CANH THỨC VƯỢT QUA
St 1,1–2,2; St 22,1-18; Xh 14,15–15,1a; Is 54,5-14; Is 55,1-11; Br 3,9-15.32–4,4; Ed 36,16-17a.18-28; Rm 6,3-11; Tv 117; Lc 24,1-12.
Bài đọc 1 St
1,1–2,2
1 1 Lúc
khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực
thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.
3 Thiên Chúa phán : "Phải có ánh sáng." Liền có ánh
sáng. 4 Thiên Chúa thấy rằng ánh
sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. 5 Thiên Chúa gọi ánh sáng
là "ngày", bóng tối là "đêm". Qua một buổi chiều và một buổi
sáng : đó là ngày thứ nhất.
6 Thiên Chúa phán : "Phải có một cái vòm ở giữa khối nước,
để phân rẽ nước với nước." 7 Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với
nước phía trên. Liền có như vậy. 8 Thiên Chúa gọi vòm đó là "trời". Qua một buổi chiều
và một buổi sáng : đó là ngày thứ hai.
9 Thiên Chúa phán : "Nước phía dưới trời phải tụ lại một
nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có như vậy. 10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất", khối
nước tụ lại là "biển". Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
11 Thiên Chúa phán : "Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ
mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt
giống." Liền có như vậy. 12 Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra
trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 13 Qua một buổi chiều và một
buổi sáng : đó là ngày thứ ba.
14 Thiên Chúa phán : "Phải có những vầng sáng trên vòm trời,
để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. 15 Đó sẽ là những vầng
sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. 16 Thiên Chúa làm ra hai vầng
sáng lớn : vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển
đêm ; Người cũng làm ra các ngôi sao. 17 Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt
đất, 18 để điều khiển ngày và
đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 19 Qua một buổi chiều và một
buổi sáng : đó là ngày thứ tư.
20 Thiên Chúa phán : "Nước phải sinh ra đầy dẫy những
sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời."
21 Thiên Chúa sáng tạo các
thuỷ quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại,
và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 22 Thiên Chúa chúc phúc
cho chúng rằng : "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển ; và chim
phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất." 23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ năm.
24 Thiên Chúa phán : "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ
theo loại : gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
25 Thiên Chúa làm ra dã
thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại.
Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
26 Thiên Chúa phán : "Chúng ta hãy làm ra con người theo
hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời,
gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."
27 Thiên Chúa sáng
tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên
Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ
: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất.
Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." 29 Thiên Chúa phán :
"Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và
mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú,
chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ
xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy." 31 Thiên Chúa thấy mọi sự
Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp ! Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó
là ngày thứ sáu.
2 1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. 2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa
đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày
thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.
( A-Đam trong vườn địa đàng)
Hoặc : Bài đọc ngắn St 1,1.26-31a
1 1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa
sáng tạo trời đất. 26 Thiên Chúa phán : "Chúng ta hãy làm ra con người theo
hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời,
gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."
27 Thiên Chúa sáng
tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên
Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ
: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất.
Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." 29 Thiên Chúa phán :
"Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và
mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú,
chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ
xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy." 31 Thiên Chúa thấy mọi sự
Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp ! Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó
là ngày thứ sáu.
Đáp ca Tv
103,1-2a.5-6.10 và 12.13-14a.24 và 35c (Đ. x. c.
30)
Đáp: Lạy Chúa, xin gửi Thần Khí
tới
và Ngài sẽ đổi mới mặt đất này.
1 Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi !
Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả !
Áo Ngài mặc : toàn oai phong lẫm liệt,
2a cẩm bào Ngài khoác : muôn vạn
ánh hào quang. Đ.
5 Chúa lập địa cầu trên nền vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn đời !
6 Áo vực thẳm choàng lên trái đất,
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non cao. Đ.
10
Chúa khơi nguồn : suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
12
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo. Đ.
13
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
14a Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống
đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Đ.
24
Công trình Ngài, lạy Chúa, quả
thiên hình vạn trạng !
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan,
những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
35c Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi
! Đ.
Hoặc : Tv
32,4-5.6-7.12-13.20 và 22 (Đ. c. 5b)
Đáp :
Tình thương Chúa chan hòa mặt đất.
4 Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin.
5 Chúa yêu thích điều công minh chính trực,
tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Đ.
6 Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời,
một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú.
7 Chúa dồn đại dương về một chỗ,
Người đem biển cả trữ vào kho. Đ.
12
Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa
làm Chúa Tể,
hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp.
13
Từ trời cao nhìn xuống, Chúa thấy hết
mọi người. Đ.
20
Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa,
bởi Người luôn che chở phù trì.
22
Xin đổ tình thương xuống chúng con,
lạy Chúa,
như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài. Đ.
Bài đọc 2 St 22,1-18
1 Hồi đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông :
"Áp-ra-ham !" Ông thưa : "Dạ, con đây !" 2 Người phán : "Hãy đem con của ngươi,
đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó
làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho."
3 Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và
con ông là I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới
nơi Thiên Chúa bảo. 4 Sang
ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa. 5 Ông Áp-ra-ham bảo đầy tớ : "Các anh ở
lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia ; chúng tôi làm việc
thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh."
6 Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con
ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. 7 I-xa-ác thưa với cha là ông Áp-ra-ham : "Cha !" 8 Ông Áp-ra-ham đáp : "Cha đây con
!" Cậu nói : "Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu
?" Ông Áp-ra-ham đáp : "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ
liệu, con ạ." Rồi cả hai cùng đi.
9 Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi
lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. 10 Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao
để sát tế con mình.
11 Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông : "Áp-ra-ham !
Áp-ra-ham !" Ông thưa : "Dạ, con đây !" 12 Người nói : "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó ! Bây giờ Ta
biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa : đối với Ta, con của ngươi, con một của
ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc !" 13 Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc
sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn
thiêu thay cho con mình. 14
Ông Áp-ra-ham đặt tên cho nơi này là " Đức Chúa sẽ liệu." Bởi đó, bây
giờ có câu : "Trên núi Đức Chúa sẽ liệu."
15 Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa 16 và nói : "Đây là sấm ngôn của Đức
Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề : bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc
con của ngươi, con một của ngươi, 17 nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên
đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ
chiếm được thành trì của địch. 18
Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi,
chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta."
Hoặc : Bài đọc ngắn St
22,1-2.9a.10-13.15-18
1 Hồi đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông :
"Áp-ra-ham !" Ông thưa : "Dạ, con đây !" 2 Người phán : "Hãy
đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ
Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ
cho."
9a Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng
bàn thờ tại đó, xếp củi lên. 10 Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
11 Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông :
"Áp-ra-ham ! Áp-ra-ham !" Ông thưa : "Dạ, con đây !" 12 Người nói : "Đừng
giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó ! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên
Chúa : đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc
!" 13 Ông Áp-ra-ham ngước mắt
lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông
Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.
15 Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa 16 và nói : "Đây là sấm
ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề : bởi vì ngươi đã làm điều đó,
đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, 17 nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm
cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi
biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. 18 Mọi dân tộc trên mặt đất
sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời
Ta."
( Apraham sát tế con)
Đáp ca Tv 15,5 và 8.9-10.11 (Đ. c. 1)
Đáp : Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
5 Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con
được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con ;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
8 Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Đ.
9 Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ
hân hoan,
thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.
10
Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong
cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Đ.
11
Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống
:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi ! Đ.
Bài đọc 3 (bắt buộc) Xh 14,15–15,1a
14
15 Khi ấy, con cái
Ít-ra-en thấy người Ai-cập tiến đến sau lưng, thì kinh hãi, liền lớn tiếng kêu
cầu Đức Chúa. Đức Chúa phán với ông Mô-sê : "Có gì mà phải kêu cứu Ta ? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. 16 Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi
khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào. 17 Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo
sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pha-ra-ô cùng
toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. 18 Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển
hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy."
19 Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, lại rời chỗ mà xuống
đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, 20 chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ
Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho
hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. 21 Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh
suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, 22 và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển
khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 23 Quân Ai-cập đuổi theo ; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của
Pha-ra-ô tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Ít-ra-en. 24 Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập,
Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. 25 Người làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi.
Quân Ai-cập bảo nhau : "Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì Đức Chúa chiến đấu
chống lại người Ai-cập để giúp họ." 26 Đức Chúa phán với ông Mô-sê : "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập
xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng." 27 Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập
lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Đức
Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. 28 Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của
Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót. 29 Còn con cái Ít-ra-en đã đi giữa lòng biển
khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 30 Ngày đó, Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập. Ít-ra-en thấy quân
Ai-cập phơi thây trên bờ biển. 31
Ít-ra-en thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Đức
Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người.
15 1 Bấy giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en
hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây. Họ ca rằng :
(Vượt qua Biển Đỏ)
Đáp ca Xh 15,1b-2.3-4.5-6.17-18 (Đ. x. c. 1b)
Đáp : Nào ta hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng.
1b "Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả
uy hùng :
Kỵ
binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương.
2 Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi,
chính
Người cứu độ tôi.
Người
là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc,
Người
là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng. Đ.
3 Người là trang chiến binh, danh Người
là "Đức Chúa !"
4 Xa mã Pha-ra-ô, Người xô xuống lòng biển,
tướng
dũng với binh hùng chết chìm trong Biển Sậy. Đ.
5 Vực thẳm vùi lấp chúng, chúng chìm xuống
nước sâu
chẳng
khác nào hòn đá.
6 Lạy Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức
mạnh.
Tay
hữu Ngài, lạy Chúa, đã nghiền nát địch quân. Đ.
17 Ngài cho dân tiến vào, định cư họ trên
núi,
núi
gia nghiệp của Ngài.
Lạy
Chúa, chính nơi đây Ngài chọn làm chỗ ở,
đây
cũng là đền thánh tự tay Ngài lập nên.
18 Chúa là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời." Đ.
Bài đọc 4 Is 54,5-14
5 Đức Chúa phán với thành Giê-ru-sa-lem:
Đấng cùng ngươi sánh
duyên cầm sắt
chính
là Đấng đã tác thành ngươi,
tôn
danh Người là Đức Chúa các đạo binh ;
Đấng
chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Ít-ra-en,
tước
hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất.
6 Phải, Đức Chúa đã gọi ngươi về,
như
người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn.
"Người
vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho đành ?",
Thiên
Chúa ngươi phán như vậy.
7 Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ
ngươi,
nhưng
vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp.
8 Lúc lửa giận bừng bừng,
Ta
đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi,
nhưng
vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót,
Đức
Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, phán như vậy.
9 Ta cũng sẽ làm như thời Nô-ê : lúc đó,
Ta đã thề rằng
hồng
thuỷ sẽ không tràn ngập mặt đất nữa,
cũng
vậy, nay Ta thề
sẽ
không còn nổi giận và hăm doạ ngươi đâu.
10 Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay,
tình
nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi,
giao
ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay,
Đức
Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy.
11 Hỡi thành đô khốn đốn, ba chìm bảy nổi,
không người ủi an !
Này,
đá của ngươi, Ta lấy phẩm màu tô điểm,
nền
móng ngươi, Ta đặt trên lam ngọc,
12 lỗ châu mai tường thành, Ta xây bằng hồng
ngọc,
các
cửa thành ngươi, bằng pha lê,
tường
trong luỹ ngoài, toàn đá quý.
13 Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ,
chúng
sẽ được vui hưởng thái bình.
14 Nền tảng vững bền của ngươi sẽ là đức
công chính ;
ngươi
sẽ thoát khỏi áp bức, không còn phải sợ chi,
sẽ
thoát khỏi kinh hoàng,
vì
kinh hoàng sẽ không đến gần ngươi nữa.
(Dân Do-Thái xây lại Đền Thờ)
Đáp ca Tv 29,2 và 4.5-6.11 và
12a và 13b (Đ. c. 2a)
Đáp : Lạy
Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt.
2 Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt,
không để quân thù đắc chí nhạo cười con.
4 Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con
lên,
tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. Đ.
5 Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng
Chúa,
cảm tạ thánh danh Người.
6 Người nổi giận, giận trong giây lát,
nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống,
hừng đông về đã vọng tiếng hò reo. Đ.
11
Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót
thương con,
lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ.
12a Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ
điệu.
13b Lạy Chúc là Thiên Chúa con thờ,
xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu. Đ.
Bài đọc 5 Is 55,1-11
1 Đức Chúa phán như sau :
Đến
cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây !
Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng ;
đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào.
2 Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi
sống,
tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng
?
Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon,
được thưởng thức cao lương mỹ vị.
3 Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe
thì các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu,
để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít.
4 Này, Ta đã đặt Đa-vít làm nhân chứng
cho các dân,
làm thủ lãnh chỉ huy các nước.
5 Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân tộc
ngươi không quen biết ;
một dân tộc không quen biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi,
vì Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
vì Đức Thánh của Ít-ra-en
đã làm cho ngươi được vinh hiển.
6 Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp,
kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.
7 Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang
theo,
người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có
mà trở về với Đức Chúa - và Người sẽ xót thương -,
về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.
8 Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là
tư tưởng của các ngươi,
và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta
- sấm ngôn của Đức Chúa.
9 Trời cao hơn đất chừng nào
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.
10
Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ
trời
không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,
cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,
11
thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất
phát từ miệng Ta,
sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,
chưa thực hiện ý muốn của Ta,
chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.
(ngôn sứ Isaia đang rao giảng)
Đáp ca Is 12,2-3.4bcd.5-6 (Đ. c. 3)
Đáp : Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.
2 Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi,
tôi tin tưởng và
không còn sợ hãi,
bởi vì Đức Chúa
là sức mạnh tôi,
là Đấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
3 Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn
ơn cứu độ. Đ.
4bcd Hãy tạ ơn Đức Chúa, cầu khẩn
danh Người,
vĩ nghiệp của Người,
loan báo giữa muôn dân,
và nhắc nhở :
danh Người siêu việt. Đ.
5 Đàn ca lên mừng Đức Chúa,
vì Người đã thực
hiện bao kỳ công ;
điều đó, phải cho
toàn cõi đất được tường.
6 Dân Xi-on, hãy reo hò mừng rỡ,
vì giữa ngươi, Đức
Thánh của Ít-ra-en quả thật là vĩ đại ! Đ.
Bài đọc 6 Br
3,9-15.32–4,4
9 Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en,
những mệnh lệnh tặng
ban sự sống,
hãy lắng tai hiểu
lẽ khôn ngoan.
10
Vì đâu, Ít-ra-en hỡi, vì đâu
ngươi phải nương
thân trên đất thù địch,
phải mòn hao nơi
xứ lạ quê người ?
11
Vì đâu ngươi bị nhiễm uế giữa đám
thây ma,
phải nằm chung với
những người ở trong âm phủ ?
12
Âu cũng vì ngươi đã bỏ Nguồn Mạch
Khôn Ngoan.
13
Nếu ngươi cứ bước đi theo đường Đức
Chúa,
hẳn muôn đời
ngươi đã được an vui.
14
Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan,
đâu là sức mạnh,
đâu là thông hiểu,
đâu là trường thọ
và sự sống,
đâu là ánh sáng
soi con mắt, và đâu là bình an.
15
Nhưng ai tìm thấy nơi cự ngụ,
và vào được kho
tàng của đức khôn ngoan ?
32
Chỉ mình Đấng Toàn Tri mới biết đức
khôn ngoan,
chỉ có trí tuệ
Người mới thông suốt được.
Người đã thiết lập
cõi đất cho bền vững muôn đời,
đã cho thú vật
tràn đầy mặt đất.
33
Người sai ánh sáng, ánh sáng liền
đi ;
gọi ánh sáng lại,
ánh sáng run rẩy vâng lời.
34
Các tinh tú, mỗi ngôi ở vị trí
mình, tưng bừng chiếu sáng.
35
Người gọi chúng, chúng thưa : Có mặt,
và hân hoan chiếu
sáng mừng Đấng tạo nên mình.
36
Chính Người là Thiên Chúa chúng ta,
chẳng có ai sánh
được như Người.
37
Mọi nẻo đường đưa tới hiểu biết,
Người đều tinh thông,
chính Người đã vạch
ra cho Gia-cóp, tôi trung của Người,
cho Ít-ra-en, kẻ Người yêu quý.
38 Rồi đức khôn ngoan xuất hiện trên mặt đất
và
đã sống giữa loài người.
4 1 Đức khôn ngoan
là
huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật,
Luật
tồn tại cho đến muôn đời.
Ai
gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống ;
còn
ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết.
2 Hỡi Gia-cóp, hãy quay trở về đón nhận Lề
Luật,
hãy
dõi theo ánh sáng của Lề Luật
mà
tiến bước về chốn huy hoàng !
3 Vinh quang của ngươi, chớ nhường cho
người khác,
đặc
ân của ngươi, đừng trao cho dân ngoại.
4 Hỡi Ít-ra-en, chúng ta có phúc dường
nào,
vì
được biết những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa !
Đáp ca Tv 18,8.9.10.11
(Đ. x. Ga 6,68c)
Đáp : Lạy
Chúa, Chúa có những lời đem lại sự sống đời đời.
8 Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật
là vững chắc, cho người dại nên khôn. Đ.
9 Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng.
Mệnh lệnh Chúa xiết
bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời. Đ.
10
Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời.
Quyết định Chúa phù hợp
chân lý, hết thảy đều công minh, Đ.
11
thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y
muôn lượng,
ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất. Đ.
(ngôn sứ Ba-rúc)
Bài đọc 7 Ed 36,16-17a.18-28
16 Bấy giờ, có lời Đức Chúa phán với tôi rằng : 17 Hỡi con người, con cái nhà Ít-ra-en đang cư ngụ trên đất của chúng, đã làm
cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng ; lối sống của chúng
trước mặt Ta cũng ô uế như người đàn bà trong thời kinh nguyệt. 18 Ta đã trút xuống trên chúng cơn thịnh nộ của
Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và làm cho đất ấy ra ô uế vì các việc ô uế
của chúng. 19 Ta đã tung chúng đi các
dân và gieo chúng vào các nước. Ta đã căn cứ vào lối sống và các hành vi của
chúng mà xét xử. 20 Chúng đã làm cho danh Ta bị
xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng rằng :
"Đó là dân của Đức Chúa, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người." 21 Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà
Ít-ra-en xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến. 22 Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en : Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này : Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh
thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến. 23 Ta sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của
Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy
giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa
Thượng - khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt
chúng. 24 Bấy giờ, Ta sẽ đem các
ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn
các ngươi về đất của các ngươi. 25 Rồi
Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các
ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. 26 Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các
ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các
ngươi một quả tim bằng thịt. 27
Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi
theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. 28 Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho
tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các
ngươi.
Đáp ca Tv
41,3.5; Tv 42,3.4 (Đ. Tv 41,2)
Đáp : Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước
trong,
hồn
con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.
41 3 Linh hồn con khao khát Chúa Trời,
là Chúa Trời hằng sống.
Bao
giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan ? Đ.
5 Tôi thả hồn miên man tưởng nhớ
thuở
tiến về lều thánh cao sang
đến
tận nhà Thiên Chúa,
cùng
muôn tiếng reo mừng tán tạ,
giữa
sóng người trẩy hội tưng bừng. Đ.
42 3 Xin Ngài thương sai phái ánh sáng
và chân lý của Ngài,
để
soi đường dẫn lối con đi về núi thánh, lên đền Ngài ngự. Đ.
4 Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa,
tới
gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con.
Con
gảy đàn dâng câu cảm tạ,
lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ. Đ.
Hoặc : Tv 50,12-13.14-15.18-19 (Đ. c. 12a)
Đáp : Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng
trong trắng.
12 Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm
lòng trong trắng,
đổi
mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.
13 Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan
Thánh,
đừng
cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Đ.
14 Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài
cứu độ,
và
lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con ;
15 đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội
lỗi,
ai
lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài. Đ.
18 Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm,
con
có thượng tiến lễ toàn thiêu,
Ngài
cũng không chấp nhận.
19 Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm
thần tan nát,
một
tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê. Đ.
(Phao-lô và Banaba ở Antiokia)
Thánh thư Rm
6,3-11
3 Anh em thân mến, anh em không biết rằng : khi chúng ta được dìm vào nước
thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết
của Người sao ? 4 Vì được dìm vào trong cái
chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người
đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng
ta cũng được sống một đời sống mới.
5 Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã
chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống
lại. 6 Chúng ta biết rằng : con
người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con
người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho
tội lỗi nữa. 7 Quả thế, ai đã chết, thì
thoát khỏi quyền của tội lỗi.
8 Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người
: đó là niềm tin của chúng ta. 9 Thật
vậy, chúng ta biết rằng : một khi Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không
bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. 10 Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một
lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. 11 Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống
cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.
Đáp ca Tv
117,1-2.16ab và 17.22-23
Đáp : Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
1 Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
2 Ít-ra-en hãy nói lên rằng :
muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Đ.
16ab Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa
giơ cao,
17 Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống,
để
loan báo những công việc Chúa làm. Đ.
22
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
lại trở nên đá tảng
góc tường.
23
Đó chính là công trình của Chúa,
công trình kỳ diệu
trước mắt chúng ta. Đ.
Tin Mừng
Năm B Mc 16,1-8
1 Hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a
Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp
xác Đức Giê-su. 2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc
mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
3 Các
bà bảo nhau : "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây ?" 4 Nhưng
vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn
lắm. 5 Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên
phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. 6 Nhưng người thanh niên liền
nói : "Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh
chứ gì ! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này ! 7 Xin
các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước
các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông." 8 Vừa
ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng
nói gì với ai, vì sợ hãi.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu đã chịu tất cả những giới hạn của một kiếp người. Ngài được sinh
ra, chịu đau khổ và phải chết đi. Thế nhưng từ nay, cuộc chiến thắng đã hoàn tất.
Ngài được đi vào trong vinh quang Thiên Chúa. Quyền lực sự dữ không còn làm gì
được Ngài nữa. Thiên Chúa đã hạ mình xuống làm người để Ngài nâng con người lên
với Thiên Chúa. Cuộc chiến thắng của Ðức Giêsu kéo theo cuộc chiến thắng nơi mỗi
người chúng ta. Cùng với Ðức Giêsu, chúng ta sẽ đi vào sự sống thần linh của Ba
Ngôi Thiên Chúa.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Cha kính mến, chúng
con tạ ơn Cha. Chương trình cứu chuộc là do sáng kiến của Cha. Cha không tiếc
Con Một của Cha là Ðức Giêsu mà sẵn sàng ban Ngài cho chúng con.
Lạy Ðức Giêsu yêu mến, chúng
con sấp mình thờ lạy tình yêu cao cả của Chúa. Vì hạnh phúc nhân loại chúng
con, Chúa đã chấp nhận tất cả mọi đớn đau, mọi cực hình. Ngài đã yêu và yêu tới
cùng.
Lạy Chúa Thánh Linh chí ái,
sau công trình cứu chuộc của Ðức Giêsu hoàn tất. Chúa Thánh Linh đã thánh hóa để
đưa chúng con vào sự sống thần linh của Thiên Chúa. Nhờ Chúa Thánh Linh, chúng
con được dẫn vào hàng nghĩa tử, để cùng với Ðức Giêsu, chúng con được kêu lên với
Thiên Chúa: Abba! Cha ơi!
Ôi! còn hạnh phúc nào bằng
chúng con được sống sự sống của Thiên Chúa. Chúng con được gọi Thiên Chúa là
Cha. Chúng con được Nước Trời làm gia nghiệp. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Chờ Ðón Chúa Phục Sinh
Lối xóm gọi anh là Tư Còm, vì
anh ốm o gầy còm lại mắc chứng bệnh "sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay,
ngày mai nhậu tiếp". Mỗi lần nhậu vào thì lời ra, anh chửi bới xóm làng,
không trừ một ai. Một số người tìm hiểu hoàn cảnh của anh được biết anh có một
vợ và năm người con. Ngày ngày anh đạp xe xích lô nhưng cũng không có đủ để
nuôi sống gia đình. Các con anh lần lượt bỏ học vì không có tiền để đóng học
phí. Nhà của anh nằm trên vũng sình lầy và bị dột nát. Sống trong hoàn cảnh cơ
cực kéo dài suốt tháng này, qua năm khác như thế, anh thất vọng nên mượn rượu để
giải sầu. Nhưng chén rượu càng vơi thì chén sầu càng đầy ắp.
Hiểu được hoàn cảnh đáng
thương của anh, lối xóm quyết định kẻ bỏ công, người bỏ của để cất lại cho gia
đình anh một căn nhà chắc chắn và kín đáo trên đất liền, để gia đình anh có thể
che nắng che mưa được. Rồi xóm làng cũng đưa đến những lon gạo, những bó củi,
cái nồi, con dao, cái chén, dĩa... thế là anh có đủ những vật dụng cần thiết
trong gia đình và một căn nhà đàng hoàng, bảo đảm cho sức khỏe. Còn các con anh
cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ cho học phí, tất cả đều được đi học
trở lại. Quá cảm động trước tấm lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư Còm đã bỏ
rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình của anh.
Theo một ý nghĩa nào đó,
chúng ta có thể nói anh Tư Còm đã Phục Sinh từ cõi chết của những ngày say sưa
và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại cho tình yêu
thương của Chúa và của mọi người.
Anh chị em thân mến!
Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho việc
đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh bằng sám hối, ăn năn, hãm mình, đền tội, thực thi
bác ái. Giờ đây chúng ta sắp mừng ngày lễ Phục Sinh của Chúa, chúng ta vui mừng
vì Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết. Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống
lại với Ngài. Qua việc lập lại lời tuyên hứa khi chịu Phép Rửa trong nghi thức
vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết
cho tội lỗi nhiều hơn để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn.
Trong biến cố Phục Sinh bằng
quyền năng của Thiên Chúa, ngôi mồ chôn cất Ðức Giêsu được mở ra và Ngài đã bước
ra khỏi mồ. Cũng bằng quyền năng của Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời
của chúng ta sẽ bị lăn đi, nó có thể là hòn đá của ích kỷ, chỉ biết đến lợi ích
riêng mình. Ðức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá đó đi, để biết dấn
thân phục vụ Chúa và hạnh phúc của tha nhân. Nó có thể là hòn đá tham lam, mê
ăn uống đã từng đè nặng trên tâm hồn và thân xác chúng ta. Nó có thể là hòn đá
lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và phục vụ anh chị
em. Nó có thể là hòn đá an phận nhút nhát, khiến chúng ta chỉ giữ đạo trong
Chúa nhật qua việc xem lễ, đọc kinh. Chúa Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống
đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái một cách tràn đầy tình mến hơn.
Anh chị em thân mến!
Mỗi năm khi mừng lễ Phục Sinh, chúng ta chiêm ngưỡng tình thương của Thiên
Chúa dành cho chúng ta và chúng ta đón nhận sức mạnh của Chúa Kitô Phục Sinh để
phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời của mình. Ðể thực sự sống với Chúa Kitô
đêm nay, trong suốt ngày thứ Bảy Tuần Thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ sống
những giây phút thinh lặng để thử tìm hòn đá nào cần phải được lăn đi. Phải
chăng đó là sự thiếu trong sạch, không lương thiện, lười biếng, kiêu căng, giận
hờn, ghen tương... Cùng với sự giúp đỡ của Chúa Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi
cuộc đời của mình để hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc
đời mình thôi chưa đủ, chúng ta còn có bổn giúp thân nhân, bạn bè và đồng loại
cùng hưởng ơn Phục Sinh.
Lạy Ðức Giêsu, cùng với những giây phút Chúa nằm yên trong mồ, xin cho tâm
hồn chúng con cũng lắng dịu để kiểm điểm cuộc đời mình, tìm hiểu xem hòn đá nào
đã và đang ngăn cản chúng con không tiến sâu được vào tình yêu của Chúa và
không gặp gỡ đươc tha nhân. Và khi đã biết được nhờ sức mạnh của Chúa Kitô Phục
Sinh, thì xin Chúa cho chúng con có nghị lực để lăn những hòn đá ấy ra khỏi cuộc
sống, để chúng con thực sự chết cho những tính hư nết xấu và chỗi dậy ra khỏi mồ
để sống cuộc sống xứng với công nghiệp cứu rỗi mà Chúa đã phải trả một giá rất
đắt qua khổ hình và cái chết Thập Giá của Chúa. Chúa đã chết để cho chúng con
được sống. Con xin quyết tâm tiếp tục cuộc sống Phục Sinh của Chúa, đó là cuộc
sống dám sống cho một niềm tin và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình Chúa
đã yêu thương con, chúng con xin tận hiến cuộc đời để sống trọn vẹn luật yêu
thương: "Mến Chúa và Yêu Người". Amen.
(Veritas Asia)
Suy niệm:
Sau hai buổi tối chờ đợi trong đau đớn và thấp
thỏm lo âu,
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa nhật của chúng ta,
những phụ nữ đến viếng mộ của Thầy Giêsu, và đem theo dầu thơm để xức xác.
Các bà đã đi theo và giúp đỡ Thầy từ hồi ở Galilê (Mc 15, 41).
Trong những ngày qua, họ đã lên Giêrusalem chứng kiến Thầy bị đóng đinh (15, 40).
và có người còn đến xem tận mắt chỗ mai táng Thầy (15, 47).
Chúng ta có thể cảm được nỗi đau nơi trái tim của những phụ nữ.
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa nhật của chúng ta,
những phụ nữ đến viếng mộ của Thầy Giêsu, và đem theo dầu thơm để xức xác.
Các bà đã đi theo và giúp đỡ Thầy từ hồi ở Galilê (Mc 15, 41).
Trong những ngày qua, họ đã lên Giêrusalem chứng kiến Thầy bị đóng đinh (15, 40).
và có người còn đến xem tận mắt chỗ mai táng Thầy (15, 47).
Chúng ta có thể cảm được nỗi đau nơi trái tim của những phụ nữ.
Nhưng sáng sớm hôm nay, mặt trời đã mọc, ánh
sáng đã bừng lên.
Ai quên được chuyện bóng tối đã bao phủ khắp mặt đất ngay giữa trưa?
Bóng tối ngạo nghễ chiến thắng khi Thầy Giêsu chết trên thập giá.
Nhưng chuyện ấy đã qua rồi, hoàn toàn qua rồi.
Bây giờ là giờ của ánh sáng, của sự sống, của mặt trời đến thăm.
Thiên Chúa cho thấy sự hiện diện hùng mạnh của Ngài nơi vùng chết chóc.
Một tảng đá rất lớn che cửa mộ, ai sẽ giúp các phụ nữ yếu đuối này lăn ra?
Vậy mà vừa ngước lên nhìn, các bà thấy nó đã được lăn ra rồi (c. 4).
Thiên Chúa làm điều tưởng như không thể.
Ai quên được chuyện bóng tối đã bao phủ khắp mặt đất ngay giữa trưa?
Bóng tối ngạo nghễ chiến thắng khi Thầy Giêsu chết trên thập giá.
Nhưng chuyện ấy đã qua rồi, hoàn toàn qua rồi.
Bây giờ là giờ của ánh sáng, của sự sống, của mặt trời đến thăm.
Thiên Chúa cho thấy sự hiện diện hùng mạnh của Ngài nơi vùng chết chóc.
Một tảng đá rất lớn che cửa mộ, ai sẽ giúp các phụ nữ yếu đuối này lăn ra?
Vậy mà vừa ngước lên nhìn, các bà thấy nó đã được lăn ra rồi (c. 4).
Thiên Chúa làm điều tưởng như không thể.
Các bà đi tìm xác Thầy thì không gặp, lại gặp
một thiên thần
dưới dạng một thanh niên mặc áo trắng ngồi trong mộ (c. 5).
Thật là đáng sợ khi thấy sự linh thánh cao cả lại gần gũi mình đến thế.
Vị thiên thần này loan báo cho các bà Tin Mừng mà họ chẳng dám nghĩ tới.
Đây là việc Thiên Chúa đã làm cho Thầy của họ:
“Đức Giêsu Nadarét, Đấng đã bị đóng đinh, Đấng ấy đã được trỗi dậy rồi.”
Đấng là Con, đã khó nhọc xin vâng ý Cha trong vườn Dầu,
Đấng đã chấp nhận uống chén đắng, hiến mạng làm giá chuộc (Mc 10, 45),
Đấng có vẻ bị Cha ruồng rẫy khi chịu đóng đinh trên thập giá (15, 34),
Đấng ấy nay được Cha phục sinh, được Thiên Chúa nâng dậy rồi.
Xác Ngài không còn đây, đây chỉ là chỗ trước đây người ta đặt Ngài nằm.
Thiên Chúa đã bất ngờ chuyển thất bại thành chiến thắng cho Con của Ngài.
Ánh sáng đã thắng bóng tối, sự sống đã thắng sự chết,
tình yêu đã thắng hận thù, công lý và sự thật đã thắng bất công và dối trá.
Chiến thắng của Giêsu là chiến thắng của những người cùng thân phận như Ngài.
Đây là khởi đầu cho chiến thắng chung cục của Thiên Chúa vào ngày tận thế.
dưới dạng một thanh niên mặc áo trắng ngồi trong mộ (c. 5).
Thật là đáng sợ khi thấy sự linh thánh cao cả lại gần gũi mình đến thế.
Vị thiên thần này loan báo cho các bà Tin Mừng mà họ chẳng dám nghĩ tới.
Đây là việc Thiên Chúa đã làm cho Thầy của họ:
“Đức Giêsu Nadarét, Đấng đã bị đóng đinh, Đấng ấy đã được trỗi dậy rồi.”
Đấng là Con, đã khó nhọc xin vâng ý Cha trong vườn Dầu,
Đấng đã chấp nhận uống chén đắng, hiến mạng làm giá chuộc (Mc 10, 45),
Đấng có vẻ bị Cha ruồng rẫy khi chịu đóng đinh trên thập giá (15, 34),
Đấng ấy nay được Cha phục sinh, được Thiên Chúa nâng dậy rồi.
Xác Ngài không còn đây, đây chỉ là chỗ trước đây người ta đặt Ngài nằm.
Thiên Chúa đã bất ngờ chuyển thất bại thành chiến thắng cho Con của Ngài.
Ánh sáng đã thắng bóng tối, sự sống đã thắng sự chết,
tình yêu đã thắng hận thù, công lý và sự thật đã thắng bất công và dối trá.
Chiến thắng của Giêsu là chiến thắng của những người cùng thân phận như Ngài.
Đây là khởi đầu cho chiến thắng chung cục của Thiên Chúa vào ngày tận thế.
Vị thiên thần nhờ các bà nhắn giùm các môn đệ
về cái hẹn sau khi ăn bữa Tiệc Ly của Thầy Giêsu:
“Sau khi được trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (14, 28).
Bây giờ “Thầy đang đến Galilê trước các ông rồi…” (15, 7).
Nhưng theo thánh Marcô, các bà đã không nhắn, “họ chẳng nói gì với ai.”
Họ hoảng sợ, chạy trốn khỏi mộ, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía (c. 8).
Như thế các phụ nữ phần nào cũng giống các môn đệ, sợ hãi và trốn chạy.
Họ đã theo Thầy Giêsu đến tận cùng của cái chết bi đát,
nhưng họ lại hoảng sợ trước ngôi mộ trống, trước Tin Mừng Phục sinh.
Dầu vậy Thiên Chúa cũng thu xếp để Đấng phục sinh gặp lại các môn đệ.
nên cuộc hẹn gặp ấy không vì các phụ nữ mà bị đổ vỡ.
về cái hẹn sau khi ăn bữa Tiệc Ly của Thầy Giêsu:
“Sau khi được trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (14, 28).
Bây giờ “Thầy đang đến Galilê trước các ông rồi…” (15, 7).
Nhưng theo thánh Marcô, các bà đã không nhắn, “họ chẳng nói gì với ai.”
Họ hoảng sợ, chạy trốn khỏi mộ, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía (c. 8).
Như thế các phụ nữ phần nào cũng giống các môn đệ, sợ hãi và trốn chạy.
Họ đã theo Thầy Giêsu đến tận cùng của cái chết bi đát,
nhưng họ lại hoảng sợ trước ngôi mộ trống, trước Tin Mừng Phục sinh.
Dầu vậy Thiên Chúa cũng thu xếp để Đấng phục sinh gặp lại các môn đệ.
nên cuộc hẹn gặp ấy không vì các phụ nữ mà bị đổ vỡ.
Làm sao ta không sợ hãi và chạy trốn trước việc
đi loan báo Chúa Phục sinh?
Làm sao ta không chỉ dừng lại trước cửa mộ, trước cái chết của Chúa?
Mầu nhiệm Phục sinh thật là cao cả, nhưng mầu nhiệm ấy vẫn gọi ta đến gần.
Ta phải sống mầu nhiệm đó mới thực sự là sống mầu nhiệm Vượt Qua.
“Hãy về nói với môn đệ của Người…” (c. 7).
hãy về nói với thế giới quanh ta rằng Đức Giêsu phục sinh muốn hẹn gặp họ.
“Ở đó các ông sẽ thấy Người…”
Thế giới hôm nay cần thấy Đấng chịu đóng đinh, Đấng đang sống biết bao!
Làm sao ta không chỉ dừng lại trước cửa mộ, trước cái chết của Chúa?
Mầu nhiệm Phục sinh thật là cao cả, nhưng mầu nhiệm ấy vẫn gọi ta đến gần.
Ta phải sống mầu nhiệm đó mới thực sự là sống mầu nhiệm Vượt Qua.
“Hãy về nói với môn đệ của Người…” (c. 7).
hãy về nói với thế giới quanh ta rằng Đức Giêsu phục sinh muốn hẹn gặp họ.
“Ở đó các ông sẽ thấy Người…”
Thế giới hôm nay cần thấy Đấng chịu đóng đinh, Đấng đang sống biết bao!
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
nên con hiểu cái liều của người kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
nhưng lại được tất cả.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J
Ai có thể lăn tảng đá giùm ta đây?
Năm B - 07-04-2012
Tin Mừng: Mc 16,1-8
Chúng ta vừa trải qua Tuần Thánh, những ngày cao điểm
của năm Phụng vụ. Trong những ngày đó, chúng ta đã lần lượt nếm trải những cung
bậc cảm xúc khác nhau, những cung bậc trầm buồn, những không gian sắc tím. Nơi ấy
ta được đức tin dẫn vào những gì là oan ức, khổ đau, và đỉnh cao là cái chết. Đứng
trước những vấn nạn nhân sinh như thế, ta cảm thấy bế tắc, không thể cựa quậy,
đến nỗi, như các phụ nữ ra viếng mộ năm nào, ta cũng có thể thốt lên: “Ai có thể lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?”
Quả thực với thân
phận thụ tạo, còn quá nhiều thứ vượt khỏi tầm kiểm soát của con người. Đứng trước
bệnh tật, khổ đau, cái chết, lý trí và ý chí của con người đành dừng bước. Đứng
trước chúng, những lời hoa mỹ cũng trở nên câm nín. Bóng đen của sự sợ hãi bao
trùm lên mỗi người, như các phụ nữ và nhất là các môn đệ, đã từng cảm nghiệm.
Ai có thể lăn tảng đá giùm ta đây? Khi biết và đặt
ra nghi vấn này cũng đã là một bước tiến dài trên hành trình đức tin rồi. Đứng
trước cái chết của Chúa, cách riêng là mong manh phận người, phản ứng của mỗi
người diễn ra cũng khác nhau. Cùng là hoảng sợ, có người chối bỏ, có người chạy
trốn, nhưng cũng có người đi theo đến tận cây thập giá. Cùng là hoang mang, có
người đóng kín cửa than khóc, có người lại chờ để viếng thăm mộ sớm. Chỉ những
người mạnh dạn lên đường khi trời còn tinh sương mới đặt ra nghi vấn này. Và họ
đã được đền đáp.
Ai có thể lăn tảng đá giùm ta đây? Câu hỏi như chưa
có lời giải đáp lúc đăng trình, giờ đã được trả lời thoả mãn khi các bà đến trước
cửa mộ. Nỗi đau, cái chết và sự mất mát đang đè nặng tâm hồn các bà, giờ đã được
cất đi qua mặc khải của thiên sứ ngồi đó. Hơn thế, mặc khải còn cho thấy bóng tối
của sự chết đã không thể kìm hãm ánh chói loà của sự phục sinh; bóng mây của thất
vọng đã không ngăn được ánh mai của hy vọng toả rạng. Chính sự kiện phục sinh
đã cất tảng đá ra khỏi cửa mộ; chính sự kiện ấy đã là lời giải đáp cho thân phận
bế tắc của con người; và chính sự kiện ấy đã nhen lên cho con người niềm hy vọng
mai hậu.
Tóm lại, Ai có thể lăn tảng đá giùm ta đây? Từ một nghi vấn, xuất
phát bởi lòng hăng hái gắn bó với cái chết của Đức Giêsu, các phụ nữ đã được
đón nhận mặc khải đầu tiên về một sự kiện lớn lao, vượt ra khỏi tâm trí của các
bà. Xa hơn nữa, các bà còn trở nên sứ giả của các sứ giả, tông đồ của các tông
đồ: “Xin các bà về nói với môn đệ
Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được
thấy Người như Người đã nói với các ông.”
Gợi ý chia sẻ: Anh chị em hãy chia sẻ cảm nghiệm Phục Sinh của Chúa
trong chính đời sống của anh chị em. Anh chị em đã bước từ chốn sợ hãi sang nơi
vững tin bằng những tác động nào?
Học viện Đa Minh
(CSTMHĐGD ĐM tháng 4.2012)
07/04/12 THỨ BẢY TUẦN
THÁNH
Canh thức Vượt Qua
Mc 16,1-8
Canh thức Vượt Qua
Mc 16,1-8
TIẾP NHẬN ĐỜI SỐNG
MỚI
“Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa.” (Mc 16,6)
Suy niệm: Sau ba tháng tập luyện ở trường bơi Bolles danh tiếng ởFlorida (Mỹ) chuẩn bị cho thế vận hội sắp tới, đội tuyển
bơi lội Việt Nam
nay phải rời trường đi lang thang và thầy trò ta tập tành với nhau trong các hồ
bơi hạng xoàng tại xứ người. Kinh phí tập huấn hàng tỉ đồng đem đổ biển cũng vì
các huấn luyện viên nội cứ đeo bám học trò cũ của mình và can
thiệp sâu vào chuyên môn của chuyên gia nước ngoài. Ta chưa học được bài từ bỏ
nên phải “trả giá cho sự lạc hậu”! (x. Tuổi
Trẻ 19.3.2012, tr. 14).
Khi ngôi mộ đã an táng Chúa Giêsu trở thành ngôi mộ trống cũng là lúc các môn đệ Chúa Giêsu phải làmtrống rỗng tâm hồn mình để tiếp nhận và sống với sự kiện Chúa đã sống lại. Nếu họ cứ cố thủ với những ý nghĩ về Chúa của họ trước đây, họ sẽ trở thành người lạc hậu và mầu nhiệm phục sinh không còn ý nghĩa gì với họ.
Mời Bạn: Chúa phục sinh muốn chiếm hữu trọn vẹn con người bất toàn tội lỗi, lo sợ của ta để biến đổi nên những con người mới. Ngài muốn ban cho ta ánh sáng chân lý, niềm hạnh phúc và tự do trong Thánh Thần. Chúng ta có sẵn sàng để từ bỏ con người cũ, ích kỷ nhỏ nhen để mặc lấy người mới không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tôi làm một vài hy sinh trong lời nói, trong việc ăn uống… để sống tinh thần con người mới.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin phó dâng trọn thân con cho Chúa. Con muốn lắng nghe lời Chúa để tiếp nhận sự khôn ngoan của Chúa. Xin Chúa đổ vào tim con tràn đầy tình yêu Chúa để từng ngày con được biến đổi nên giống Chúa và luôn bước đi trong đường lối của Ngài. Amen.
“Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa.” (Mc 16,6)
Suy niệm: Sau ba tháng tập luyện ở trường bơi Bolles danh tiếng ở
Khi ngôi mộ đã an táng Chúa Giêsu trở thành ngôi mộ trống cũng là lúc các môn đệ Chúa Giêsu phải làmtrống rỗng tâm hồn mình để tiếp nhận và sống với sự kiện Chúa đã sống lại. Nếu họ cứ cố thủ với những ý nghĩ về Chúa của họ trước đây, họ sẽ trở thành người lạc hậu và mầu nhiệm phục sinh không còn ý nghĩa gì với họ.
Mời Bạn: Chúa phục sinh muốn chiếm hữu trọn vẹn con người bất toàn tội lỗi, lo sợ của ta để biến đổi nên những con người mới. Ngài muốn ban cho ta ánh sáng chân lý, niềm hạnh phúc và tự do trong Thánh Thần. Chúng ta có sẵn sàng để từ bỏ con người cũ, ích kỷ nhỏ nhen để mặc lấy người mới không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tôi làm một vài hy sinh trong lời nói, trong việc ăn uống… để sống tinh thần con người mới.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin phó dâng trọn thân con cho Chúa. Con muốn lắng nghe lời Chúa để tiếp nhận sự khôn ngoan của Chúa. Xin Chúa đổ vào tim con tràn đầy tình yêu Chúa để từng ngày con được biến đổi nên giống Chúa và luôn bước đi trong đường lối của Ngài. Amen.
Lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa
Bài đọc: Gen
1:1-2:2; Exo 14:15-15:1; Isa 54:5-14; Isa 55:1-11; Eze 36:16-28; Rom 6:3-11; Mk
16:1-8.
Thiên Chúa
chúng ta thờ là Thiên Chúa duy nhất trong vũ trụ này. Sự kiện Ngài cho Con của
Ngài, Đức Giêsu Kitô, từ cõi chết sống lại một lần nữa chứng tỏ điều này. Nhìn
lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ và điều khiển
muôn loài. Ngài đã chọn Israel như dân riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu
Thế ra đời. Ngài trung thành trong những gì Ngài đã hứa với con người cho dù
con người đã phản bội Ngài. Ngài luôn tìm cách để cứu độ con người qua biến cố
Xuất Hành, qua việc giải phóng và cho dân hồi hương từ các nơi lưu đày. Nhưng sự
kiện nổi bật nhất trong lịch sử cứu độ là gởi Đấng Thiên Sai tới mang lấy thân
xác con người để chuộc tội cho mọi người. Đấng Thiên Sai đã trải qua cuộc khổ nạn
và sống lại vinh quang là trọng tâm của Mầu Nhiệm Phục Sinh chúng ta cử hành
đêm nay.
Trong phần phụng
vụ Lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn các tín hữu nhìn lại lịch sử Cứu Độ của
Thiên Chúa, bắt đầu với việc tạo dựng vũ trụ và con người, và kết thúc bằng biến
cố Phục Sinh của Đức Kitô. Nơi nào hòan cảnh cho phép, Giáo Hội khuyến khích đọc
cả 7 bài; nơi nào hòan cảnh không cho phép, phải đọc đọc 3 bài: Biến cố Xuất
Hành, ý nghĩa của Bí-tích Rửa Tội trong Thư Rôma, và Biến cố Phục Sinh theo
Marcô. Thông thường, các giáo xứ đọc 5 bài: trình thuật tạo dựng trong Sáng Thế
Ký, trình thuật tái tạo một quả tim mới và thần khí mới của tiên tri Ezekiel,
và 3 bài phải đọc. Hai bài từ Sách Isaiah về sự trung thành yêu thương của
Thiên Chúa, và những gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai tới, cho những
nơi có hòan cảnh đọc cả 7 bài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sáng tạo trời đất và mọi lòai trong đó.
Trình thuật tạo
dựng này rất quan trọng cho những ai đang muốn tước quyền sống của thai nhi,
người già cả, và các bệnh nhân phải chịu bệnh lâu ngày. Con người không có quyền
trên sự sống, họ được trao quyền để bảo vệ sự sống mà thôi. Lương thực Thiên
Chúa dựng nên không bao giờ cạn, vì các hạt giống đều có tiềm năng sinh nhiều hạt
giống khác, chim trời không ngừng đẻ trứng, cá biển mang những buồng trứng khổng
lồ, súc vật cũng có khả năng sinh sôi nẩy nở vô số. Vì thế, Thiên Chúa cũng
truyền cho con người phải sinh sản cho đầy mặt đất. Con người không được nhân
danh thiếu đồ ăn để tước đi quyền sống của bất cứ ai.
(1) Ngày thứ nhất,
Thiên Chúa dựng nên ánh sáng và bóng tối: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời
đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần
khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: "Phải có ánh
sáng." Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa
phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày," bóng
tối là "đêm." Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
(2) Ngày thứ
hai, Thiên Chúa dựng nên trời: “Thiên Chúa phán: "Phải có một cái vòm ở giữa
khối nước, để phân rẽ nước với nước." Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân
rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi vòm
đó là "trời." Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ
hai.”
(3) Ngày thứ
ba, Thiên Chúa dựng nên đất và các lòai thảo mộc: “Thiên Chúa phán: "Nước
phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có như vậy.
Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất," khối nước tụ lại là "biển."
Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh thảo mộc
xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại,
trong có hạt giống." Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt
giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại.
Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày
thứ ba.”
(4) Ngày thứ
tư, Thiên Chúa dựng nên mặt trời, mặt trăng, và các tinh thể trên vòm trời:
“Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày
với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng
sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. Thiên Chúa làm
ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để
điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng
trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ
ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một
buổi sáng: đó là ngày thứ tư.”
(5) Ngày thứ
năm, Thiên Chúa dựng nên chim trời, cá biển: “Thiên Chúa phán: "Nước phải
sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất,
dưới vòm trời." Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh
vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo
loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng:
"Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho
nhiều trên mặt đất." Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ
năm.”
(6) Ngày thứ
sáu, Thiên Chúa dựng nên thú vật và con người.
- Tạo dựng thú
vật: “Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia
súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy. Thiên Chúa làm
ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo
loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
- Tạo dựng con
người: Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng
ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã
thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." Thiên Chúa sáng tạo con
người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên
Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho
họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt
đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật
bò trên mặt đất." Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ
cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để
làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò
dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương
thực. Liền có như vậy." Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất
tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
(7) Ngày thứ bảy,
Thiên Chúa nghỉ ngơi: “Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất.
Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi
công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.”
2/ Bài đọc II: Israel thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập.
Cuộc xuất hành
của Israel ra khỏi Ai-cập: Sau khi ông Giuse qua đời, vị vua mới,
Pharaoh, lên ngôi. Ông không còn nhớ gì tới công ơn của Giuse; nhưng hành hạ
người Do-thái sống trên đất Ai-cập, bắt họ sống kiếp nô lệ cho người Ai-cập.
Dân chúng kêu cầu lên Thiên Chúa, và Ngài đã chọn ông Moses và Aaron để cứu dân
thóat khỏi tay người Ai-cập.
(1) Kế họach cứu
độ dân được mặc khải cho ông Moses: “Đức Chúa phán với ông Moses: "Có gì
mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ nhổ trại. Phần ngươi, cầm
gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng
biển, để con cái Israel đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập
ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển
hách khi đánh bại Pharaoh cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy.
Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách
vì đã đánh bại Pharaoh cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy."
(2) Dân Israel
đi qua Biển Đỏ ráo chân: Để thóat khỏi đất Ai-cập, dân chúng phải vượt Biển Đỏ.
Làm sao dân chúng có thể vượt biển mà không có thuyền bè, nhất là cho một đám
đông dân Do-thái như vậy? Thiên Chúa làm rẽ nước biển làm hai, dựng đứng như
hai bức tường thành để dân Ngài đi qua: “Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước
hàng ngũ Israel, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước
mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel. Bên
kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt
đêm không xáp lại gần nhau được. Ông Moses giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho
một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô
cạn. Nước rẽ ra, và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước
sừng sững như tường thành hai bên tả hữu.”
(3) Chúa tiêu hủy
toàn bộ quân đội của Pharaoh trong Biển Đỏ: Thấy dân Do-thái đi qua Biển Đỏ.
“Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pharao tiến
vào giữa lòng biển, đằng sau dân Israel. Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và
mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ
chúng. Người làm cho chiến xa kẹt bánh khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi.
Quân Ai-cập bảo nhau: "Ta phải trốn bọn Israel, vì Đức Chúa chiến đấu
chống lại người Ai-cập để giúp họ."”
Đức Chúa phán với
ông Moses: "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập
cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng." Ông Moses giơ tay trên mặt biển,
và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước
biển, Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập xuống, vùi lấp chiến
xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pharaoh đã theo
dân Israel đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót.”
(4) Dân Israel
nhận ra quyền lực của Thiên Chúa và tin vào Ngài: “Con cái Israel đã
đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. Ngày
đó, Đức Chúa đã cứu Israel khỏi tay quân Ai-cập. Israel thấy
quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển. Israel thấy Đức Chúa đã ra tay
hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin
vào ông Moses, tôi trung của Người. Bấy giờ ông Moses cùng với con
cái Israel hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây. Họ ca rằng: "Tôi
xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại
dương.””
3/ Bài đọc III: Thiên Chúa trung thành yêu thương dân Ngài đến muôn đời.
3.1/ Tình nghĩa
chồng vợ giữa Thiên Chúa và Israel:
- Thiên Chúa được
ví như người chồng: “Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt chính là Đấng
đã tác thành ngươi, tôn danh Người là Đức Chúa các đạo binh; Đấng chuộc ngươi về,
chính là Đức Thánh của Israel, tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất.”
- Israel được
ví như người vợ bất trung: “Phải, Đức Chúa đã gọi ngươi về, như người đàn bà bị
ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn. "Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho
đành?" Thiên Chúa ngươi phán như vậy. Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng
bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp. Lúc lửa
giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa
ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót, Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, phán
như vậy.”
3.2/ Tình yêu
Thiên Chúa với Israel sẽ bền vững muôn đời.
- Chúa đánh phạt
rồi Ngài lại xót thương: “Ta cũng sẽ làm như thời Noah: lúc đó, Ta đã thề rằng
hồng thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa, cũng vậy, nay Ta thề sẽ không còn nổi
giận và hăm doạ ngươi đâu. Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa
của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng
chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy.”
- Ngài sẽ cho
dân về để tái thiết thành Jerusalem: “Hỡi thành đô khốn đốn, ba chìm bảy nổi,
không người ủi an! Này, đá của ngươi, Ta lấy phẩm màu tô điểm, nền móng ngươi,
Ta đặt trên lam ngọc, lỗ châu mai tường thành, Ta xây bằng hồng ngọc, các cửa
thành ngươi, bằng pha lê, tường trong luỹ ngoài, toàn đá quý.”
- Ngài sẽ bảo vệ
con cái của Israel: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ, chúng sẽ được vui
hưởng thái bình. Nền tảng vững bền của ngươi sẽ là đức công chính; ngươi sẽ
thoát khỏi áp bức, không còn phải sợ chi, sẽ thoát khỏi kinh hoàng, vì kinh
hoàng sẽ không đến gần ngươi nữa.”
4/ Bài đọc IV: Những gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai tới.
4.1/ Lời tiên
đóan về Bí-tích Thánh Thể: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn
đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải
trả đồng nào. Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công vất vả vào
thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được
ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe
thì các ngươi sẽ được sống.”
4.2/ Lời tiên
đóan về giao ước mới: Giòng dõi David sẽ làm vua cai trị dân Người.
(1) Giao ước mới
và vĩnh cửu: “Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân
nghĩa với David. Này, Ta đã đặt David làm nhân chứng cho các dân, làm thủ lãnh
chỉ huy các nước. Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân tộc ngươi không quen biết; một
dân tộc không quen biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, vì Đức Thánh của Israel đã làm cho ngươi được vinh hiển.”
- Người sẽ là
Vua của các dân tộc, chứ không phải chỉ là Vua của Israel mà thôi.
(2) Kêu gọi dân
trở về với Thiên Chúa: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người
lúc Người ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất
lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa - và Người sẽ xót
thương - về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.”
4.3/ Sự khác biệt
giữa Thiên Chúa và con người:
(1) Về tư tưởng
và đường lối họat động: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của
các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta - sấm ngôn của
Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối
các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.”
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.”
(2) Hiệu quả của
Lời Chúa: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa
thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có
hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ
miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của
Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
5/ Bài đọc V: Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các
ngươi.
5.1/ Israel đã
làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng: Tiên tri Ezekiel
và dân tộc Israel phải sống trong các nơi lưu đày vì tội lỗi của họ
đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Sống trong nơi lưu đày, Thiên Chúa kêu gọi họ hãy bỏ
đàng tội lỗi và quay về với Lề Luật của Thiên Chúa; nhưng họ đã không nghe: cuộc
sống của họ nơi đất khách quê người càng làm ô danh Thiên Chúa và làm cho đất
đai, nơi họ đang sinh sống, ra ô uế.
Tiên tri Ezekiel tường thuật những gì
Thiên Chúa phán với ngài: “Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: Hỡi con người,
con cái nhà Israel đang cư ngụ trên đất của chúng, đã làm cho đất ấy ra ô uế vì
lối sống và các hành vi của chúng; lối sống của chúng trước mặt Ta cũng ô uế
như người đàn bà trong thời kinh nguyệt. Ta đã trút xuống trên chúng cơn thịnh
nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và làm cho đất ấy ra ô uế vì các việc
ô uế của chúng. Ta đã tung chúng đi các dân và gieo chúng vào các nước. Ta đã
căn cứ vào lối sống và các hành vi của chúng mà xét xử. Chúng đã làm cho Danh
Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng rằng:
"Đó là dân của Đức Chúa, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người." Nhưng
Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Israel xúc phạm giữa các dân
mà chúng đi đến.”
5.2/ Vì Danh Thánh, Thiên Chúa sẽ thanh tẩy
dân Ngài: “Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Israel: Đức Chúa là Chúa Thượng phán
thế này: Hỡi nhà Israel, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh
thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến.
Ta sẽ biểu dương Danh thánh thiện vĩ đại của
Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy
giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa
Thượng - khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt
chúng.” Ba điều Thiên Chúa sẽ làm cho Israel :
(1) Cho dân Israel hồi
hương: “Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại
từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi.”
(2) Thanh tẩy dân chúng: “Rồi Ta sẽ rảy nước
thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch
mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần
khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các
ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta
sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ
các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.”
(3) Ngài sẽ nối lại mối liên hệ với Israel : “Các
ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân
của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.”
6/ Bài đọc
VI: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống
lại với Người.
6.1/ Ý nghĩa của Bí tích Rửa Tội: Thánh
Phaolô nhấn mạnh đến hai chiều kích của Bí-tích:
(1) Chiều đi xuống là dìm mình trong cái
chết của Đức Kitô: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước
thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết
của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được
mai táng với Người.”
(2) Chiều đi lên là cùng được sống lại
vinh hiển với Người: “Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ
quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.
Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết,
thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.”
6.2/ Làm thế nào để sống đức tin của Bí
tích Rửa Tội?
(1) Phải từ bỏ con người cũ và nếp sống tội
lỗi: “Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập
giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để
chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi
quyền của tội lỗi.”
(2) Phải mặc lấy Đức Kitô và sống đời sống
mới cho Thiên Chúa (nhân đức và ân sủng): “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức
Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy,
chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ
Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là
chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa.
Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống
cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.”
7/ Phúc
Âm: Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa.
7.1/ Lối suy nghĩ của con người: Các bà
này là những người đã chứng kiến cuộc tử nạn, tháo đanh, và táng xác Chúa Giêsu
trong hang đá. Khi táng xác, các bà không kịp ướp xác Chúa, vì là ngày Sabbath;
nên các bà nóng lòng chờ đến ngày hôm sau để ra mộ ướp xác Ngài. Truyền thống
Do-thái tin: người chết mà không được ướp xác là điều xỉ nhục.
(1) Chuẩn bị ướp xác Chúa: “Vừa hết ngày
Sabbath, bà Maria Magdala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu
thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt
trời hé mọc, các bà ra mộ.”
(2) Nỗi lo sợ không đủ sức để lăn tảng đá
khỏi cửa mộ: Các tông đồ đã bỏ trốn cả vì sợ người Do-thái. Các bà có thể đi lại
dễ dàng, nhưng không thể tìm một người đàn ông để giúp mình lăn tảng đá ra khỏi
mộ, vì là một tảng đá nặng. Đang khi đi đường, các bà bảo nhau: "Ai sẽ lăn
tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy
tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
7.2/ Tin Mừng Phục Sinh: Các bà không thể
hiểu “từ cõi chết sống lại có nghĩa gì;” vì truyền thống Do-thái tin chết là hết.
Các bà không thể tin Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
(1) Thiên thần cắt nghĩa cho các bà: “Vào
trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà
hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức
Giêsu Nazareth, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây
nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!” Đã không thấy xác Chúa, lại còn gặp một thanh
niên lạ mặt, các bà còn hỏang sợ hơn nữa. Làm sao có thể tin những lời thanh
niên này nói? Nhưng vì quá sợ, nên các bà không dám hỏi. Có lẽ các bà nghĩ như
Maria trong trình thuật Gioan: chắc ông này đã lấy xác Chúa!
(2) Các tông đồ sẽ được nhìn thấy Chúa tại
Galilee: Người thanh niên nói tiếp: “Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông
Phêrô rằng Người sẽ đến Galilee trước
các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông."
- Phản ứng của các bà: “Vừa ra khỏi mộ,
các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với
ai, vì sợ hãi.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa thật;
Ngài có uy quyền dựng nên tất cả, giải thoát dân khỏi mọi nguy hiểm, và trung
thành yêu thương chúng ta đến cùng.
- Thiên Chúa dựng nên con người với một mục
đích là cho con người được chung hưởng vinh quang với Ngài sau cuộc đời trên
dương thế này.
- Vì Đức Kitô đã chịu chết và sống lại
vinh hiển, cho nên, nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ
cùng được sống lại vinh hiển với Người.
- Chúng ta phải cố gắng để đạt tới đích điểm
là chung hưởng cuộc sống vinh quang với Thiên Chúa trên thiên đàng.
Lời Chúa Trong Gia Đình
THỨ BẢY TUẦN THÁNH (Thánh lễ đêm Phục Sinh) Mc: 16, 1-8.
LỜI SUY NIỆM: “Đừng hoảng sợ! Các bà
tìm Đức Giêsu Nazarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không
còn ở đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này! Xin các bà về nói với môn đệ Người và
ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người
như Người đã nói với các ông.” (Mc 16,6-7)
Thông điệp
này thật quý báu cho các môn đệ của Chúa, trong đó càng quan trọng đối với
Phêrô, bởi ông đang bị dày vò vì nhớ lại sự bất trung của bản thân ông đối với
Chúa Giêsu. Phêrô đã đón nhận thông điệp bằng một thái độ đặc biết hơn các tông
đồ khác. Thông điệp đã cho ông thấy được tình yêu thương và tha thứ của Chúa
Giêsu, Ngài không còn nghĩ đến sự bất trung của ông.
Trong đời sống
của chúng ta. Chúa Giêsu cũng luôn quan tâm đến việc an ủi tội nhân đang ăn năn
thống hối hơn là việc trừng phạt tội lỗi.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
07 Tháng Tư
Bình An Trong Tâm Hồn
Purna, một môn đệ của Ðức
Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai để tiếp
tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi lại cuộc đối thoại
giữa hai thầy trò như sau: Ðức Thích Ca cho biết ý kiến: "Nhân dân vùng
Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của họ
là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến
đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu khống
con, con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Nếu thật sự xảy ra như vậy,
thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện, vì họ chỉ lăng
mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá con". Ðức Thích Ca
tiếp lời: "Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế
nào?". Purna thưa: "Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng
Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh
đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con".
Nghe môn đệ xác quyết
như thế, Ðức Phật không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp: "Nhưng nếu họ thật
sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?". Không cần
suy nghĩ lâu, Purna đáp: "Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là
những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay
hư nát này". Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo: "Purna, con đã tu tâm dưỡng
tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn hòa, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con
có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần
dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải
thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét".
Thiết nghĩ tự tạo cho
mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng ta. Và theo kinh
nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình nền hòa bình này,
chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến, nghi kỵ cũng như
hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 07
THỬ BẢY TUẦN THÁNH
Thánh Gioan Lasan, linh mục
Hãy thức dậy! Kitô hữu hãy đốt sáng ngươi lên!
Điều gì đã xảy ra thế? Hôm nay, sự thinh lặng lớn lao bao trùm trái đất, thinh lặng và cô đơn với nhà vua đang yên giấc. Trái đất run rẩy và dịu lại, chỉ vì Chúa yên nghỉ trong thân xác và đã gọi dậy những người đã yên giấc từ ngàn xưa. Thiên Chúa chết trong thân xác và vị trí của kẻ đã chết bắt đầu run rẩy.
"Ta đã yên giấc trên thập giá và ngọn giáo đã xuyên qua cạnh sườn của Ta, vì Đấng đang yên nghỉ trên thiên đàng và, Đấng đã sinh bà Eva từ cạnh sườn. Cạnh sườn của Ta đã chữa lành cạnh sườn của ngươi; sự yên giấc của Ta sẽ kéo ngươi ra khỏi giấc ngủ của hỏa ngục. Ngọn giáo của Ta đã ngăn chặn ngọn giáo đang hướng về ngươi.
"Hãy thức dậy, chúng ta hãy ra khỏi chốn này! Kẻ thù đã kéo ngươi ra khỏi mảnh đất thiên đàng; Ta lại đặt ngươi trở lại trong thiên đàng, nhưng trên một ngai thiên quốc. Ta tách ngươi ra khỏi cây biểu trưng sự chết; vì chính Ta là sự sống, Ta sẽ là một với ngươi. Ta đã đặt các thần Kêrubim như các đầy tớ để gìn giữ ngươi; bây giờ Ta sẽ làm cho các Kêrubim tôn kính ngươi như đã tôn thờ một Thiên Chúa."
THỬ BẢY TUẦN THÁNH
Thánh Gioan Lasan, linh mục
Hãy thức dậy! Kitô hữu hãy đốt sáng ngươi lên!
Điều gì đã xảy ra thế? Hôm nay, sự thinh lặng lớn lao bao trùm trái đất, thinh lặng và cô đơn với nhà vua đang yên giấc. Trái đất run rẩy và dịu lại, chỉ vì Chúa yên nghỉ trong thân xác và đã gọi dậy những người đã yên giấc từ ngàn xưa. Thiên Chúa chết trong thân xác và vị trí của kẻ đã chết bắt đầu run rẩy.
"Ta đã yên giấc trên thập giá và ngọn giáo đã xuyên qua cạnh sườn của Ta, vì Đấng đang yên nghỉ trên thiên đàng và, Đấng đã sinh bà Eva từ cạnh sườn. Cạnh sườn của Ta đã chữa lành cạnh sườn của ngươi; sự yên giấc của Ta sẽ kéo ngươi ra khỏi giấc ngủ của hỏa ngục. Ngọn giáo của Ta đã ngăn chặn ngọn giáo đang hướng về ngươi.
"Hãy thức dậy, chúng ta hãy ra khỏi chốn này! Kẻ thù đã kéo ngươi ra khỏi mảnh đất thiên đàng; Ta lại đặt ngươi trở lại trong thiên đàng, nhưng trên một ngai thiên quốc. Ta tách ngươi ra khỏi cây biểu trưng sự chết; vì chính Ta là sự sống, Ta sẽ là một với ngươi. Ta đã đặt các thần Kêrubim như các đầy tớ để gìn giữ ngươi; bây giờ Ta sẽ làm cho các Kêrubim tôn kính ngươi như đã tôn thờ một Thiên Chúa."
Epiphane de Salamine
Thứ Bảy 7-4
Thánh Gioan La San
(1615 - 1719)
ố gắng
chu toàn những gì được coi là thánh ý Thiên Chúa, đó là cuộc đời của Thánh
Gioan La San. Năm 1950, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đặt ngài làm quan thầy của các
bậc mô phạm vì nỗ lực của ngài trong việc giáo dục.
Là một
người trẻ của thế kỷ 17, Gioan có tất cả mọi sự: năng khiếu học thuật, đẹp
trai, gia đình quyền quý giầu có và được giáo dục tử tế. Nhưng khi mới 11 tuổi,
ngài xuống tóc đi tu làm linh mục, và sau đó được chịu chức vào năm 27 tuổi.
Dường như một cuộc đời dễ dàng với phẩm trật cao trọng trong Giáo Hội đang sẵn
sàng chờ đón ngài.
Nhưng
Thiên Chúa đã có những chương trình khác cho Cha Gioan, mà dần dà mới được tỏ
lộ trong những năm sau đó. Trong một cơ hội gặp gỡ ông Nyel ở Raven, ngài cảm
thấy muốn thiết lập một trường học dành cho các em trai nhà nghèo ở Raven, là
nơi ngài đang sinh sống. Mặc dù công việc lúc đầu thật ghê tởm đối với ngài,
nhưng sau đó, càng ngày ngài càng say mê hoạt động cho các thiếu niên nghèo
túng.
Tin rằng
đây là sứ vụ mà Thiên Chúa đã trao phó, Cha Gioan hết lòng lao mình vào công
việc, bỏ nhà, bỏ gia đình, bỏ cả chức vụ kinh sĩ ở Rheims, bán hết tài sản để
trở nên giống như các người nghèo mà ngài đã tận hiến cuộc đời để phục vụ họ.
Cuộc đời
còn lại của Cha Gioan là sống sát với tu hội mà ngài đã thành lập, Các Thầy
Trường Công Giáo (Sư Huynh La San). Tu hội này phát triển mau chóng và thành
công trong việc giáo dục các nam thiếu niên của gia đình nghèo với phương
pháp sư phạm mà Cha Gioan đề ra, đó là sự dạy dỗ cả lớp thay vì chỉ bảo cá
nhân, và dùng tiếng bản xứ thay vì tiếng Latinh. Ðồng thời tu hội cũng còn mở
trường huấn luyện các giáo chức và thiết lập trường nội trú cho các thiếu
niên ngỗ nghịch của các gia đình giầu có. Yếu tố năng động đằng sau các nỗ lực
này là mong muốn các thiếu niên trở nên một Kitô Hữu tốt lành.
Mặc dù
rất thành công, Cha Gioan cũng không thoát khỏi những thử thách, đó là sự đau
lòng khi các sư huynh bỏ dòng, sự chống đối cay đắng từ các hiệu trưởng ngoài
đời khi họ bực bội với phương pháp giáo dục mới và hữu hiệu của ngài, cũng
như thường xuyên bị phe Jansen (*) thời ấy chống đối mà Cha Gioan kịch liệt
phản đối lý thuyết của phe này trong suốt cuộc đời.
Trong
những năm cuối đời, vì bị bệnh suyễn và thấp khớp, ngài từ trần vào ngày thứ
Sáu Tuần Thánh khi được 68 tuổi, và được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII phong thánh
năm 1900.
Lời
Bàn
Thật hiếm
có ai hoàn toàn tận hiến cho ơn gọi của Thiên Chúa, bất kể ơn gọi đó là gì.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta "hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết
linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực của mình" (Mc 12:30b). Thánh Phaolô cũng có lời khuyên tương tự: "Bất
cứ những gì anh chị em làm, hãy làm hết lòng..." (Colossians 3:23).
Lời
Trích
"Còn
gì cao quý hơn là uốn nắn tính tình của các người trẻ? Tôi tin rằng người biết
uốn nắn tâm tính của giới trẻ thì cao trọng hơn mọi họa sĩ, điêu khắc gia và
tất cả những người giống như vậy"(Thánh Gioan
Chrysostom).
* Jansen xuất phát từ học thuyết của Cornelius
Jansen (1585 - 1638), giám mục của
Sau khi xuất bản được hai năm, cuốn Augustinus
đã bị Giáo Hội Công Giáo lên án và cấm phát hành bởi Ðức Giáo Hoàng Urbanô
VIII.
|
|
Copyright © 2010 by
Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét