18/10/2019
Thứ Sáu tuần 28 thường niên
THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG.
Lễ kính.
* Thánh Luca, “người
thầy thuốc yêu quý” là bạn đồng hành của thánh Phaolô và cũng là tác giả
sách Tin Mừng, trong sách này người đã trình bày lòng nhân hậu của Chúa
Kitô rõ ràng hơn ai hết.
Người cũng viết sách
Công vụ, tường thuật lại sự tiến triển của Hội Thánh sau ngày Hiện Xuống. Qua
ngòi bút của con người thông thạo văn chương chữ nghĩa như người, Tin Mừng trở
thành một bài thánh ca tạ ơn trong bầu khí vui tươi và lạc quan phấn khởi.
BÀI ĐỌC I: 2 Tm 4,
9-17a
“Chỉ còn một mình Luca ở với
cha”.
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, Đêma đã
lìa bỏ cha, bởi nó yêu chuộng sự đời này, và đã trẩy sang Thêxalônica, còn
Crescens thì đi Galata, Titô đi Đalmatia. Chỉ còn một mình Luca ở với cha. Con
hãy đem Marcô đi và dẫn tới đây với con, vì anh ấy có thể giúp ích để cha chu
toàn sứ vụ. Còn Tykicô, thì cha đã sai đi Êphêxô rồi. Cái áo khoác cha để quên
tại nhà ông Carpô ở Troa, khi con tới, hãy mang đến cho cha, cả những cuốn sách
và nhất là những mảnh da thuộc để viết.
Anh thợ đồng Alexanđrô
làm cho cha phải chịu nhiều điều khốn khổ. Chúa sẽ trả báo cho nó tuỳ theo công
việc nó đã làm. Cả con nữa, con cũng phải xa lánh nó, vì nó kịch liệt phản đối
lời giảng dạy của chúng ta.
Lần đầu tiên cha đứng
ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc
cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để
nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân Ngoại được nghe. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 144, 10-11.
12-13ab. 17-18
A+B=Lạy Chúa, con
cái Chúa làm cho loài người nhận biết vinh quang cao cả nước Chúa (c. 12).
A=Lạy Chúa, mọi công
việc của Chúa hãy chúc tụng Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng
Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng. –
Đáp.
B=Để con cái loài người
nhận biết quyền năng, và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Chúa là nước vĩnh cửu
muôn đời, chủ quyền Chúa tồn tại qua muôn thế hệ. – Đáp.
A=Chúa công minh trong
mọi đường lối của Người, và yêu thương trong mọi kỳ công Người tác tạo. Chúa ở
gần những kẻ kêu cầu Người, những kẻ kêu cầu Người với lòng thành thật. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 15, 16
Chúa phán: “Chính
Thầy đã chọn các con, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các
con tồn tại”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 10, 1-9
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì
ít”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm
bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các
thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người.
Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng
mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.
“Vào nhà nào, trước
tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu ở đấy có con cái sự bình an,
thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở
về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ
đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ. Khi vào thành nào mà
người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các
bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần các
ngươi”. Đó là lời Chúa.
Suy niệm
Vào ngày lễ kính Thánh
Luca hôm nay, chúng ta lắng nghe thư của Thánh Phaolô gửi cho người môn đệ thân
tín của ngài là Timôthê, trong thư ngài than phiền rằng ngài chỉ còn một mình
Luca đi cùng, ngoài ra chẳng còn ai. Trong bài tường thuật của Luca về các cuộc
hành trình của Phaolô trong sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy ở một vài chỗ
có sự thay đổi đột ngột trong tường thuật: đó là các chỗ gọi là “các đoạn chúng
tôi” trong sách Công Vụ (x. Cv 16:10-17; 20:5-15; 21:1-18; 27:1-28). Cho tới
câu 10:16, viết ở ngôi thứ ba, tên của Luca vẫn chưa được nhắc đến. Trong các
câu 1 đến 9, người viết kể lại các chuyến hành trình của Phaolô đến Phrygia,
Galatia, Mysia, Bithynia và Troas. Nhưng bắt đầu từ câu 10, Luca viết ở ngôi thứ
nhất số nhiều: “Lập tức chúng tôi tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa
kêu gọi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho họ.” Luca lên thuyền cùng với Phaolô,
và qua tài kể truyện của ông, ông mời gọi độc giả đi theo chuyến hành
trình truyền giáo của các ông.
Luca tiết lộ một chi
tiết về bản thân ông ở đầu sách Tin Mừng. Ông viết rằng ông đang trình bày những
sự kiện “đã được thực hiện giữa chúng ta” như ông đã lãnh nhận từ “những người
đã chứng kiến tận mắt,” những người đã ở với Đức Giêsu từ lúc khởi đầu sứ vụ
công khai của Người (x. Lc 1:1-2). Trong đoạn mở đầu này, Luca tiết lộ cho các
độc giả rằng bản thân ông không phải là một nhân chứng trực tiếp về những điều
ông kể lại. Tác giả Tin Mừng này là một thành viên của cộng đoàn Kitô hữu mới
được khai sinh nhờ những chứng từ trực tiếp của những người đã tai nghe mắt thấy
Đức Giêsu rao giảng và đã chứng kiến việc Người chịu đóng đinh và sống lại.
Mátthêu (10:1), Máccô
(6:7), và Luca (9:1), mỗi người đều thuật lại sự kiện Đức Giêsu gọi “Nhóm Mười
Hai”, và sau một thời gian dạy dỗ họ, Người sai họ đi loan báo Tin Mừng. Nhưng
chỉ một mình Luca thuật lại rằng Đức Giêsu sau đó sai một nhóm môn đệ đông hơn,
bảy mươi hai người, mà chúng ta được nghe nói đến trong bài đọc Tin Mừng hôm
nay. Theo Luca, trong cuộc loan báo Tin Mừng đầu tiên, không chỉ có Nhóm Mười
Hai, mà còn có thêm nhiều người rao giảng Tin Mừng khác nữa. Ngay trước khi chọn
và sai họ đi rao giảng, Đức Giêsu đã bắt đầu cuộc hành trình lên
Giêrusalem rồi (x. Lc 9:51). Người sai bảy mươi hai môn đệ đi trước để chuẩn bị
cho Người đến các thành phố khác nhau. Sự kiện này là hình ảnh dự báo trước trải
nghiệm cá nhân của Luca khi ông đồng hành với Phaolô trong hành trình truyền
giáo.
Việc Đức Giêsu sai bảy
mươi hai môn đệ (hay bảy mươi, theo một số thủ bản khác) vừa báo trước vừa cung
cấp một mô hình cho hoạt động truyền giáo của Hội Thánh cho mọi dân tộc. Trong
truyền thống Do Thái, các dân tộc trên trái đất được nghe công bố Lề Luật trên
núi Sinai gồm bảy mươi dân tộc (x. St 10; Đnl 32:8); vì vậy, các môn đệ của Đức
Giêsu được sai đến với mọi dân tộc.
Đoạn Tin Mừng của phụng
vụ hôm nay trình bày việc tông đồ như là sự mặc khải về Nước Thiên Chúa và cuộc
phán xét đã bắt đầu trên thế giới này. Theo Luca, đó không phải là việc loan
báo cho Ítraen sự vĩ đại của Nước Thiên Chúa, nhưng là công bố cho mọi dân tộc
rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Tác giả Tin Mừng viết ra vào thời điểm mà
“trong mọi dân tộc” đã có những chứng nhân về Chúa Phục Sinh. Đây là thời khắc
quyết định trong lịch sử, ở đó mọi người được cống hiến cơ hội trở nên thành phần
của Nước Thiên Chúa.
Phương pháp, tính chất
và các viễn cảnh của hoạt động truyền giáo được thực hiện bởi bảy mươi hai
môn đệ thì tương tự với những gì được thực hiện bởi Nhóm Mười Hai. Các chỉ dẫn
của Đức Giêsu mở ra với một sự mô tả về tình hình; tình hình lúa chín đầy đồng
được nhắc đến tương phản rõ rệt về tình trạng thợ gặt thì ít. Vì thế Đức Giêsu
dạy các môn đệ: “Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” “Cầu
nguyện là linh hồn của việc truyền giáo,” Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết cho Hồng
Y Filoni ngày 22 tháng 10, 2017. Sáng kiến bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng là chủ
mùa gặt; Người kêu gọi và sai đi. Đó là một lời mời gọi tham gia vào lời cầu
nguyện và cuộc ra đi của Đức Giêsu về với Cha, được diễn tả trong việc Người nộp
mình vào tay người ta: “Này Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói.” Các người
thừa sai không bao giờ được ỷ vào sức riêng, quyền lực hay bạo lực. Họ chỉ được
phong phú trong đức tin và lời cầu nguyện để giữ họ trong mối quan hệ tình yêu
với Đức Giêsu, Người Thầy sai họ đi.
Sự nghèo khó lúc ban đầu
trở thành nền tảng và dấu chỉ sự tự do và tự hiến hoàn toàn của họ cho nhiệm vụ
duy nhất giải phóng họ khỏi mọi sự cản trở hay trì hoãn. Tất cả điều này được
xác định rõ trong một loạt nguyên tắc: không vướng mắc cản trở gì, những người
được sai đi đều nhắm thẳng mục tiêu, không dừng lại, ngay cả để chào hỏi, là điều
mà theo tập tục của Phương Đông, đòi hỏi khá nhiều thời gian (x. 2 V
4:29). Trái lại, việc chào hỏi được dành cho những người mà sứ mạng được nhắm tới.
Việc chào hỏi này không chỉ là một lời tiên tri hay công bố, nhưng là một lời
nói hiệu quả đem lại niềm vui và hạnh phúc. Tóm lại, đó là sự “bình an” của thời
đại Mêsia, kèm theo ơn cứu rỗi (x. Lc 10:5-6). Những người được sai đi, giống
như Chúa Giêsu, thiết lập với những người tiếp nhận họ các mối quan hệ mà trong
đó cuộc sống bình an trong Nước Trời đã bắt đầu. Hành vi ứng xử của họ dẫn họ tới
chỗ lệ thuộc vào những người tiếp nhận họ, họ giao phó bản thân mình và chính
cuộc đời mình cho những người này. Vì thế các người thừa sai hoàn toàn dấn
mình, thậm chí cả sự mưu sinh của mình, vào những nguy cơ của sứ mạng: được tiếp
nhận hay bị từ chối, thành công hay thất bại. “Nhà” và “thành” biểu trưng cho đời
sống riêng tư và đời sống công cộng. Những người được sai đi lệ thuộc vào sự hiếu
khách của những người đón nhận sứ điệp, nhưng không gì có thể làm họ dừng lại
hay cản trở họ thi hành sứ mạng; họ là những người truyền giáo mang đến lời kêu
gọi khẩn cấp cuối cùng về khả năng cứu rỗi, lời kêu gọi ấy phải đến được tai của
mọi người, đến được trái tim của mọi người, bằng bất cứ giá nào.
(Trích 31 bài giảng
của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)
Nguồn: Uỷ ban loan
báo Tin Mừng
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Lucas Thánh Sử (Ngày 18 tháng 10)
Bài đọc: 2 Tim
4:9-17a; Lk 10:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành viết và rao giảng
Tin Mừng.
Thánh Lucas không phải
là người Do-thái. Ngài được đề cập riêng khỏi những người Do-thái (Col 4:14),
và kiểu mẫu viết văn chứng tỏ ngài là người Hy-lạp. Vì thế, ngài không thể nào
bị đồng nhất với ngôn sứ Lucius của Acts 13:1 hay Lucius của Romans 16:21, người
đồng hương của Phaolô. Epiphanius không đúng khi gọi ngài là một trong số 72
môn đệ. Ngài cũng không phải là người đồng hành với Cleopas trên hành trình
Emmaus. Thánh Lucas có kiến thức nhiều về Bản Bảy Mươi (Septuagint) và truyền
thống Do-thái mà ngài thu nhận được hoặc khi ngài đang là một tân tòng Do-thái
hay sau khi ngài đã trở thành một Kitô hữu, qua việc giao tiếp với các tông-đồ
và các môn đệ.
Ngài sinh sống tại
Antioch, thủ đô của Syria. Ngài là một y sĩ, và Phaolô đã gọi ngài là “một y sĩ
đáng yêu nhất” (Col 4:14). Thánh Lucas xuất hiện lần đầu tại Troas khi ngài gặp
thánh Phaolô (Acts 16:8). Từ đó, ngài trở thành người bạn đồng hành cùng rao giảng
Tin Mừng với Phaolô và viết Tin Mừng Thứ Ba cùng Công Vụ Tông Đồ. Ngài là bạn
trung thành với Phaolô trong lần Phaolô bị giam lần cuối cùng như trình thuật
hôm nay viết (2 Tim 4:7-11). Ba lần ngài được đề cập đến trong các Thư của
Phaolô (Col 4:14; Phi 24; 2 Tim 4:11), ngài được kể tên cùng với Marcô. Điều
này chứng minh Lucas quen thuộc với Marcô và Tin Mừng của ông. Lucas chắc cũng
nhiều lần có cơ hội gặp Phêrô và giúp ông trong việc viết các Thư Phêrô bằng tiếng
Hy-lạp.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ còn một mình anh Lucas ở với tôi.
1.1/ Phaolô hoàn toàn tin
tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Sau
khi đã làm chứng cho Đức Kitô tại Jerusalem, Ngài đã hiện ra với ông trong một
thị kiến ban đêm để an ủi và cho ông biết ông sẽ làm chứng cho Ngài tại Roma nữa;
đồng thời Ngài cũng cho ông biết những gian nan nguy hiểm đang chờ ông tại
Roma.
Phaolô viết thư này
cho môn đệ Timothy khi ông đang bị giam trong tù tại Roma, với mục đích để
khích lệ tinh thần cho Timothy sẵn sàng làm chứng cho Đức Kitô. Phaolô không
cho là ông xứng đáng với triều thiên dành cho người công chính bằng những công
việc ông làm; nhưng Phaolô muốn nhấn mạnh đến niềm tin trung thành nơi Đức
Kitô. Ngài là Thẩm Phán Chí Công, Ngài là Đấng sẽ tuyên bố Phaolô là người công
chính, và sẽ trao phần thưởng là triều thiên công chính cho ông.
Đoạn văn này là bằng
chứng cho những người hiểu lầm học thuyết của Phaolô khi ông nói con người được
công chính nhờ đặt niềm tin nơi Đức Kitô, mà không cần phải làm gì để chứng tỏ
niềm tin. Phaolô chứng minh niềm tin của ông vào Thiên Chúa bằng việc hoàn tất
sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại mà Đức Kitô đã trao cho ông, và giờ đây,
ông còn sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin Mừng ông rao giảng trên đất Rôma của
Dân Ngoại.
1.2/ Phaolô có thể vượt
qua mọi trở ngại là nhờ ông vững tin nơi Thiên Chúa: Nhìn lại cuộc đời rao giảng Tin Mừng của Phaolô, chúng ta
không khỏi ngạc nhiên về sự kiên trì phi thường của ông, khi phải đương đầu với
những đau khổ bên trong cũng như bên ngoài, như trong trình thuật hôm nay, ông
viết: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi
người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ.” Tuy phải chịu đau khổ như thế,
nhưng ông đã noi gương Đức Kitô, chẳng những không trách cứ họ, mà còn cầu nguyện
cho họ nữa.
Phaolô nhận ra sức mạnh
để chịu đựng và sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng không đến từ con
người yếu đuối của ông; nhưng nhờ ông đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đức Kitô. Ông
viết: “Có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc
rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và
tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi
hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người
vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. A-men.”
2/ Phúc Âm: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.”
2.1/ Khác biệt về văn bản:
Theo Lucas, Chúa Giêsu không chỉ chọn 12
Tông-đồ, nhưng còn nhiều môn đệ khác, để huấn luyện và sai đi rao giảng Tin Mừng.
Trong Lucas, có hai lần sai đi: Lần thứ nhất, Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk
9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk 6:7-13). Lần thứ hai, chỉ có trong Lucas, theo trình
thuật hôm nay: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng
hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”
2.2/ Môn đệ là sứ giả
mang Tin Mừng.
(1) Phải ý thức sứ vụ
cuả mình: Chúa Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải đương đầu khi Ngài
nói với các ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.”
Hai điều Ngài muốn đề phòng cho các ông:
– “Đừng mang theo túi
tiền, bao bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng. Lo
lắng quá nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông dành mọi cố gắng
cho việc rao giảng Tin Mừng.
– “Cũng đừng chào hỏi
ai dọc đường”: Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự hay sống cách biệt.
Ngài chỉ muốn các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng Tin Mừng để các
ông đừng trò chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng (cf. 2 Kgs
4:29).
(2) Chấp nhận Tin Mừng
là điều kiện để có bình an: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Vào bất cứ nhà
nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”” Điều này chứng tỏ Tin Mừng cứu
độ được trao cách nhưng không cho mọi người. Theo Lucas, sự bình an này được
liên kết với ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi người (cf. 1:79, 2:14-29,
7:50, 8:48, 12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có bình an: “Nếu ở đó, có ai
đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không
thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây là sự
bình an trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng cảm thấy được bình
an.
2.3/ Môn đệ là sứ giả của
Nước Trời.
(1) Đừng tìm kiếm những
sự thế gian: Nhiều người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao bị thì lấy gì
mà ăn.” Nói như thế là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài coi các
môn đệ là những người làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công đời này” (1
Tim 5:18; cf. 1 Cor 9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh: “người ta
cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không được đòi hỏi,
họ phải có khả năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng không thể sống
theo luật Kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết nhà nọ đến nhà
kia” để tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.
(2) Làm cho triều đại
Thiên Chúa mau đến: Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận chính của người môn đệ: “Hãy
chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến
gần các ông.”” Triều đại của Thiên Chúa đã đến với sự xuất hiện của Đức Kitô và
các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến cho mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy noi
gương hai thánh Lucas và Phaolô để biết hy sinh dành trọn cuộc đời cho việc rao
giảng Tin Mừng.
– Chúng ta sẽ gặp nhiều
khó khăn trong việc rao giảng Tin Mừng vì đó là những giá trị ngược lại với những
giá trị của thế gian; nhưng ai bền vững đến cùng sẽ được cứu thoát.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
18/10/2019 – THỨ SÁU TUẦN 28 TN
Th. Lu-ca, tác giả sách Tin Mừng
Lc 10,1-9
LỆNH LÊN ĐƯỜNG
“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi
vào giữa bầy sói. Đừng mang theo tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai
dọc đường. Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc
10,2-4)
Suy niệm: Những chỉ thị của Đức Ki-tô
phát lệnh lên đường cho các môn đệ đòi hỏi họ phải dám can đảm cắt đứt mọi thứ
ràng buộc có thể làm cản trở bước chân người rao giảng Tin Mừng: – dứt bỏ quyến
luyến đối với của cải: “đừng mang theo tiền, bao bị, giày dép”; – cắt đứt những
mối quan hệ ràng buộc khiến người tông đồ trở nên trì trệ, nặng nề: “đừng chào
hỏi ai dọc đường”; – dám liều mất cả sự an toàn bản thân để một mình đối mặt với
những chống đối, và cả nguy hiểm nữa “như con chiên đi vào giữa bầy sói”. ĐHY
Ph.Xav. Nguyễn Văn Thuận viết: “Dù là xích vàng, nếu bạn còn bị xiềng xích, bạn
không thể lên đường được.”
Mời Bạn: Đã bao nhiêu lần bạn nghe
lệnh lên đường này, nhưng đã mấy lần bạn thực sự lên đường? Mời bạn kiểm điểm:
bạn còn quyến luyến cái gì thái quá khiến nó trở nên cồng kềnh đối với bạn và
vì thế bạn không thể an bình tâm hồn, nói chi đến việc đem bình an đến cho người
khác.
Chia sẻ: Đâu là thứ hành trang cồng kềnh còn tồn đọng trong đời sống
của bạn khiến bạn không thể thực hiện lệnh lên đường của Chúa ?
Sống Lời Chúa: Làm những hy sinh nho nhỏ (nhẫn nại trước những điều
trái ý người thân gây ra, chấp nhận cách vui vẻ những sự cố thiếu tiện nghi
trong cuộc sống…) để thực tập làm tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
cho con biết luôn sẵn sàng hy sinh từ bỏ, để con cũng sẵn sàng đáp lại lệnh lên
đường của Chúa gửi đến cho con mỗi ngày.
(5 Phút Lời Chúa)
Sai thợ ra gặt lúa (18.10.2019 –
Thứ Sáu - Thánh Luca, tác giả sách Tin Mừng)
Suy niệm:
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt
lúa về.” (c. 2).
Trong hành trình truyền giáo cuối cùng với
thánh Phaolô (Cv 20, 5),
Luca hẳn đã thấy những cánh đồng lúa chín ở mọi
nơi,
đang chờ nhiều người gặt hái gấp, kẻo lúa bị
hư hoại.
“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi…”
(c. 3).
Dù chưa bao giờ gặp mặt Đức Giêsu,
nhưng Luca đã nghe được tiếng gọi sai đi của
Ngài.
Ông đã là cộng tác viên ở bên thánh Phaolô khi
người ở tù (Plm 24),
và đã một mình ở lại khi người bị giam lúc cuối
đời (2 Tm 4, 11).
Là người dân ngoại được đón nhận Tin Mừng,
Luca muốn trao lại Tin Mừng đó cho những người
dân ngoại khác.
Vừa có học thức và khiếu văn chương, lại vừa
là y sĩ (x. Cl 4, 14),
Luca đã dùng tài năng của mình để phục vụ cho
Lời Chúa (x. Lc 1, 2).
Người ta cho rằng Luca là một họa sĩ đã vẽ
chân dung Đức Mẹ,
nay được tôn kính ở Đền thờ Đức Bà Cả tại
Rôma.
Nhưng điều chắc chắn hơn nhiều là Luca đã vẽ
chân dung Đức Giêsu,
khi thánh nhân cầm bút viết sách Tin Mừng cho
dân ngoại.
Qua việc nghe lời giảng của các tông đồ, qua
tìm hiểu và chiêm niệm,
Luca trở nên người hiểu rất sâu về trái tim
nhân từ của Thầy Giêsu.
Không hiểu Thầy Giêsu thì không thể viết được
cuốn Tin Mừng như thế.
Luca cho ta thấy một Giêsu say mê cầu nguyện,
từ khi Ngài chịu phép rửa của Gioan đến khi chịu
treo trên thập tự.
Cầu nguyện là giây phút Ngài có thể nói lên tiếng
Abba với Cha.
Giây phút riêng tư ấy, cả môn đệ cũng không
khuấy động được.
Luca còn cho thấy một Giêsu cương quyết lên
Giêrusalem, vì đó là ý Cha.
“Hôm nay, ngày mai, và ngày mốt, tôi phải tiếp
tục đi…” (13, 33).
Ngài đi đến nơi khổ đau và cái chết đang chờ đợi
(Lc 9, 51 -19, 27).
Tin Mừng của Luca tràn ngập khuôn mặt của người
nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tiền bạc, nghèo phẩm
giá, nghèo đời sống tâm linh.
Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ, chúc lành
và tha thứ.
Ngài đem đến cuộc cách mạng của Thiên Chúa,
cho người nghèo nên giàu,
đem tình thương tha thứ vô bờ của Thiên Chúa
cho tội nhân
đem sự bình đẳng cho các phụ nữ để họ trở nên
người cộng tác (8, 2-3).
Vì thế Tin Mừng của Luca cũng tràn ngập niềm
vui,
từ niềm vui của Dacaria, của Gioan trong bụng
mẹ, của các mục đồng,
đến niềm vui của các môn đệ sau khi Đức Giêsu
thăng thiên (24, 52).
Thánh sử Luca là một người dân ngoại được ơn
viết Sách Thánh.
Chúng ta cũng là dân ngoại được ơn lãnh nhận đức
tin.
Dù không thể viết được những câu chuyện tuyệt
đẹp như thánh Luca,
về người cha nhân hậu hay về hai môn đệ đi
Emmaus,
nhưng chúng ta vẫn có thể kể câu chuyện đời
mình cho người khác,
câu chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan
chứa niềm vui tri ân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín
vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những
hạt giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu
hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của
người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các
người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống
như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha
nhân.
Nhờ công ơn bao người,
chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp
vỏ
để cố giữ sự nguyên vẹn vô
nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời
một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều
lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên
Chúa,
chúng con phải chết cho
chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu
nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến
cái tôi rộng mở
trước Đấng Tuyệt Đối và tha
nhân. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG MƯỜI
Mang Tin Vui Cho
Người Nghèo
Thời đại của chúng ta
đang đứng trước rất nhiều tình trạng đói nghèo về mặt luân lý, trong đó tự do
và nhân phẩm của con người bị đe dọa nghiêm trọng. Khốn nạn cùng cực nhất là
tình trạng của những người sống mà không hiểu biết được ý nghĩa của cuộc sống.
Lương tâm con người trở nên bị sai lệch hay hoàn toàn hư hỏng, đó là một dạng
nghèo. Bao gia đình phân rã hay đổ vỡ, đó cũng là một dạng nghèo. Chung qui, tất
cả đều là cái nghèo của tội lỗi.
Trong một thế giới bị
xâu xé bởi quá nhiều hình thức nghèo như thế, Giáo Hội phải cố gắng “mang tin
vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Và Giáo hội đã làm điều đó bằng cách thể hiện
những nỗ lực như của Mẹ Têrêsa Calcutta và những nỗ lực tương tự của nhiều người
khác. Tình yêu của họ đối với Chúa Kitô và công việc phục vụ của họ đối với những
con người nghèo khổ nhất đang bộc lộ sâu sắc ý nghĩa ngôn sứ và sứ mạng loan
báo Tin Mừng của toàn Giáo Hội.
Những chứng tá hy sinh
chất chứa bản chất tình yêu Kitô giáo ấy quả là một nguồn khích lệ lớn lao. Đối
với từng người và đối với toàn Giáo Hội, những chứng tá ấy là “một niềm khích lệ
trong Chúa Kitô”â, “một sự an ủi trong lòng mến”, và “một sự thông dự trong
Thánh Thần”. (Pl 2,1)
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 18/ 10
Thánh Luca Tác Giả
Sách Tin Mừng
2Tm 4, 10-17;
Lc 10, 1-9.
LỜI SUY NIỆM: “Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.
Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi giữa bầy sói.”
Chúa Giêsu luôn mời gọi con cái của Người bất cứ lúc nào cũng phải có tâm tình
cầu nguyện cho ơn gọi, đặc biệt là ơn gọi trở nên những linh mục tu sĩ để phục
vụ trên cánh đồng truyền giáo. Đặc biệt trong thế giới ngày hôm nay, bất cứ nơi
đâu, bất cứ môi trường nào, con người vẫn cần có những linh mục và tu sĩ phục vụ
chân tình với tình yêu thương, bởi vì nơi các ngài tràn đầy tình yêu thương của
Chúa. Chính tình yêu là chìa khóa mở được tất cả mọi cánh cửa mà con người cần
đến, và ngăn chận những gì gian dối.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi một người trong chúng con luôn biết cầu nguyện, bảo
vệ và gìn giữ, trân trọng các linh mục và các tu sĩ, bởi vì các ngài luôn bị những
sói dữ chực sẵn chung quanh.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 18-10
Thánh LUCA THÁNH SỬ
(Thế kỷ I)
(Thế kỷ I)
Thánh Luca, tác giả
Phúc âm thứ ba và sách Công vụ sứ đồ, là người đóng góp đơn độc và rông rãi nhất
cho Tân ước. Như các tác phẩm cho thấy, Ngài là một trong những Kitô hữu có học
nhất thời Giáo hội ly khai. Dầu vậy, Ngài rất mực khiêm tốn và ẩn mình đi đến nỗi
dù một chút gì chúng ta biết về Ngài cũng phải đọc trong những dòng chữ của
Ngài bằng kính phóng đại. Chúng ta chú mục vào những chỗ “nhóm chúng tôi” thay
vì “họ”, nghĩa là Ngài nhận sự có mặt của mình trong khung cảnh chuyển nó vào
những dẫn chứng rời rạc trong thánh Phaolô, tìm những khuôn mặt xem ra rõ rệt
nhất, phân tích việc chọn lựa và xử dụng từ ngữ của Ngài. Dần dần hình ảnh của
thánh Luca nổi lên:
Ngài tự bẩm sinh là
người Hylạp, chứ không phải Do thái, nhưng theo ngôn ngữ và văn minh xem ra
Ngài đã không sinh ra tại những thành phố Hy lạp lớn miền cận đông. Một tác giả
thứ hai nói Ngài sinh ra tại Antiôkia, Syria và khi những biến cố xảy ra dường
như Ngài đang sống ở đó trong thập niên bốn mươi của thế kỷ đầu và đã là một
trong những lương dân trở lai đầu tiên.
Theo nghề nghiệp, Ngài
là y sĩ và rất có thể đã theo học đại học tại Tarse. Bởi đó có thể Ngài đã có
vài tiếp xúc trước với thánh Phaolô khoảng năm 49 hay 50, Ngài đã liên kết với
thánh Phaolô trong sứ vụ qua Tiểu Á tới Au Châu. Dầu vậy khi tới Philipphê,
thánh Luca đã dừng lại đó, không phải là giám mục của Giáo hội tân lập vì dường
như thánh nhân đã không hề lãnh nhận chức thánh, nhưng đúng hơn ta có thể gọi
là “thủ lãnh giáo dân”. Hơn nữa, Ngài dường như dấn thân vào thành phần sử gia,
một vai trò mà sự giáo dục và cố gắng rất phù hợp với Ngài. Sự quan sát kỹ lưỡng
và diễn tả chính xác là những từ ngữ của các trường thuốc Hy lạp và các văn phẩm
của thánh Luca chứng tỏ để Ngài đã biết áp dụng chúng vào lãnh vực lịch sử.
Dầu vậy, vào khoảng
năm 57, thánh Phaolô đã từ Corintô trở lại qua Macedonia trên đường đi
Giêrusalem, để thu thập các đại diện từ nhiều Giáo hội khác nhau và thánh Luca
đã nhập bọn, từ đó trở đi Ngài đã không hề rời xa thầy mình. Ngài đã chứng kiến
việc người Do thái tìm cách hại Phaolô và việc người Roma giải cứu thánh nhân.
Khi Phaolô đáp tàu đi Roma sau hai năm bị tù ở Cêsarêa, thánh Luca ở với Ngài.
Họ bị đắm tàu ở Malta và cùng tới Rôma. Nhưng ở Roma. Thánh Luca đã thấy một
trách vụ khác đang chờ đón Ngài. Roma là con mắt của Phêrô và người phát ngôn của
thánh Phêrô là Marcô đã xuất bản Phúc âm viết tay của Ngài.
Nhưng còn những ký ức
khác đã được viết ra hay truyền tụng rời rạc hoặc toàn bộ về cuộc đời của Chúa
chúng ta trên trần gian. Thánh Luca đã quyết định rằng: sứ vụ cho lương dân cần
một Phúc âm mới, được viết ra bằng Hy ngữ văn chương hơn là Phúc âm của Marcô
cho hợp với lương dân có học và không dành riêng cho người Do thái như là Phúc
âm của thánh Mathêo: việc trước tác sách này là phần tiếp theo sách Công vụ sứ
đồ xem như hoàn thành tại Roma giữa năm 61 tới 70, nhưng thánh Luca đã trốn cuộc
bách hại của Nêrô và đã trải qua quãng đời còn lại tại Hy Lạp.
Tài liệu thế kỷ thứ
hai viết: – “Trung thành phục vụ Chúa, không lập gia đình và không có con; Ngài
được qua đời hưởng thọ 84 tuổi ở Boctica, đầy tràn Thánh Thần”.
Thánh Luca là một vị
thánh luôn luôn bình dân. Một phần có lẽ vì chúng ta hiểu rõ Ngài là một giáo
dân, thừa hưởng văn hóa Hy lạp cổ. Hơn nữa, Ngài bình dân vì đặc tính lương dân
và dấn thân của mình. Tất cả văn phẩm của Ngài đầy quan tâm đến con người,
thương cảm con người, liên hệ tới người nghèo, hào hiệp với phụ nữ. Ngài cũng rất
hấp dẫn bởi đã thu thập và kể lại vô số những công cuộc đầy nhân hậu của Chúa
Kitô.
Thật ra người ta sẽ lầm
lẫn khi dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa. Nhưng các y sĩ có
thể hãnh diện về Ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt được Ngài về
“tình yêu dành cho nhân loại”. Và những người còn lại trong chúng ta có thể biết
ơn Ngài vì nhờ Ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả khô chồi (13,60, đứa con
hoang đàng (15,11) và người Samaria nhân hậu (10,300. Chúng ta cũng biết ơn
Ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui.
Nhưng trên tất cả,
chúng ta mắc ơn Ngài Kinh Ave “Ngợi khen” (Magnificat), chúc tụng (Benedictus),
Phó dâng (Nuncdimittis) với quá phân nửa câu truyện ngày lễ Giáng sinh. Rồi đây
là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời chúng ta.
Thánh Luca đã nghe
truyện từ miệng Chúa không ? Thánh nhân không nói điều này cho chúng ta nhưng rất
có thể lắm. Chúng ta biết sau cuộc đóng đinh, mẹ đã được thánh Gioan săn sóc và
chắc chắn đã có sự giao tiếp giữa hai thánh sử này. Nhưng trùng hợp của hai
Phúc âm (như về việc biến hình) hay những trùng hợp về ngôn ngữ trong phần đầu
sách Công vụ mạnh mẽ minh chứng điều này,
Hơn nữa, nếu thánh
Luca được rửa tội ở Antiôkia khoảng năm 40 thì tự nhiên là có thể tìm gặp được
thánh Gioan ở Giêrusalem… Lúc ấy Đức Mẹ trên dưới 70 tuổi. Như vậy không có lý
gì thánh Luca lại không thể nghe chính môi miệng mẹ kể chuyện. Mà dầu chuyện nầy
có đến với Ngài cách gián tiếp đi nữa, chúng ta vẫn biết ơn Ngài đã lưu lại cho
chúng ta những giai thoại đặc biệt ấy.
(daminhvn.net)
18 Tháng Mười
Lòng Ðầy Miệng Mới Nói Ra
Người ta thường bảo:
“Lòng đầy miệng mới nói ra” hay “Văn tức là người”. Hai câu nói này có thể áp dụng
rất đúng vào vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay: thánh Luca, thánh sử.
Chúng ta không có
được những sử liệu để biết về cuộc đời của thánh Luca ngoài danh hiệu thánh
Phaolô nói về ngài: “Luca, vị y sĩ rất thân mến của chúng tôi…”. Vì thế, chúng
ta phải tìm hiểu về con người của thánh Luca qua hai tác phẩm ngài biên soạn,
nhất là qua sách Phúc Âm, thường được trao tặng những biệt hiệu sau đây:
1.
Phúc Âm thánh
Luca là Phúc Âm của Lòng Thương Xót: Thánh Luca đặc biệt nêu bật lòng ưu ái và
sự kiên nhẫn của Chúa Giêsu đối với những tội nhân và những kẻ đau khổ. Ngài
luôn mở rộng đôi tay để đón nhận họ: những người xứ Samaria, những kẻ bị bệnh
phong hủi, những người thu thuế, những kẻ phạm tội công khai, những người nghèo
cũng như các mục đồng thất học.
Ngụ ngôn về người
phụ nữ ngoại tình, về một con chiên lạc, một đồng tiền bị đánh mất, về đứa con
hoang đàng và người trộm lành chỉ được ngòi bút của thánh Luca ghi lại rất linh
động và xúc tích.
2.
Phúc Âm thánh
Luca là Phúc Âm của Ơn Cứu Rỗi phổ quát và đại đồng: Chúa Giêsu dang rộng đôi
cánh tay, chết treo trên thập giá là cho tất cả mọi người. Trong luồng tư tưởng
này, thánh Luca ghi lại gia phả của Chúa Giêsu ngược lại đến nguyên tổ Ađam chứ
không phải chỉ ghi lại Chúa Giêsu là con vua Ðavit, con ông Abraham như thánh sử
Matthêu. Và trong lúc Chúa Giêsu hoạt động rao giảng Tin Mừng, nhiều người dân
không phải là Do Thái cũng được Ngài ân cần tiếp đón và thi ân.
3.Phúc Âm thánh
Luca là Phúc Âm của những người nghèo, trong đó những người đơn sơ, nhỏ bé,
đóng một vai trò quan trọng, như: ông Giacaria và bà Ysave, Ðức Maria và thánh
Giuse, những người mục đồng, ông Simêon và bà góa Anna.
4.
Phúc Âm thánh
Luca là Phúc Âm của sự cầu nguyện và của Chúa Thánh Thần: Luca thường mở đầu đoạn
Phúc Âm với lời ghi nhận: “Chúa Giêsu đang cầu nguyện” và Thánh Thần mang Giáo
Hội đến chỗ hoàn hảo cuối cùng.
5.
Phúc Âm thánh
Luca là Phúc Âm của niềm vui: thánh Luca thành công trong việc phác họa hình ảnh
Giáo Hội sơ khai tràn đầy niềm hân hoan vì cảm nghiệm được mầu nhiệm Phục Sinh,
sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và Ơn Cứu Rỗi.
Mừng lễ kính thánh
Luca, chúng ta hãy cùng nhau đọc đoạn cuối của Phúc Âm, gồm những dòng có thể
so sánh như chiếc gạch nối liên kết sách Phúc Âm với sách Tông Ðồ Công Vụ để diễn
tả một sinh hoạt rất quan trọng của Giáo Hội và của mọi tín hữu Kitô: “Ðoạn
Chúa dẫn các môn đệ đi về phía làng Bêtania. Chúa giơ tay chúc phúc cho họ.
Ðang khi Chúa phán, Chúa rời khỏi họ mà lên trời. Các môn đệ thờ lạy Chúa rồi
trở về Giêrusalem, lòng đầy hân hoan. Họ có mặt luôn luôn trong đền thờ để ca tụng
và cảm tạ Thiên Chúa”.
Dõi theo gương của các
môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn dâng lời ca tụng và cảm tạ
Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Thánh Luca, Phúc Âm Thánh Sử – Lc 10:1-9
Friday 18 October,
2019
Lectio Divina |
Lection Divina Năm C
Thánh Luca, Phúc Âm
Thánh Sử
Mùa Thường
Niên
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa,
Chúa là Đấng phò trợ
và hướng dẫn chúng con,
Xin hãy làm cho tình
yêu của Chúa là nền tảng của đời sống chúng con.
Nguyện xin cho tình
yêu của chúng con đối với Chúa được thể hiện
qua việc chúng con sẵn
lòng làm điều tốt lành cho tha nhân.
Chúa là Đấng hằng sống
hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến
muôn thuở muôn đời. Amen.
2. Bài Đọc Tin Mừng
– Luca 10:1-9
Khi ấy, Chúa chọn thêm
bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các
thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín
đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của
Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng.
Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc
đường.
“Vào nhà nào, trước
tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu ở đấy có con cái sự bình
an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình
an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ
họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà
người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa
các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần
các ngươi”.
3. Suy Niệm
– Hôm nay, lễ kính Phúc Âm Thánh Sử Luca, bài Tin Mừng
trình bày cho chúng ta việc sai đi của Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ, những người đi
loan báo Tin Mừng của Chúa trong các làng mạc và phố thị của miền Galilêa.
Chúng ta là Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ, những người đến sau Nhóm Mười Hai.
Thông qua sứ vụ của các môn đệ, Chúa Giêsu tìm cách khôi phục lại các giá trị cộng
đoàn về truyền thống của những người cảm thấy bị nghiển nát dưới ách nô lệ gấp
đôi bởi đế quốc La-Mã và bởi các giới chức Tôn Giáo. Chúa Giêsu cố gắng đổi
mới và tổ chức lại các cộng đoàn theo cách mà các cộng đoàn phải là sự biểu thị
của Giao Ước, một ví dụ về Vương Quốc Nước Trời. Đây là lý do mà Chúa nhấn
mạnh đến lòng hiếu khách, sự chia sẻ, hiệp thông, đón nhận những kẻ bị gạt ra
ngoài. Điều nhấn mạnh này của Chúa Giêsu được tìm thấy trong lời khuyên bảo
mà Chúa đã ban cho các môn đệ khi Người sai các ông ra đi làm sứ vụ. Vào
thời Chúa Giêsu, đã có những những phong trào khác, giống như Chúa Giêsu, đang
tìm kiếm một phương cách mới để sống và sống chung với nhau, ví dụ ông Gioan Tẩy
Giả, người Biệt Phái và những người khác. Họ cũng đã thành lập các cộng
đoàn môn đệ (Ga 1:35; Lc 11:1; Cv 19:3) và họ đã có các sứ vụ của mình (Mt
23:15). Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy rằng có sự khác biệt rất lớn.
– Lc 10:1-3: Sứ vụ. Chúa
Giêsu sai các môn đệ đến những nơi mà Người sẽ tới. Người môn đệ là phát
ngôn nhân của Chúa Giêsu. Ông ta không phải là sở hữu chủ của Tin Mừng.
Chúa sai các ông đi từng hai người một. Điều đó giúp cho sự hỗ trợ lẫn
nhau, bởi vì sứ vụ không phải là cho cá nhân, mà đúng hơn đó là một sứ vụ cho cộng
đoàn.
– Lc 10:2-3: Đồng chịu trách nhiệm.
Nhiệm vụ đầu tiên là cầu nguyện để Thiên Chúa sai thợ đi. Tất cả các môn
đệ phải cảm thấy rằng họ có trách nhiệm với sứ vụ. Đây là lý do mà tôi
nên cầu nguyện cùng với Chúa Cha cho sự liên tục của sứ vụ. Chúa Giêsu
sai các môn đệ của Người ra đi như chiên con ở giữa bầy sói rừng. Sứ vụ
là một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm; bởi vì xã hội mà trong đó các môn đệ đã
sống và chúng ta đang sống đã và đang tiếp tục đối nghịch với việc tái tổ chức
các cộng đoàn sống động.
– Lc 10:4-6: Lòng hiếu khách.
Trái với các nhà truyền giáo khác, môn đệ của Chúa Giêsu không được mang theo
bên mình bất cứ thứ gì, không bao bị, không giày dép; mà họ chỉ nên
mang theo sự bình an. Điều này có nghĩa là các ông phải tin
vào lòng hiếu khách của người ta; vì người môn đệ là kẻ ra đi không mang theo bất
cứ vật gì, chỉ mang theo sự bình an, cho thấy rằng người đó tin tưởng vào dân
chúng. Người môn đệ nghĩ rằng mình sẽ được chào đón, và người dân thì sẽ
cảm thấy được tôn trọng và được thừa nhận. Bằng cách thực hành này, người
môn đệ chỉ trích luật loại trừ và phục hồi các giá trị cổ xưa của cuộc sống
trong một cộng đoàn. Đừng chào hỏi ai dọc đường có nghĩa
là không nên lãng phí thì giờ cho những việc không thuộc về sứ vụ.
– Lc 10:7: Chia sẻ. Các môn đệ không
nên đi từ nhà này sang nhà khác, mà họ nên ở lại một nơi. Có nghĩa là
họ phải sống chung với những người khác một cách ổn định, tham gia vào cuộc sống
và công việc của người dân, sống và ăn những thứ họ nhận được, bởi vì
thợ thì đáng được trả công. Điều này có nghĩa là họ nên tin vào sự
chia sẻ. Như vậy, bằng cách thực hành mới này, họ khôi phục lại truyền thống
cổ xưa của dân gian, chỉ trích nền văn hóa vơ vét được đặc trưng cho hệ thống
chính trị của Đế chế La Mã và họ đã công bố một mẫu mực mới cho việc sống
chung.
– Lc 10:8: Sự chia sẻ bên bàn ăn.
Khi người Biệt Phái đi rao giảng, họ chuẩn bị sẵn sàng. Họ cho rằng không
thể tin vào thức ăn người ta dọn cho họ vì những thức ấy không phải lúc nào
cũng được “tinh khiết”. Vì điều này, họ mang theo bên mình một bao bị và
túi tiền để có thể mua thức ăn riêng cho bản thân. Như vậy, thay vì giúp
để vượt qua những chia rẽ, việc tuân giữ Lề Luật thanh sạch đã làm suy yếu thêm
những giá trị của đời sống cộng đoàn. Các môn đệ của Chúa Giêsu nên ăn bất
cứ thức gì người ta dọn cho họ. Các ông không được sống tách biệt, ăn thức
ăn riêng của mình. Điều này có nghĩa là các ông phải chấp nhận việc chia
sẻ bên bàn ăn. Trong việc tiếp xúc với dân chúng, các ông không nên sợ sẽ
không giữ được luật tinh khiết. Hành động theo cách đó, các ông bình phẩm
luật lệ hiện hành, và các ông loan báo một lối vào mới cho sự tinh khiết, đó là
sống thân mật với Thiên Chúa.
– Lc
10:9a: Đón nhận kẻ bị hắt hủi. Các môn đệ phải chăm sóc
các người bệnh, chữa sạch người phong cùi và khử trừ ma quỷ (Mt 10:8). Điều
đó có nghĩa là các ông phải chấp nhận những kẻ bị loại trừ vào trong cộng
đoàn. Điều thực hành việc đoàn kết này đã chỉ trích xã hội sống loại trừ
và chỉ ra phương cách cụ thể cho việc này. Đây cũng là công việc mục vụ
dành cho những người bị hắt hủi, khách ngoại kiều và những kẻ bị thiệt thòi
ngày nay.
– Lc
10:9b: Nước Trời sắp đến. Nếu những đòi hỏi này được
tôn trọng, thì các môn đệ có thể và nên hét to lên cho tất cả mọi nơi trên thế
giới biết: Vương Quốc Thiên Chúa đã đến! Để loan báo về
Nước Trời thì việc đầu tiên không phải là dạy về chân lý và học thuyết, mà là
hướng dẫn đến một phương cách sống mới và sống với nhau như anh chị em bắt đầu
từ Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã loan báo cho chúng ta: Thiên Chúa là Cha và
Mẹ của tất cả chúng ta.
4. Một vài câu hỏi
gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Lòng hiếu khách, chia sẻ, hiệp thông, đón chào và
chấp nhận những người bị loại trừ: là những trụ cột hỗ trợ cho đời sống cộng
đoàn. Làm thế nào để thực hiện điều này trong cộng đoàn của tôi?
– Là Kitô hữu có ý nghĩa gì đối với tôi? Trong
một cuộc phỏng vấn trên truyền hình, một người đã trả lời nhà báo như
sau: “Tôi là một Kitô hữu, tôi cố gắng sống theo Tin Mừng, nhưng tôi
không tham gia trong cộng đoàn của Giáo Hội”. Và nhà báo đã nhận xét rằng:
“Thế thì, ông/bà có nghĩ mình là một cầu thủ bóng đá mà không có đội bóng
chăng!” Đây có phải là trường hợp của tôi không?
5. Lời nguyện kết
Lạy CHÚA, muôn loài
Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải
chúc tụng Ngài,
nói lên rằng:
triều đại Ngài vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Đấng
quyền năng.
(Tv 145:10-11)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét