolô tin rằng sự can thiệp của Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô đã khắc phục
tình hình vô vọng này của loài người: “Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên
Chúa đã được thể hiện” (Rm 3:21). Như vậy, Phaolô đặt quyền năng cứu độ của
Thiên Chúa tương phản với tình trạng nô lệ tội lỗi. Công trình giải thoát mạnh
mẽ của Thiên Chúa diễn ra hôm nay, vì sáng kiến tự do của Người đã mặc lấy hình
thức lịch sử nơi Đức Kitô Đấng đã chết và sống lại (x. Rm 3:24-25; 4:25). Khi một
người gắn bó với sáng kiến ấy của Thiên Chúa, đời sống của họ hoàn toàn thay đổi:
họ được giải thoát khỏi quyền lực thống trị của tội lỗi và sự chết (x. Rm 3:24)
và sống như một người bạn trung tín của Thiên Chúa và người thân cận, theo
cái lôgích tình liên đới của giao ước, nghĩa là, như những “người công chính”
(Rm 3:26).
Ở đây Phaolô trình bày
một thần học hoàn toàn đối lập với não trạng của thời đại ngài. Do Thái giáo thời
kỳ sau đã giản lược Lề Luật của Thiên Chúa vào sự thống trị tuyệt đối, tách rời
Lề Luật khỏi mối quan hệ cấu thành và nguyên thuỷ với lịch sử và giao ước của
Thiên Chúa, cho rằng Lề Luật tự nó có giá trị. Kết quả là Lề Luật thay thế sự
vâng phục Thiên Chúa với việc tuân giữ các quy định và các điều cấm kỵ một cách
chi ly và cứng nhắc. Lối suy nghĩ này dẫn đến sự thổi phồng tính tự mãn của
loài người trước số phận cuộc đời của một người. Cứu chuộc dựa vào “các việc
làm của Lề Luật”, vốn là đặc trưng của Do Thái giáo thuộc trường phái các
rabbi, trên thực tế nó biến loài người trở thành một ông vua tôn giáo chuyên chế,
quên mất Thiên Chúa và coi mình là chủ thể của ân sủng. Thái độ bè phái và loại
trừ phát sinh từ đó tạo ra một đường ranh phân biệt rõ ràng giữa người Do Thái
hiểu biết và tuân giữ Lề Luật, và những người ngoại giáo tất yếu phải hư mất vì
không có Lề Luật.
Thánh Tông Đồ trình
bày cho chúng ta một sự hiểu biết thần học về công chính hóa, như là một chọn lựa
thay thế cho giáo lý Do Thái giáo này của thời ngài. Ngài nại đến đức công
chính cứu độ của Thiên Chúa và chỉ ra đức tin như là khả năng cứu chuộc
duy nhất có thể có để thoát khỏi sự thống trị của tội và số phận phải chết đời
đời. Về thực hành, Phaolô bác bỏ hình ảnh nghiêm khắc của một vị Thiên Chúa
không có lòng thương xót; trái lại, ngài bày tỏ khuôn mặt thật của Thiên Chúa,
khuôn mặt của một người Cha dùng tình yêu để hành động và can thiệp cho loài
người tội lỗi. Đứng trước sáng kiến kỳ diệu này của Thiên Chúa, người Do Thái
cũng như dân ngoại đều ở trên cùng một mặt bằng; cả hai đều cần ơn cứu độ như
là một món quà và luôn luôn được kêu gọi đến với đức tin bởi vì cả hai đều ở dưới
luật của tội. Trong tiến trình hoán cải trở thành phổ quát này, Ítraen được cứu
và lấy lại chỗ đứng chính đáng của nó trong sự tuyển chọn của Thiên Chúa (x. Rm
9–11). Ítraen sẽ được cứu cùng với mọi dân tộc trên trái đất này. Sự tuyển chọn
Ítraen trở thành một dấu chỉ hiệu quả cho sự khởi đầu của ơn cứu độ cho người
Do Thái cùng với các dân ngoại.
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô viết:
Từ việc chia sẻ cách
nhìn này của Chúa Giêsu, Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta trong các bài viết
của ngài một mô tả về đời sống đức tin. Qua việc chấp nhận hồng ân đức tin, các
tín hữu được biến đổi thành một tạo vật mới. Họ nhận được một con người mới, là
con cái [Thiên Chúa]; họ trở nên con cái trong Chúa Con. Cụm từ “Abba, Lạy
Cha”, là lời rất đặc trưng của kinh nghiệm của Chúa Giêsu, trở thành trung tâm
của kinh nghiệm Kitô giáo (x. Rm 8:15). Đời sống trong đức tin, như một đời con
thảo, là một sự nhìn nhận hồng ân nguyên thủy và triệt để, là nền tảng của cuộc
đời con người, và có thể được tóm tắt trong câu của Thánh Phaolô gửi tín hữu
Côrinthô: “Có gì mà anh em đã không nhận được?” (1 Cr 4:7). Đây chính là trung
tâm của cuộc tranh luận của Thánh Phaolô với những người Biệt Phái, cuộc thảo
luận về ơn cứu độ bằng đức tin hoặc bằng việc làm của Lề Luật. Điều mà Thánh
Phaolô bác bỏ là thái độ của những người tự coi mình là công chính trước mặt
Thiên Chúa qua trung gian của hành động đúng của mình. Những người như thế,
ngay cả khi họ tuân giữ các điều răn và làm những việc lành, tự đặt mình ở
trung tâm, mà không nhận ra rằng nguồn gốc của sự tốt lành là Thiên Chúa. Những
người làm như thế, muốn thành nguồn gốc của sự công chính riêng của họ, họ
nhanh chóng thấy rằng sự công chính này trở nên khô cằn và họ không thể thậm
chí giữ được lòng trung thành với Lề Luật. Họ tự khép kín mình và tự cô lập đối
với Chúa và với tha nhân, kết quả là cuộc đời của họ trở nên trống rỗng và những
công việc của họ trở nên cằn cỗi như một cây sống xa nước. Thánh Augustinô cũng
đưa ra bằng ngôn từ ngắn gọn và hiệu quả của ngài: “Ab eo qui fecit te,
noli deficere nec ad te”, “Đừng quay lưng lại với Đấng đã dựng nên bạn, ngay cả
quay về phía chính mình”. Khi một người nghĩ rằng bằng cách quay lưng lại với
Thiên Chúa họ sẽ tìm thấy chính bản thân họ, cuộc đời người ấy bắt đầu sụp đổ
(x. Lc 15:11-24). Khởi đầu của ơn cứu độ là mở lòng ra với một cái gì có trước,
với một món quà nguyên thủy là món quà đảm bảo cho cuộc sống và duy trì nó
trong đời. Chỉ bằng cách mở lòng của chúng ta ra cho nguồn gốc này và qua việc
nhìn nhận nó, con người mới có thể được biến đổi, nhờ để cho ơn cứu độ hoạt động
trong mình và làm cho cuộc đời mình sinh hoa trái, đầy những hoa trái tốt. Ơn cứu
độ nhờ đức tin có nghĩa là công nhận tính ưu việt của hồng ân của Thiên Chúa.
Như Thánh Phaolô đã tóm lược: “Nhờ ân sủng mà anh em được cứu độ qua đức tin;
và đó không phải bởi anh em, mà là bởi ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2:8). [Lumen
Fidei, số 19. Bản dịch tiếng Việt của uBGLĐT/HĐGMVN.]
Thánh Phaolô đề nghị
cho các tín hữu Rôma những chân trời phổ quát của ân sủng của Thiên Chúa, là nền
tảng của sứ mạng được Chúa trao cho ngài và thông truyền cho Hội Thánh được
sinh ra từ cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu và được sai đến với thế giới bởi Thần
Khí của Chúa Phục Sinh.
(Trích 31 bài giảng
của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)
Nguồn: Uỷ ban loan
báo Tin Mừng
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 28 TN1
Bài đọc: Rom
3:21-30; Lk 11:47-54.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lề Luật
không đủ sức mạnh giúp chúng ta nên công chính.
Một trong những chủ đề
chính mà Chúa Giêsu cũng như thánh Phaolô tranh cãi nhiều với người Do-thái, là
vai trò của Lề Luật trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Người Do-thái tin họ
có thể trở nên công chính bằng việc giữ cẩn thận tất cả các Lề Luật của Thiên
Chúa. Chúa Giêsu cũng như thánh Phaolô tuyên bố Lề Luật không thể giúp cho con
người nên công chính; vì không ai có thể giữ trọn vẹn mọi Luật. Để nên công
chính, mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp, cần tin vào Đức Kitô. Nếu Lề Luật có
đủ sức mang ơn cứu độ, Thiên Chúa không cần phải sai Con của Ngài xuống thế
gian để chuộc tội cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn
chúng ta nhận ra sự bất toàn của con người trong việc thi hành Lề Luật của
Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô nhận xét: có Luật hay không, cả
Do-thái lẫn Dân Ngoại đều phạm tội; vì thế, để được hưởng ơn cứu độ, mọi người
phải tin vào Đức Kitô: ”Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công
chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất
luận là ai.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo các kinh-sư đã lạm dụng Lề Luật để
bắt bớ và giết các ngôn sứ Thiên Chúa đã liên tục gởi tới cho con người; họ còn
dùng Lề Luật để bẻ cong sự thật và ngăn cản con người không cho tới với Thiên
Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Con người được công chính hóa nhờ niềm tin vào Đức Kitô.
1.1/ Cả Do-thái và Dân
Ngoại đều cần tin vào Đức Kitô: Sau khi đã
trình bày về tội của Dân Ngoại (Rom 1:18-32) và tội của người Do-thái
(2:1-3:8), thánh Phaolô kết luận cả hai cùng bị tội lỗi thống trị và đều cần
tin vào Đức Kitô để được trở nên công chính. Ngài nói: ”Nhưng ngày nay, sự công
chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Moses. Điều này,
sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho
nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được
như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh
quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban
không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.”
Để dẫn chứng Sách Luật,
Phaolô dùng Gen 15:6, “Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người
công chính” (Rom 4:3). Phaolô cũng suy diễn về lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ
Abraham là sẽ ban cho ông một giòng dõi đông như sao trên trời và cát ngoài bãi
biển. Điều này chỉ có thể thực hiện nhờ niềm tin vào Đức Kitô: tất cả những ai
tin vào Đức Kitô đều là con cháu của tổ phụ Abraham vì Đức Kitô thuộc giòng dõi
của tổ phụ Abraham (Rom 4:18-25). Tiên-tri Habbakuk cũng đã nói trước: ”Người
công chính sống bởi đức tin” (Hab 2:4).
Để bảo vệ sự công
chính của Thiên Chúa, Ngài phải sửa phạt kẻ có tội; và để cứu độ con người, Đức
Kitô phải xuống trần để chết thay cho con người và giao hòa con người với Thiên
Chúa. Thánh Phaolô diễn đạt như sau: ”Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ
máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng
Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội
lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Người muốn cho thấy rằng Người vừa là Đấng
Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giêsu được nên công chính.”
1.2/ Đối thoại giữa thánh
Phaolô với người Do-thái về hai điều:
(1) Vai trò của Lề Luật:
Người Do-thái rất hãnh diện về Lề Luật Thiên Chúa đã ban cho họ qua ông Moses;
nhưng Lề Luật chỉ có ích khi họ tuân hành. Nếu không tuân hành, Lề Luật sẽ trở
thành chứng cớ tố cáo tội của họ. Thánh Phaolô hỏi: ”Vậy thì hãnh diện ở chỗ
nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật nào mà hãnh diện? Vào việc làm
chăng? Không, nhưng dựa vào lòng tin. Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta
được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy.”
(2) Kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa: Người Do-thái được Thiên Chúa trọn trước Dân Ngoại để chuẩn bị cho
Đấng Cứu Thế đến; nhưng khi Đấng Cứu Thế đến, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả
mọi người, vì mọi người đều là con của Ngài. Thánh Phaolô chất vấn: ”Hay Thiên
Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do-thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của
các dân ngoại nữa sao? Có chứ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa,
vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ
tin, và làm cho người không được cắt bì nên công chính cũng bởi họ tin.”
2/ Phúc Âm: Con người dùng Lề Luật để tiêu diệt sự thật.
2.1/ Các kinh-sư dùng Luật
để giết các ngôn-sứ và tông-đồ: Chúa Giêsu
trách mắng các kinh-sư: “Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ,
nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! Như vậy, các người vừa chứng thực
vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các
người thì xây lăng.”
Các kinh-sư chỉ tôn
kính các ngôn sứ khi họ đã chết; nhưng bắt bớ các ngôn sứ khi họ còn sống.
Thiên Chúa luôn gởi các ngôn sứ đến để kêu gọi mọi người ăn năn, hối cải, và
quay trở về với Ngài; nhưng các kinh-sư là những người luôn chống đối, bắt bớ,
và tìm cách giết chết họ. Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: “Ta
sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người
kia. Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo
thiên lập địa, từ máu ông Abel đến máu ông Zachariah, người đã bị giết giữa bàn
thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ
máu.”
Một ví dụ điển hình
cho những điều Chúa nói là họ đang tìm bắt bớ chính Chúa Giêsu, vị Ngôn Sứ trên
tất cả các ngôn sứ, như trình thuật kể: “Khi Đức Giêsu ra khỏi đó, các kinh sư
và các người Pharisees bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều
chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.”
2.2/ Các kinh-sư dùng Luật
để bẻ cong sự thật: “Khốn cho các người, hỡi
những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người
đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”
– Luật làm ra để bảo vệ
công bằng cho mọi người; họ dùng Luật để sáng chế ra những luật trừ để đối xử bất
công và tước đoạt tài sản của người khác.
– Luật làm ra để đưa
con người đến gần Chúa; cách họ áp dụng Luật làm mọi người tránh Thiên Chúa,
làm dân chúng nhìn Chúa như một hung thần, sẵn sàng sửa phạt mọi người vi phạm.
– Luật giúp cho con người
biết cách sống thế nào để được hạnh phúc; cách họ cắt nghĩa và áp dụng Luật làm
mọi người cảm thấy ngột ngạt, gánh nặng, và bất an.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Lề Luật của Thiên
Chúa tốt lành, và có thể giúp cho con người đạt tới hạnh phúc nếu con người sống
theo những điều Thiên Chúa dạy. Nhưng con người chúng ta yếu đuối không thể sống
theo hoàn toàn những điều Luật dạy. Đó là lý do chúng ta cần Đức Kitô và ơn
thánh của Ngài.
– Chúng ta hãy biết
tôn trọng, sống theo, và làm chứng cho sự thật. Đừng bao giờ coi thường, bẻ
cong, và truy tố những người dám sống và làm chứng cho sự thật.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
17/10/2019 – THỨ NĂM TUẦN 28 TN
Th. I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo
Lc 11,47-54
LỜI RĂN ĐE NGHIÊM KHẮC
“Khốn cho các người!…” (Lc 11,47)
Suy niệm: Chúa Giê-su là mục tử nhân
lành và mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa là Cha luôn thương yêu và chúc lành
cho con cái mình, vậy mà sao Ngài lại dùng những lời chúc dữ thật nặng nề: “Khốn
cho các người”? Mà đây đâu có phải là lần duy nhất Ngài thốt lên những lời như
vậy! Thế nhưng, cha ông ta đã chẳng nói: “Yêu cho roi cho vọt” sao? Nói như vậy
không có ý cho rằng Thiên Chúa giống như một người cha thích hành hạ, làm khổ
nhục con cái để thoả mãn cơn nóng giận của mình. Trước sứ điệp Tin Mừng, các
kinh sư và biệt phái vẫn giả hình và cứng lòng tới mức khó lòng hoán cải. Đau
lòng, nhưng Chúa muốn chỉ ra cho họ biết, tự thâm tâm, họ đồng lõa với sự ác,
đi theo vết xe đổ của cha ông, chứ không chỉ là lỗi lầm nhất thời. Những lời
chúc dữ có nặng nề thật đấy, nhưng Ngài chỉ vẽ ra cho họ một viễn tượng, và mời
gọi tự nguyện hoán cải. Và nhất là Ngài đã chấp nhận chịu chết trên cây thập
giá như “đồ bị chúc dữ” để hoá giải chính lời chúc dữ. Qua con đường đó, phải
chăng đã chẳng có những biệt phái và kinh sư hoán cải trở thành môn đệ Ngài như
các ông Ni-cô-đê-mô, Giu-se A-ri-ma-thi-a, như thánh Phao-lô… sao?
Mời Bạn: Khi một biến cố đau thương
xảy đến trong đời bạn, bạn có coi đó như một lời răn đe nghiêm khắc của Chúa
trước sự cứng lòng của bạn, của người thân, của nhân loại không?
Chia sẻ: Bạn noi gương Chúa thế nào trong việc răn dạy những người
mà bạn có trách nhiệm khi họ sai lỗi?
Sống Lời Chúa: Nhìn ngắm Chúa trên thánh
giá và xin ơn đừng cứng lòng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con muốn chiêm ngắm Chúa chịu đóng đinh để
con hoán cải và giúp tha nhân hoán cải.
(5 Phút Lời Chúa)
Ngôn sứ và tông đồ (17.10.2019 –
Thứ Năm Tuần 28 TN - Thánh Ignatiô)
Suy niệm:
Ơn gọi ngôn sứ chưa bao giờ là một ơn gọi dễ dàng.
Ngôn sứ là người bất ngờ được Thiên Chúa kêu gọi,
để trở nên phát ngôn viên chính thức cho Ngài trước toàn dân.
Thiên Chúa nói qua trung gian con người,
nói bằng thứ ngôn ngữ con người để họ hiểu được.
Ngôn sứ đã là người nghe trước khi là người nói,
là cầu nối chuyển đạt cho dân sứ điệp mình đã lãnh nhận.
Sứ điệp của Thiên Chúa lắm khi là những lời cảnh báo, răn đe,
nên công việc của ngôn sứ không dễ được mọi người đón nhận.
Ngôn sứ có thể tố cáo tính vụ hình thức nơi phụng vụ trong Đền thờ,
những người dâng lễ vật cho Chúa, nhưng lại bóc lột anh em (Is 1, 11).
Ngôn sứ cũng dám nói lên những điều chưa tốt nơi hàng tư tế,
những hư hỏng, bất công của vua quan (2 Sm 12, 7),
và những bất trung của dân chạy theo ngẫu tượng dân ngoại.
Phải có đảm lược mới dám nói điều Chúa bắt mình nói.
Số phận của một ngôn sứ thường gắn liền với đau khổ và bách hại.
Môsê và Êlia đều đã có lúc xin được chết cho xong (Ds 11, 15; 1 V 19, 4).
Giêrêmia cũng chỉ muốn từ nhiệm, nhưng không được (Gr 20, 7-18).
Giacaria bị ném đá và giết trong sân Đền thờ (2 Sb 24, 20-22).
Vào thời Tân Ước các ngôn sứ cũng chịu chung số phận.
Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu và các tông đồ đều nếm khổ đau và cái chết.
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến máu mà bao ngôn sứ đã đổ ra.
Từ thời Hêrôđê đại đế, người ta bắt đầu xây lăng mộ cho các ngôn sứ,
nhưng chuyện bắt bớ và sát hại các ngôn sứ thì vẫn kéo dài.
“Thế hệ này sẽ phải trả lời về máu của mọi ngôn sứ đã đổ ra…” (c.50).
Như vậy thế hệ hiện tại cũng phải chịu trách nhiệm về tội ác quá khứ,
vì chính họ đang nhúng tay
vào việc bách hại các người được Thiên Chúa sai (c. 49).
Các nhà thông luật hay các kinh sư mà Đức Giêsu đang gặp gỡ
sẽ có mặt trong Thượng Hội Đồng để luận tội Đức Giêsu (Lc 22, 66).
Máu vô tội của Đức Giêsu sẽ đổ ra trên đồi Sọ (Lc 22, 20; Ga 19, 34).
Máu châu báu ấy thực ra không đòi nợ máu, không đòi trả thù.
Máu ấy đổ ra để xóa tội cho muôn người (Mt 26, 28),
để giao hòa con người với Thiên Chúa.
Một số người sẽ phải chịu trách nhiệm về việc đổ máu Đức Giêsu,
nhưng ngay cả những người ấy cũng có thể thoát khỏi án phạt
nhờ chính dòng máu từ trái tim yêu thương của Đấng bị đóng đinh.
Đức Giêsu trên thập giá đã tha thứ cho những kẻ giết mình.
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Đức Giêsu phục sinh đã sống sự tha thứ ấy
khi Ngài chẳng hề báo thù những kẻ can dự vào cái chết của Ngài.
Các tông đồ cũng lần lượt chia sẻ chén đắng của Thầy mình.
Kitô hữu tự bản chất là ngôn sứ cho thế giới mình đang sống.
Chỉ mong chúng ta cũng can đảm sống như Giêsu và chết như Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn.
Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG MƯỜI
Yêu Thương Bằng Con
Đường Dâng Hiến
Lòng bác ái và sự hy
sinh của Mẹ Tê-rê-sa, phát xuất từ tình yêu đối với Đức Kitô, đã trở nên một
thách đố cho thế giới. Thế giới này vẫn thường được thấy như là một thế giới của
ích kỷ và dục vọng, một thế giới đầy tham lam, đầy những đam mê danh lợi và quyền
lực.
Đứng trước những sự dữ
của thời đại chúng ta, chứng tá của Mẹ Tê-rê-sa nêu bật – không phải bằng lời
nói mà bằng chính những hành động hy sinh cụ thể – giá trị siêu vượt của tình
yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Tình yêu này kêu gọi các tội nhân hoán cải
và mời họ sống theo Chúa Kitô: “Mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 17/ 10
Thánh Ignatiô
Antiôkia, giám mục tử đạo
Rm 3, 21-30; Lc 11,
47-54.
LỜI SUY NIỆM: “Khốn cho các
ngươi, hỡi những người thông luật! Các ngươi đã cất giấu chìa khóa của sự hiểu
biết; các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản.”
Chúa Giêsu đang cảnh cáo những ai đang thi hành sứ mạng rao giảng Lời Chúa, bắt
người khác thi hành còn mình thì không tuân giữ; những ai truyền giảng về lề luật
đừng gieo rắc sự khó khăn bằng chính “con chữ” làm cho những người nghe có thiện
chí hoang mang, bối rối không còn biết tin gì và nghe ai.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con có được những thầy dạy khôn ngoan, công chính
đầy lòng đức ái để nhờ đó chúng con ngày càng trưởng thành trong đức tin trong
việc thờ phượng Chúa và sống với tha nhân như lòng Chúa ao ước nơi chúng con.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 17-10
Thánh INHAXIÔ Thành
Antiokia
Giám Mục Tử Đạo
(+107)
Người ta nghĩ rằng:
thánh Inhaxiô thành Antiôkia chính là đứa trẻ mà Chúa Giêsu đã ôm vào lòng và đặt
giữa các tông đồ để làm gương mẫu về lòng trong trắng và đức khiêm tốn Kitô
giáo. Vài tác giả còn quả quyết rằng: Ngài là đứa trẻ đưa năm chiếc bánh và hai
con cá cho Chúa Giêsu làm pháp lạ nuôi 500 người ăn. Điều chắc chắn là Ngài đã
được đặt làm giám mục thứ nhì kế vị thánh Phêrô tại Antiôkia khoảng năm 68, sau
khi thánh giám mục Evôda qua đời. Suốt bốn muôi năm cai quản giáo phận, kể cả
những năm bị bách hại dưới triều Domitianô, Ngài đã tỏ ra là một giám mục gương
mẫu về mọi nhân đức.
Mười lăm năm bình lặng
sau cái chết của bạo vương Domitianô qua đi, cơn bách hại lại nhen nhúm ở vài tỉnh
dưới thời Trajanô. Vị hoàng đế cuồng tín này cho rằng: mình đạt được nhiều chiến
thắng là nhờ các thần minh. Ong coi việc bách hại các tín hữu Chúa là một nghĩa
cử để tỏ lòng biết ơn các thần minh. Tháng giêng năm107, ông tới Antiôkia. Được
biết tại đây có giám mục Inhaxiô đã không vâng lệnh thờ cúng tượng thần, lại
còn ngăn cản người khác, ông truyền điệu Ngài tới để xét hỏi. Sau khi đe dọa và
dụ dỗ đủ cách mà vô hiệu, ông kết án vị giám mục thánh thiện này phải điệu về
Roma cho thú vật xâu xé.
Cuộc hành trình về
Roma mang sắc thái một cuộc khải hoàn. Mỗi khi con tàu dừng bến nào, dân chúng
đều tuốn đến chào kính vị tử đạo. Nhân dịp này thánh Inhaxiô có dịp tiếp xúc với
nhiều giáo đoàn và đã viết bảy bức thư cho các Giáo hội. Tuy vậy, chuyến đi
không dễ chịu gì. Bọn lính áp giải đã cố tình hành hạ thánh nhân để mong được các
tín hữu ngưỡng mộ Ngài đút lót tiền bạc. Thánh nhân viết với lòng khiêm tốn:
– Trên đất liền hay
ngoài biển khơi, ngày đêm tôi phải chiến đấu với các súc vật, bị xiềng vào mười
con sư tử. Tôi muốn nói là những người lính canh giữ tôi. Người ta càng cho tiền,
họ càng hung dữ. Những người đối xử tàn tệ của họ là trường đào luyện tôi mọi
ngày, nhưng không phải vì vậy mà tôi được nên công chính đâu”.
Ở Smyrna, thánh
Inhaxiô đã gặp thánh Pôlycarpô. Vị giám mục thánh thiện này cũng là môn đệ của
thánh Gioan như thánh Inhaxiô. Thánh Pôlycarpô đã hôn xiềng xích của người bạn
lừng danh. Tại đây thánh Inhaxiôco có dịp gặp đại diện của nhiều Giáo hội tới
thăm. Biết rằng ở Ahila Delphia có sự chia rẽ trong hàng giáo sĩ, Ngài đã viết
thư khuyên nhủ họ:
– Hãy tránh xa những
phân rẽ và các giáo thuyết nguy hiểm. Hãy theo mục tử các bạn khắp nơi như đoàn
chiên. Tôi vui sướng hết mực những góp phần củng cố đức tin các bạn, nhưng
không phải do tôi mà do Chúa Giêsu Kitô. Được mang xiềng xích vì danh Chúa, hơn
lúc nào, tôi cảm thấy mình còn quá xa sự trọn lành. Nhưng kinh nguyện của các bạn
sẽ làm cho tôi được xứng đáng với Thiên Chúa và với di sản mà lòng nhân từ và
đã dọn sẵn cho tôi.
Các thư của các thánh
nhân gửi riêng cho mỗi nơi, Ngài ca tụng tinh thần kỷ luật của tín hữu
Manhêsianô (Magnésiens): – Tôi hãnh diện được gặp các bạn nơi cá nhân đức giám
mục Damas của các bạn. Tuổi trẻ của Ngài không được nên cớ để các bạn suồng sã
với Ngài. Các bạn cần phải tôn kính chính Thiên Chúa là Cha nơi Ngài.
Với dân Trallianô
(Tralliens) Ngài viết: – “Hãy yêu thương nhau. Xin cầu nguyện cho tôi nữa. Tôi
cần đức ái và lòng nhân hậu Chúa để được nhận vào hưởng gia nghiệp mà tôi đã sẵn
sàng chiếm hữu”.
Nhưng Ngài sợ dân
Rôma, vì nhiệt tâm mà cất mất triều thiên tử đạo của mình. Nhờ một du khách đi
Italia, Ngài khẩn khoản: – “Các bạn không thể trao tặng cho tôi một bằng chứng
quí mến nào khác, là để cho tôi được tế hiến mình cho Thiên Chúa. Ân huệ tôi
van xin các bạn là hãy hát bài ca cám tạ ơn Chúa mà nhờ công nghiệp Chúa Giêsu
Kitô, Đức giám mục Smyrna bên Tây phương đã được, để Ngài được đưa vào vinh
quang. Hãy để cho tôi thành của ăn nuôi thú vật, hầu tôi được vui hưởng Thiên
Chúa, Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa. Tôi cần được răng thú dữ nghiền nát để
trở thành bánh tinh tuyền của Chúa Kitô.
Tốt hơn, hãy săn sóc
các thú vật này để chúng thành nấm mồ của tôi. Chính lúc này tôi đang trở nên một
môn đệ chân chính. Chớ gì những hình khổ độc dữ nhất đổ xuống mình tôi, miễn là
tôi được Chúa Giêsu Kitô. Được cả thế gia này nào có ích lợi gì cho tôi ? Tôi
chỉ ước mong được kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô…
Ngài còn viết thêm: –
Ước mơ của tôi là được đóng đinh vào thập giá. Trong tôi chỉ có một dòng nước hằng
sống vẫn rì rầm lời kêu gọi: Hãy về với Cha”.
Thánh nhân còn viết
nhiều điều khác nữa, bàn về chân lý đức tin, kỷ luật Giáo hội và những sai lầm
nguy hại.
Ngày 20 tháng 12 năm
107 là ngày cuối cuộc vui cũng là ngày thánh Inhaxiô tới Roma. Sau khi đọc bức
thư của nhà vua, quan tổng trấn truyền đem thánh nhân đến thẳng hí trường. Dân
chúng đang tụ họp đông đảo. Ngài lập lại câu nói đã viết trong trường hợp gửi
dân Roma: “Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa. Tôi cần được răng thú dữ nghiền
nát để trở thánh bánh tinh tuyền của Chúa Kitô”. Hai con sư tử gầm rống và bổ tới
thánh nhân mà cắn xé. Người ta kính cẩn thu nhặt những khúc xương còn lại và
đưa về Antiôkia. Dưới thời Hêracliô, xương Ngài lại được đưa về Roma.
(daminhvn.net)
17 Tháng Mười
Lòng Nhân Từ Cảm Hóa
Dưới từa đề “Lòng
nhân từ cảm hóa”, người ta thuật lại một câu chuyện như sau:
Một bà mẹ kia lo lắng
nhiều vì đứa con trai không đi nhà thờ nữa, mà lại đi theo những bạn bè xấu và
còn tỏ ra bất mãn mọi chuyện. Bà mẹ đau khổ này đã tìm mọi cách để đưa con về
con đường tốt, nhưng tất cả đều vô ích. Một ngày Chúa Nhật nọ, bà nảy ra một ý
tưởng. Gọi đứa con trai lại, bà nói: “Con làm ơn giúp mẹ một chuyện. hãy đem
gói đồ này đến cho gia đình ở căn nhà trong khu phố dối diện với chúng ta. Nếu
con làm dùm mẹ việc này, mẹ hứa sẽ không bao giờ quấy rầy con nữa”.
Có lẽ để khỏi nghe
tiếng mẹ giảng dạy, la rầy, chàng thanh niên đã nhận làm điều mà mẹ anh ta yêu
cầu. Anh đi đến địa chỉ như mẹ dặn, bước vào một căn nhà nghèo nàn và bỡ ngỡ đến
tột điểm, anh đã khám phá thấy một người đàn bà đau ốm chỉ còn da bọc xương với
ba đứa con nhỏ, rách rưới, lem luốc, đang than khóc, kêu la vì đói.
Chàng thanh niên
trao vội gói đồ và muốn nhanh bước rút lui. Nhưng người đàn bà đã gọi giật anh
trở lại, và qua giọng yếu ớt bà thều thào: “Cậu ơi! Cậu không thể đi ngay được
khi tôi chưa kịp cám ơn cậu. Cậu là ơn quan phòng Chúa gửi đến cho chúng tôi.
Xin Ngài trả ơn cho cậu”.
Chàng thanh niên ra
về với tấm lòng bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, anh trở lại nhà bà mẹ đang bị
đau ốm với đàn con nheo nhóc hôm qua với một gói quà khác, mà anh đã mua với
chính tiền của anh. Và sau khi trao quà, anh còn ở lại chơi với mấy đứa nhỏ.
Chàng thanh niên đã
thay đổi cuộc đời, vì lòng nhân hậu đã làm anh mỗi ngày hiểu được ý nghĩa của
cuộc sống và nhờ đó anh cảm thấy hạnh phúc hơn.
Chúng ta đã đi nửa đoạn
đường của tháng Mân Côi, đây là khoảng thời gian chúng ta âu yếm dâng lên Mẹ
Maria những tràng chuỗi Mân Cô với hàng triệu lời chào: “Kính Mừng Maria, đầy
ơn phước”. Nhưng, ước gì xen lẫn với những lời kinh tiếng hát, chúng ta cũng biết
lắng nghe những lời Mẹ khuyên qua những mầu nhiệm thuật lại các biến cố xảy ra
trong cuộc đời Mẹ.
Chú tâm nghe lời Mẹ
khuyên nhủ, chắc chắn qua mầu nhiệm thứ hai của Năm Sự Vui: “Ðức bà đi viếng
thánh Ysave, ta hãy xin cho được lòng yêu người”. Mẹ Maria, cũng như bà mẹ
trong câu chuyện trên, cũng muốn nhờ chúng ta làm cho Mẹ một chuyện: đó là hãy
thể hiện lòng yêu người qua những hành động cụ thể để tinh thần phục vụ Mẹ đã
thể hiện qua sự giúp đỡ bà chị họ Ysave cũng được con cái Mẹ tiếp tục làm lại.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét