Trang

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

THỨ SÁU TUẦN THÁNH - CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA ĐỨC KI-TÔ


Thứ Sáu Tuần Thánh
- Tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa

Is 52,13–53,12 ; Tv 30 ; Dt 4,14-16; 5,7-9 ; Ga 18,1–19,42.
Bài đọc 1                                 Is 52,13–53,12

52 13   Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt,
            sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng.
14        Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta
            mặt mày tan nát chẳng ra người,
            không còn dáng vẻ người ta nữa,
15        cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ,
            vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại,
            được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ.
53 1     Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được ?
            Cánh tay uy quyền của Đức Chúa đã được tỏ cho ai ?
2          Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh,
            như khúc rễ trên đất khô cằn.
            Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong
            đáng chúng ta ngắm nhìn,
            dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích.
3          Người bị đời khinh khi ruồng rẫy,
            phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.
            Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn,
            bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.
4          Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta,
            đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
            còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt,
            bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.
5          Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội,
            bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm ;
            người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
            đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.
6          Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu,
            lang thang mỗi người một ngả.
            Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người
            tội lỗi của tất cả chúng ta.
7          Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca ;
            như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông,
            người chẳng hề mở miệng.
8          Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu.
            Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới ?
            Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh,
            vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt.
9          Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn,
            bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo
            và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.
10        Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.
            Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,
            người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,
            và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu.
11        Nhờ nỗi thống khổ của mình,
            người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện.
            Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta,
            sẽ làm cho muôn người nên công chính
            và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.
12        Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản,
            và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt,
            nó sẽ được chia chiến lợi phẩm,
            bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân ;
            nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người
            và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.



Đáp ca                                     Tv 30,2 và 6.12-13.15-16.17 và 25 (Đ. Lc 23,46)

Đáp :    Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.

2          Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa,
            xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ.
            Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con,
6          Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con,
            Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín.                    Đ.

12        Con đã nên trò cười cho thù địch
            và cho cả hàng xóm láng giềng.
            Bạn bè thân thích đều kinh hãi,
            thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa.
13        Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ,
            con hoá thành đồ hư vất bỏ.                                                   Đ.

15        Nhưng con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa,
            dám thưa rằng : Ngài là Thượng Đế của con.
16        Số phận con ở trong tay ngài.
            Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ,
            khỏi người bách hại con.                                                         Đ.

17        Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
            trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ.
25        Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa,
            mạnh bạo lên, can đảm lên nào !                                            Đ.



Bài đọc 2                                 Dt 4,14-16; 5,7-9

4 14 Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. 15 Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. 16 Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.
5 7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. 8 Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; 9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người,



Tung hô Tin Mừng                 Pl  2,8-9

            Vì chúng ta, Đức Ki-tô đã tự hạ,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.



Tin Mừng                                Ga 18,1–19,42

            Dấu ký hiệu viết tắt:
            X          : Đức Giê-su
            nk        : người kể
            m         : một người (Phê-rô, Hê-rô-đê ...)
            dc        : dân chúng



18 1 nk Sau khi nói những lời đó, Đức Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kít-rôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. 2 Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. 3 Vậy, Giu-đa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu ; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. 4 Đức Giê-su biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi : X "Các anh tìm ai ?" 5 nk Họ đáp : dc "Tìm Giê-su Na-da-rét." Người nói : X "Chính tôi đây." nk Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6 Khi Người vừa nói : "Chính tôi đây", thì họ lùi lại và ngã xuống đất. 7 Người lại hỏi một lần nữa : X "Các anh tìm ai ?" nk Họ đáp : dc "Tìm Giê-su Na-da-rét." 8 nk Đức Giê-su nói : X "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi." 9 nk Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói: "Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai."
10 nk Ông Si-môn Phê-rô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Man-khô. 11 Đức Giê-su nói với ông Phê-rô : X "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?"
12 nk Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại. 13 Trước tiên, họ điệu Đức Giê-su đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. 14 Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.

15 nk Ông Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16 Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. 17 Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phê-rô : m  "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao ?" nk Ông liền đáp : m "Đâu phải." 18 nk Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó ; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ. 19 Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người. 20 Đức Giê-su trả lời : X "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21 Sao ông lại hỏi tôi ? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì." 22 nk Đức Giê-su vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói : m "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư ?" 23 nk Đức Giê-su đáp : X "Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào ; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ?" nk 24 Ông Kha-nan cho giải Người đến thượng tế Cai-pha, Người vẫn bị trói.
25 nk Còn ông Si-môn Phê-rô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông : m "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao ?" nk Ông liền chối : m "Đâu phải." 26 nk Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém đứt tai, lên tiếng hỏi : m "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao ?" 27 nk Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
28 nk Vậy, người Do-thái điệu Đức Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. 29 Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi : m "Các người tố cáo ông này về tội gì ?" 30 nk Họ đáp : dc  "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan." 31 nk Ông Phi-la-tô bảo họ : "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người." nk Người Do-thái đáp : dc "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả." 32 nk Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
33 nk Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người : m "Ông có phải là vua dân Do-thái không ?" 34 nk Đức Giê-su đáp : X "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi ?" 35 nk Ông Phi-la-tô trả lời : m "Tôi là người Do-thái sao ? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì ?" 36 nk Đức Giê-su trả lời : X "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này."  37 nk Ông Phi-la-tô liền hỏi : m "Vậy ông là vua sao ?" nk Đức Giê-su đáp : X "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."  38 nk Ông Phi-la-tô nói với Người : m "Sự thật là gì ?"
nk Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ : m "Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. 39 Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không ?" 40 nk Họ lại la lên rằng : dc "Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba !" nk Mà Ba-ra-ba là một tên cướp.

19 1 nk Bấy giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người. 2 Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. 3 Họ đến gần và nói : dc "Kính chào Vua dân Do-thái !", nk rồi vả vào mặt Người.
4 nk Ông Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với người Do-thái : m "Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy." 5 nk Vậy, Đức Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Phi-la-tô nói với họ : m "Đây là người !" 6 nk Khi vừa thấy Đức Giê-su, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng : dc "Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá !" nk Ông Phi-la-tô bảo họ : m "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy." 7 nk Người Do-thái đáp lại : dc "Chúng tôi có Lề Luật ; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa."
8 nk Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa. 9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su : m "Ông từ đâu mà đến ?" nk Nhưng Đức Giê-su không trả lời. 10 Ông Phi-la-tô mới nói với Người : m "Ông không trả lời tôi ư ? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao ?" 11 nk Đức Giê-su đáp lại : X "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn."
12 nk Từ đó, ông Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng : dc "Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xê-da." 13 nk Khi nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha. 14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái : m "Đây là vua các người !" 15 nk Họ liền hô lớn : dc "Đem đi! Đem nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá !" nk Ông Phi-la-tô nói với họ : m "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao ?" nk Các thượng tế đáp : "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da." 16 nk Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá. Vậy họ điệu Đức Giê-su đi. 17 Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha ; 18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giê-su thì ở giữa. 19 Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá ; bảng đó có ghi : "Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái." 20 nk Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng : Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. 21 Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô : dc "Xin ngài đừng viết : ' Vua dân Do-thái ', nhưng viết : ' Tên này đã nói : Ta là Vua dân Do-thái '." 22 nk Ông Phi-la-tô trả lời: m "Ta viết sao, cứ để vậy !"

23 nk Đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần ; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. 24 Vậy họ nói với nhau : dc "Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được." nk Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.
25 nk Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng : X "Thưa Bà, đây là con của Bà." 27 nk Rồi Người nói với môn đệ : X "Đây là mẹ của anh." nk Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
28 nk Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói : X "Tôi khát !"  29 nk Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. 30 Nhắp xong, Đức Giê-su nói : X "Thế là đã hoàn tất !" nk Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
(quỳ gối, thinh lặng trong giây lát)


31 nk Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. 34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực ; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. 36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.  37 Lại có lời Kinh Thánh khác : Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
38 Sau đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống. Ông Giô-xếp này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi hài Người xuống. 39 Ông Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. 40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. 41 Nơi Đức Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. 42 Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.
(Bản văn theo UB. Kinh Thánh/HĐGMVN)
Suy Niệm:
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm Ðức Giêsu chịu hiến tế. Như con chiên được đưa tới lò sát để làm hiến vật. Ðức Giêsu là Chiên Vượt Qua. Ngài đã chịu khổ nạn và chịu chết trên Thập Giá để đem ơn Cứu Ðộ đến cho chúng ta. Giáo Hội tôn kính Thánh Giá, vì Thánh Giá là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa tự hiến cho con người. Thánh Giá không còn là đồ chúc dữ nữa. Thánh Giá không phải là một thất bại, nhưng Thánh Giá là cờ chiến thắng mà Thầy Giêsu oai phong trong máu và nước mắt đã dành được cho chúng ta. Thánh Giá được treo trên tháp đỉnh, được đặt trên bàn, treo trên tường, nhất là Thánh Giá được vạch trên con người chúng ta. Thánh Giá chính là niềm vinh dự của chúng ta. Vì nhờ Thánh Giá Ðức Giêsu, chúng ta được ơn cứu độ.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, con thật sung sướng, cảm động trước tình thương vô bờ Chúa dành cho nhân loại tội lỗi chúng con. Như Bồ Nông nuôi con bằng máu mình, cũng vậy vì yêu con, Chúa đã hiến đến giọt máu cuối cùng cho nhân loại chúng con được hạnh phúc. Lạy Chúa, xin cho chúng con tự do đi vào trong quĩ đạo yêu thương, cụ thể bằng cuộc sống hằng ngày trong gia đình, trong cộng đoàn... Chúng con biết sống chan hòa với mọi người. Xin Chúa đưa anh chị em chưa biết Chúa được trở về cùng Giáo Hội. Xin Chúa cho Giáo Hội chúng con được sống hiệp nhất để chỉ có một Chúa và một đoàn chiên. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Sự Thinh Lặng Của Thập Giá


Trong suốt ngày thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, Giáo hội như muốn mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng, từ các trang trí cho đến những bài ca phụng vụ, tất cả đều đưa chúng ta vào cõi thinh lặng. Thinh lặng để nhìn ngắm Chúa Giêsu trên Thập Giá, thinh lặng để lắng nghe tiếng nói từ Thập Giá. Thập Giá vẫn mãi mãi là một mầu nhiệm. Tại sao điều đó có thể xảy ra cho Thiên Chúa? Tại sao Con Một Thiên Chúa lại có thể chịu chết treo trên Thập Giá?
Trong một cuộc đối thoại tưởng tượng với người trộm lành chịu treo bên phải Chúa Giêsu, thánh Augustinô đã hỏi người trộm lành như sau: "Làm sao ông có thể hiểu được những gì xảy ra bên cạnh ông, trong khi đó chúng tôi là những nhà chuyên môn, là những nhà tiến sĩ luật, chúng tôi lại không hiểu được những lời ứng nghiệm của Thánh Kinh. Ngay trước mắt chúng tôi ông có đọc Thánh Kinh không? Ông có biết tiên tri Isaia đã loan báo về cuộc tử nạn của Chúa như thế nào không?" Người trộm lành mới trả lời như sau: "Không. Tôi chưa bao giờ học hỏi về Kinh Thánh, nhưng Chúa Giêsu đã nhìn tôi và trong cái nhìn của Ngài, tôi đã hiểu được tất cả mọi sự".
Một vị Hồng Y già trong cơn hấp hối đã nhắn nhủ như sau: "Chúng ta đã nói rất nhiều lời hay ý đẹp về sự đau khổ, tôi cũng đã từng hăng say làm như thế, nhưng xin hãy nhắn với các linh mục: Ðừng nói gì cả, chúng ta không biết gì về đau khổ cả".
Về cuộc tử nạn và cái chết của Chúa Giêsu, thiết tưởng chúng ta chỉ nên giữ thinh lặng. Trong thinh lặng, chúng ta mới cảm nhận được cái nhìn yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu. Và trong cái nhìn ấy chúng ta mới nghe được chính tiếng nói của Ngài. Chỉ có kẻ đau khổ mới có thể đưa chúng ta vào nỗi khổ đau của họ. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể đưa chúng ta vào những nỗi khổ đau của Ngài. Sự thinh lặng đưa chúng ta vào mầu nhiệm của khổ đau.
Trong hai người cùng chịu treo trên Thập Giá bên cạnh Chúa Giêsu, một người đã không ngừng lên tiếng kêu gào rửa xả, trong khi đó kẻ được mệnh danh là trộm lành chỉ biết thốt lên lời van xin cứu vớt. Ðối với chúng ta, điều đó thật là phải lẽ, xứng với tội lỗi chúng ta. Kẻ trộm lành quả thực đã đi sâu vào mầu nhiệm của Thập Giá, ông đã nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá trước tiên là một bày tỏ về bộ mặt tội lỗi của nhân loại. Mãi mãi Thập Giá vẫn là biểu trưng của sự độc ác của con người. Ðó là đỉnh cao trí tuệ của con người trong việc sáng chế ra những phương thế để hành hạ nhau, để loại trừ nhau, để chém giết nhau. Ðó là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại.
Nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta chỉ có thể đấm ngực ăn năn về chính tội lỗi của mình mà thôi. Thập Giá của Chúa Giêsu vẫn luôn có đó để chiếu rọi vào thân phận tội lỗi của con người. Thập Giá không chỉ là mạc khải về tội lỗi của con người, nhưng tội lỗi còn là mặt trái của một nguồn ánh sáng vô biên. Ðó là ánh sáng của tình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá là biểu tỏ của một tình yêu tha thứ cho đến cùng. Có lẽ người trộm lành đã hiểu được điều đó khi ông quay nhìn sang Chúa Giêsu trên Thập Giá. Trong ánh mắt của Chúa Giêsu, người trộm lành chỉ có thể thấy bừng lên tình yêu nhân từ và tha thứ khi được tình yêu Chúa Giêsu chiếu dọi vào. Bên cạnh Chúa Giêsu, người trộm lành được ôm ấp với cái nhìn trìu mến và tha thứ của Ngài.
Dưới chân Thập Giá của Ngài còn có Mẹ và một số người bạn dõi theo Ngài cho đến cùng. Mẹ và những người đó đứng nhìn lên Chúa trong lặng yên. Với Mẹ và những người bạn đó, Chúa Giêsu cũng tôn trọng bằng ánh mắt yêu thương, trìu mến của Ngài. Ngài cũng đưa Mẹ Maria và những người đó vào trong những mầu nhiệm khổ đau của Ngài. Cùng với Mẹ, chúng ta cũng hãy để cho tâm hồn chìm lắng xuống, hãy để cho bao bận tâm, sầu muộn và khổ đau riêng tư chìm xuống và hòa nhập vào mầu nhiệm Thập Giá của Chúa Giêsu. Hãy để cho Ngài ôm ấp trọn lấy chúng ta trong tình yêu bao dung, tha thứ của Ngài. Hãy để cho ánh mắt yêu thương của Ngài đốt cháy tâm hồn khô lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của chúng ta.


SUY NIỆM:
Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta đã nghe đọc bài Thương Khó
trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.
Vào thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta luôn nghe đọc bài Thương Khó theo Gioan.
Thánh Gioan kể lại cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu với những nét riêng của ông.
Chúng ta trân trọng cái nhìn bổ sung của thánh Gioan cho những Tin Mừng khác.
 Trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu của Gioan tỏ ra là người chủ động.
Ngài biết trước các biến cố sắp xảy ra, và Ngài có quyền năng làm chủ mọi sự.
Chính Ngài tiến ra và hỏi các kẻ đến bắt Ngài : “Các anh tìm  ai?”
Câu trả lời của Ngài đủ làm họ lùi lại và ngã xuống đất (18, 4-9). 
Đức Giêsu bình an và uy nghiêm bước vào cuộc Khổ nạn, 
vì Ngài đã chấp nhận chén đắng Cha trao (18, 11).
 Khi bị vị thượng tế Khanna tra hỏi về giáo huấn, 
chẳng chút sợ hãi, Ngài đã thẳng thắn từ chối trả lời (18, 19-21).
Khi bị vả mặt, Ngài cũng đòi kẻ xúc phạm Ngài phải nói rõ tại sao (18, 23).
Đức Giêsu bị đem tới dinh tổng trấn Philatô lúc trời đã sáng.
Philatô là người xét xử Đức Giêsu, nhưng có vẻ ông là người bị động.
Ông bị giằng co giữa một bên là Đức Giêsu đang ở trong dinh,
bên kia là đám đông và các nhà lãnh đạo Do-thái giáo đang ở ngoài dinh.
Một bên là ông Giêsu mà ông không tìm thấy lý do nào để kết tội (18, 38; 19, 4. 6).
Bên kia là chức tổng trấn và chức “Bạn của Xê-da” mà ông đang nắm giữ (19, 12).
Philatô không biết phải theo ai, chọn ai trong tình cảnh căng thẳng này.
Vì thế ông đã đi ra, đi vào cả thảy bảy lần (18, 18, 29. 33. 38; 19, 1. 4. 9. 13).
Đức Giêsu đã đối thoại khá dài với Philatô về Nước của Ngài (18, 36-37),
một nước không có trên bản đồ, không có quân đội, không dùng bạo lực.
Nước của Ngài gồm những người biết nghe sự thật và đứng về phía sự thật,
sự thật này được Ngài làm chứng và cất tiếng nói lên. 
“Đây là Vua các người”, Philatô đã giới thiệu Đức Giêsu như thế (19, 14)
và ông đã cương quyết giữ lại tấm bảng treo trên thập giá mang dòng chữ :
“Giêsu Nadarét, Vua dân Do-thái” (19, 19).
 Đức Giêsu đã tự mình vác thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa.
Chiên Thiên Chúa bị giết đúng vào lúc ở Đền Thờ người ta giết chiên Vượt qua.
Đức Giêsu không cô đơn trên thập giá vì có Mẹ và người môn đệ dấu yêu.
Suốt một đời Ngài đã sống cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết nó đã hoàn tất.
Chủ động cả trong cái chết, Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19, 30).
Qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu cho thấy tình yêu lớn nhất của Ngài (15, 13),
tình yêu trao hiến cả Máu và Nước từ trái tim bị đâm thâu (19, 34).
Nhưng thập giá cũng cho thấy tình yêu của Cha khi ban Con Một cho ta (3, 16).
 Đức Giêsu Kitô đã trở về với Cha bằng con đường khó đi.
Người Kitô hữu cũng về với Thiên Chúa bằng con đường hẹp.
Ước gì chúng ta sống cuộc Khổ nạn của mình với sự bình an, can đảm của Giêsu.
LỜI NGUYỆN
 Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.

Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.

Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi (Ga 18,37)
Suy niệm: 
Trong tập hồi ký, một người Do Thái từng ở trại tập trung thời Đức Quốc Xã bên Ba Lan có kể lại câu chuyện sau: Những người lính Đức quốc xã treo cổ hai người Do Thái và một thiếu niên trước sự chứng kiến của tất cả trại viên. Hai người đàn ông chết tức khắc vì kiệt sức, nhưng cơn hấp hối của cậu thiếu niên kéo dài cả nửa tiếng đồng hồ. Nhìn thấy cảnh tượng đó, một trại viên đứng sau tôi đã thốt lên: "Thiên Chúa đang ở đâu?" Khi người thiếu niên đang cố gắng vùng vẫy trong vòng giây thắt cổ, tôi lại nghe một người khác thốt lên: "Bây giờ Chúa ở đâu?" Và, tôi nghe từ tận đáy tâm hồn tôi: "Ngài đang ở đây, Ngài đang bị treo cổ kia".
"Bây giờ Chúa đang ở đâu?". Mỗi lần bóng tối của Thập giá làm dấy lên trong chúng ta câu hỏi như thế, chúng ta nghe vọng lên từ nỗi đớn đau của chúng ta câu trả lời duy nhất là: "Ngài đang có mặt đó". Ngài đang có mặt đó, bởi vì Ngài là Tình yêu. Chỉ có Tình yêu mới có thể đến tận cùng của khoan dung và tha thứ. Thập giá vẫn mãi mãi là tột đỉnh của sự độc ác dã man của con người, sự độc ác dã man đó càng bộc lộ, thì tình yêu Thiên Chúa càng bày tỏ.
Lý luận thông thường không thể hiểu cạn được tại sao một Thiên Chúa lại có thể chịu treo trên Thập giá. Nhưng đó lại là sức mạnh, là sự khôn ngoan của tình yêu. Dù tội lỗi con người có ngập tràn, dù sự độc ác của con người có chất ngất, Thiên Chúa vẫn yêu thương và tha thứ.
Thập giá không chỉ là biểu trưng của sự độc ác và tội lỗi con người, mà còn là vẻ đẹp của chính tình yêu Thiên Chúa. "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài. Ngài không sai Con Ngài đến để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Một Ngài mà được cứu thoát". Đó phải là xác tín của chúng ta khi ngắm nhìn Thập giá Chúa Giêsu. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta khước từ. Không có tình yêu nào cao cả hơn.
Vì yêu thương chúng ta, Ngài chấp nhận chịu treo trên Thập giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài trải qua mọi khốn cùng của kiếp người. Không phải đinh sắt đã đóng Ngài vào Thập giá, mà chính là tình yêu. Đó là tất cả vẻ đẹp cao vời của Thập giá. Thập giá là nơi ngự trị của Thiên Chúa. Chính trong những nơi cơ cực, nghèo hèn, bỉ ổi và đớn đau nhất mà sự hiện diện của Thiên Chúa lại càng mãnh liệt hơn. Chính từ Thập giá mà tiếng gọi yêu thương của Ngài càng thắm thiết hơn.
Từ trên Thập giá, Chúa Giêsu ôm trọn từng nỗi khổ đau của con người. Nhìn ngắm Thập giá của Ngài, đôi mắt chúng ta càng phải mở rộng ra để nhận thấy bao nỗi thống khổ cơ cực của những người xung quanh. Lúc đó, Thập giá không còn vắng bóng Thiên Chúa mà trái lại là điểm xuất phát của những nghĩa cử yêu thương, từ đó tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ bừng dậy.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu, khi chiêm ngắm Chúa chịu treo trên thập giá, xin cho chúng con đừng ngắm nhìn như một khách bàng quan, nhưng như người đang dự phần treo Chúa trên thập giá, để từ đó, ý thức được tội lỗi của mình, chúng con sẽ được ơn sám hối thực sự và quyết tâm cải thiện đời sống. Xin cho mỗi chúng con ý thức thân phận tội lỗi của mình để biết xin ơn hoán cải. Xin Máu Thánh Chúa đổ ra tẩy sạch trí lòng con khỏi mọi vết nhơ tội lỗi.

Suy niệm thứ Sáu Tuần Thánh: Ngắm nhìn Thập giá


Chết là hết. Sự thường là vậy. Sau cái chết mọi sự sẽ nguôi ngoai. Không gì tồn tại và bền lâu. Thế nhưng sau cái chết của Chúa Giêsu thì không vậy. Lời các ngôn sứ đã nói từ xưa: “Họ sẽ ngắm nhìn Đấng mà họ đã đâm thâu qua”.Ai sẽ ngắm nhìn? Nhân loại của thời đó hay nhân loại hôm nay? Phải chăng họ ngắm nhìn một thây ma trơ trụi trên thập giá? Chắc là không. Vì thây ma chỉ làm người ta khiếp sợ. Thế mà hơn 2000 năm nay họ vẫn đang ngắm nhìn. Ngắm nhìn một tình yêu tự hiến chết cho người mình yêu. Ngắm nhìn để cảm nhận tình yêu thẳm sâu của Thầy Chí Thánh Giêsu. Ngắm nhìn Đấng mà họ đã đâm thâu, để giục lòng ăn năn sám hối. Ngắm nhìn để thấy sự sống đang nảy sinh sau cái chết của Con Thiên Chúa.
Ngắm nhìn một tình yêu tự hiến: đó là cái nhìn của Mẹ Maria. Mẹ nhìn con đau khổ. Mẹ cảm thương nỗi đau của con. Thân xác con tan nát. Trái tim Mẹ lại se thắt từng cơn, nuốt nghẹn đến tận tâm can. Máu con tuôn rơi trên cây thập tự. Nước mắt Mẹ tuôn rơi trên đồi Calvê. Mẹ đã dâng nỗi đau của mình nên một với nỗi đau của con để làm hiến tế tôn vinh Chúa Cha. Ngày hôm nay cũng có biết bao người đang đau khổ, đang nhìn lên thập giá Chúa để tìm sự nâng đỡ ủi an. Đón nhận đau khổ như Đức Giêsu và Mẹ Maria là đón nhận thập giá của bổn phận, của trách nhiệm trong hy sinh, tự hiến cho gia đình, xứ đạo và cộng đồng nhân loại.
Ngắm nhìn để cảm nhận tình yêu thẳm sâu của Thầy Chí Thánh Giêsu: Đó là cái nhìn nuối tiếc của các môn đệ. Tiếc nuối vì cả một đời theo Thầy, nhận được biết bao ân huệ của Thầy, thế mà chỉ một chút nguy nan đã bỏ mặc Thầy cô đơn trong đau đớn tột cùng. Nhìn để làm lại cuộc đời. Nhìn để chuộc lại lỗi lầm, để dám chết cho niềm tin của mình. Điển hình là Phêrô. Dù ông muốn bỏ chạy vì sự truy sát của Nêrón, nhưng ông đã kịp quay trở lại thành Roma để chịu tử đạo, vì nhìn thấy Thầy một lần nữa vác thập giá vào thành. Ngày nay có biết bao người vẫn đang sống trong nuối tiếc ân hận, mặc cảm vì một quá khứ lầm lỡ. Mặc cảm vì một lần vô ơn bạc nghĩa đã gieo vãi sầu đau cho tha nhân. Hãy ngước nhìn lên Chúa để sám hối ăn năn, chuộc lại lỗi lầm. Hãy đền đáp tình yêu bằng trao tặng tình yêu của mình cho tha nhân.
Ngắm nhìn để giục lòng ăn năn: đó là cái nhìn của đám đông dân chúng bị mua chuộc, xúi giục la ó “đóng đinh nó vào thập giá”. Đó là cái nhìn thống hối của Philatô. Một người có chức có quyền nhưng hèn nhát, thiếu bản lĩnh, và nhu nhược đã để đám đông lấn áp đến nỗi chẳng dám nói một câu bênh đỡ cho người công chính khỏi án chết bất công. Dù ông biết rõ “người này vô tội”. Ngày nay cũng có biết bao người đang đóng đinh cuộc đời nhau vì xu thời, hèn nhát, thiếu trách nhiệm đã và đang giày xéo cuộc đời anh chị em mình. Liệu rằng có mấy ai biết nhìn lại để cúi mình ăn năn? Vì tội lỗi tôi mà Chúa mang thảm sầu. Vì lối sống thiếu trách nhiệm của tôi mà gia đình tan nát, xào xáo, cơm chẳng lành canh chẳng ngọt chăng?
Ngắm nhìn để thấy sự sống đang nảy sinh sau cái chết của Con Thiên Chúa. Đó là cái nhìn của viên đội trưởng Rôma, của các người phụ nữ, của các môn đệ. Trong cái chết nhục hình, họ đã nhận ra sự chiến thắng của Chúa Giêsu. Thập giá đã không còn là biểu tượng của tủi nhục mà là dấu chỉ một tình yêu. Một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Một tình yêu dám tha thứ cho cả kẻ hành hạ, giày xéo cuộc đời mình cho đến chết. “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Một tình yêu bằng lòng chịu chết để tôn vinh Chúa Cha và cứu độ nhân loại. Nhân loại ngày nay vẫn đang cần những con người dám hy sinh cho nhau, dám quên đi sự an nhàn bản thân để hiến thân cho bạn hữu của mình. Nhân loại ngày nay vẫn đang cần một tình yêu thứ tha để có thể giải hoà những đổ vỡ, những ngăn cách đang làm cho các gia đình đau khổ, đang làm cho xã hội bất an vì những thù oán nhỏ nhen.
Ngắm nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu. Chúng ta có nhận ra tội lỗi của mình đang tiếp tục làm khổ Chúa, làm khổ nhau? Khi ngắm nhìn Đấng đã bị đâm thâu chúng ta có áy náy lương tâm hay vẫn dửng dưng bàng quan như khách qua đường tại thành Giêrusalem? Ngắm nhìn xem Đấng đã bị đâm thâu để chúng ta thấy mình cũng có trách nhiệm trong cuộc thương khó của Chúa, trong nỗi đau của anh chị em mình. Ngắm nhìn Đấng đã bị đâm thâu để chúng ta biết sống bù đắp những lỗi lầm của mình đã và đang gây đau khổ cho anh chị em mình.
Nguyện xin Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh giúp chúng con mỗi lần ngắm nhìn Chúa biết giục lòng ăn năn thống hối và can đảm đứng lên làm lại cuộc đời. Amen.
06/04/12 THỨ SÁU TUẦN THÁNH
Tưởng Niệm Cuộc Thương Khó của Chúa
Ga
18,1-19,42
YÊU CHO ĐẾN CÙNG

“Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống mà trao Thần Khí. (Ga 19,30)

Suy niệm: Đây là giờ Chúa phải nói lời từ biệt với những người thân thương nhất của Chúa – Mẹ Maria và Gioan – Chúa đã ban tặng hai người cho nhau. Còn Chúa, Chúa ở đây một mình để hiến thân làm của lễ dâng Cha và để cho lửa của Thần Khí thiêu đốt. Từ nay, trời và đất đã giao hòa; giao ước mới đã ký kết, được niêm ấn bằng máu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa kêu lên một tiếng cuối cùng: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa, sao người bỏ con?” Nhưng ngay giây phút tuyệt đỉnh này, Chúa Cha vẫn ở đấy, Người hiện diện.

Chúa gục đầu xuống và thiếp đi trong tay Người. Lúc Chúa đi vào cõi chết, thì đấy cũng là lúc, đấy cũng là giờ mà Chúa thức dậy cạnh Cha. (Đức Hồng Y Godfried).

Mời Bạn ý thức cái chết của Chúa Giêsu không phải chỉ liên quan đến một người, hay một dân tộc nhưng mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm trước cái chết của Chúa. Thật vậy, chúng ta đừng ngồi đó nguyền rủa xã hội sa đọa, thế giới hỗn loạn, mà phải đấm ngực chính tội lỗi chúng ta đã đóng đinh Chúa hằng ngày.

Sống Lời Chúa: Bạn hãy kín múc dòng ân sủng MÁU và NƯỚC chảy ra từ cạnh sườn Chúa. Đó là các bí tích Hòa Giải, Thánh Thể,... cách xứng đáng và sốt sắng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa không phải là “một kết thúc” nhưng là “một hoàn tất”. Chúa đã chu toàn sứ mệnh Chúa Cha trao phó cách tuyệt hảo. Xin cho chúng con cũng biết chu toàn bổn phận của người Kitô hữu, dám hy sinh và hành động theo những đòi hỏi của Chúa cho dù phải đi vào con đường Thập Giá. Amen.


Lời Chúa Trong Gia Đình
THỨ SÁU TUẦN THÁNH. TƯỞNG NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ    CỦA CHÚA; Is 52, 13-53,12; Dt 4, 14-16; 5, 7-9; Ga: 18, 1-19.42.
LỜI SUY NIỆM: “Sau khi nói những điều đó, Đức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kitrôn. Ở đó, có một thửa vườn. Người cùng các môn đệ đi vào. Giuđa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ.” (Ga 18, 1-2)
          Sau khi Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể, Ngài vững bước vào nơi chốn mà Ngài biết rằng giờ phản bội của Giuđa sẽ thực hiện, giờ các môn đệ sẽ bỏ Ngài để tự bảo vệ bản thân, giờ của những kẻ cầm quyên xúc phạm đến thân thể của Ngài, giờ sẽ dẫn đưa Ngài vào cuộc thương khó, khổ nạn, và cuối cùng Ngài sẽ bị giết chết một cách ô nhục dưới con mắt của dân chúng cũng như những kẻ chống đối Ngài.
          Chúa Giêsu đã thực hiện những gì mà Chúa Cha đã muốn, chứ không theo ý riêng của mình để chương trình cứu độ nhân loại của Chúa Cha được thể hiện.
          Mỗi một tạo vật khi được Thiên Chúa tạo dựng đều nằm trong chương trình của Ngài và Ngài thấy là tốt đẹp. Nếu biết tuân phục vâng nghe lời Ngài.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
06 Tháng Tư
Món Quà Cưới Ðẹp Nhất

Mẹ Têrêxa thuật lại một câu chuyện như sau: "Một hôm kia, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo".
Ở Calcutta, mọi người đều biết là: mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ Tử Bác Ái truyền giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao tặng vào mục tiêu trên.
Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: "Hai con có thể cho Mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?". Họ trả lời: "Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con".
Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: "Ở Ấn Ðộ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái".
Ðể biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi: "Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?". Hai bạn trẻ đó trả lời: "Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng con muốn tặng nhau một quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào".
Trong sứ điệp Mùa Chay gửi toàn thể giáo hội, công bố vào ngày 09/02/1988, Ðức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy đặc biệt quan tâm đến tình trạng mỗi ngày có hàng chục ngàn trẻ em trên thế giới bị chết yểu.
Ðức Thánh Cha nói: "Có những trẻ em chét trước khi chào đời. Nhiều em khác chỉ sống một thời gian ngắn vì bệnh tật, vì thiếu dinh dưỡng và nhiều khi thiếu cả tình thương nữa... Các em là nạn nhân của nghèo đói, của những bất công xã hội làm cho gia đình các em không đủ phương tiện cần thiết để nuôi dưỡng con cái".
Ngoài ra, sứ điệp Mùa Chay của Ðức Thánh Cha còn nhắc lại tình thương đặc biệt của Chúa Giêsu đối với các trẻ em và Ngài mời gọi mọi tín hữu trong Mùa Chay hãy bẻ gãy xiềng xích của tính ích kỷ và tội lỗi, đồng thời thực thi tình liên đới, bằng cách chia sẻ với những người túng thiếu. Hãy cho người nghèo không phải những thứ mình dư thừa, nhưng cả những gì mình cần thiết nữa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++

Thứ 6 Tuần Thánh: Đức Giêsu chịu chết và chịu đâm thâu

Vinh quang tuyệt đỉnh qua đau khổ tột cùng
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tập trung trong những đau khổ của Đức Kitô và lý do tại sao Ngài phải chịu những đau khổ này.
Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah nói rõ lý do tại sao Người Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ: Ngài mang lấy thương tích của chúng ta. Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm. Ngài đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Trong Bài Đọc II, tác-giả Thư Do Thái chứng minh Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế tuyệt hảo, vì Ngài vừa biết những gì nơi Thiên Chúa, vừa biết những gì nơi con người; nên Ngài có thể cầu bầu với Thiên Chúa một cách hiệu quả cho con người. Hơn nữa, vì sự vâng phục Thiên Chúa và những đau khổ Chúa Giêsu chịu, Ngài đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho muôn người. Trong Phúc Âm, thánh-sử Gioan tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, từ khi Ngài bị phản bội bởi Judah cho tới khi ông Joseph Arithmatha và Nicodemus an táng Ngài trong huyệt mộ, Chúa Giêsu biết tất cả những đau khổ xảy đến cho Ngài, và Ngài luôn can đảm đối phó và chịu đựng.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Bài ca thứ tư về Người Tôi Trung của Thiên Chúa
Trong Bài ca thứ tư, Thiên Chúa cho biết lý do tại sao Người Tôi Trung phải chịu đau khổ: (1) để gánh chịu hình phạt cho nhân lọai, và (2) để đạt được vinh quang tuyệt đỉnh.
1.1/ Người Tôi Trung được vinh quang tuyệt đỉnh qua đau khổ tột cùng: Tiên tri Isaiah muốn nhấn mạnh đến cách thức được vinh quang: “qua đau khổ tột cùng.” Cần chú ý đến 4 động từ dùng trong câu này: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ cư xử khôn ngoan (sakal), sẽ được vươn cao (rum), được tuyên dương (nasa), vàđược suy tôn đến tuyệt đỉnh (gabah meod). Vì Người Tôi Trung biết hành động khôn ngoan và hiệu quả, nên Người được vươn cao, được tuyên dương, và đạt tới vinh quang tuyệt đỉnh. Một người không thể đọc câu này mà không suy nghĩ đến (Phi 2:6-11, Acts 2:33, và Acts 3:13, 26). Tác giả Stier so sánh 3 giai đọan được nâng cao của Người với 3 giai đọan sống lại, lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa (Psa 110:1). Ai là Người Tôi Trung biết cư xử khôn ngoan để đạt được vinh quang tuyệt đỉnh như thế? Vua David? dân Israel? tiên tri? Chỉ có Đức Kitô mà thôi.
Đau khổ mà Người Tôi Trung phải chịu vượt quá đau khổ con người có thể tưởng tượng được: “bao kẻ đã sửng sốt khi thấy người tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ con người nữa.” Điều này tác giả muốn nhấn mạnh đến hậu quả của hình phạt: Vì chịu quá nhiều đau khổ nơi thân xác, Người Tôi Trung không còn giữ được dáng vẻ con người nữa.
Có một sự khác biệt giữa Bản Bảy Mươi và Bản Do Thái trong câu 52:15: Nhóm PVCGK dịch theo Bản Bảy Mươi: “Nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ…” Theo Bản Do-thái: “Nó sẽ rẩy (yazah) trên các dân tộc …” E.J. Young cắt nghĩa: Động từ yazah là một động từ đặc biệt, dùng trong luật Moses cho việc rẩy dầu, nước, hay máu như một lễ nghi thanh tẩy bởi các tư tế (Lev 4:6, 8:11, 14:7a). Chúa Giêsu rẩy máu của người trên các dân tộc để thanh tẩy tội lỗi của họ như lời người Do-thái nói: “Máu của nó sẽ đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27:25).

1.2/ Phản ứng của con người khi nhìn thấy Người Tôi Trung.
(1) Phản ứng của các vua chúa: Khi được chứng kiến tòan bộ: vinh quang tuyệt đỉnh cũng như đau khổ tột cùng của Người Tôi Trung, “các vua chúa sẽ phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ.”
(2) Phản ứng của dân Chúa: “Ai mà tin được điều chúng ta đã tường thuật? Cánh tay uy quyền của Đức Chúa đã được mặc khải cho ai?” Vì điều Thiên Chúa làm quá cao siêu, vượt quá trí hiểu biết của con người; hậu quả là con người sẽ khó lòng tin được. Thánh Phaolô gọi Thập Giá là một điên rồ với người Hy-lạp, và sự sỉ nhục với người Do-thái. Họ không thể nào hiểu được một Thiên Chúa uy quyền muốn con mình chấp nhận điều đó. Nhưng Thiên Chúa uy quyền sẽ làm cho con người hiểu được Mầu Nhiệm Thập Giá và tin vào Đức Kitô, đó là Tin Mừng mà chúng ta rao giảng.
Tiên-tri tường thuật về cuộc đời của Người Tôi Trung với các động từ ở thời quá khứ tiên tri: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi non trước Nhan Thánh, như khúc rễtrên đất khô cằn (Isa 11:1). Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.”

1.3/ Lý do tại sao Người phải chịu đau khổ: Người Tôi Trung chịu đau khổ vì con người.
* Lý do đúng: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta.”
* Lý do sai: “Còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.”
“Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.”

1.4/ Những thắng lợi của Người Tôi Trung được hưởng.
(1) Ý muốn của Thiên Chúa được thực hiện: Người Tôi Trung là nhân vật chính trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, chính Ngài sẽ đưa kế hoạch này tới chỗ thành tựu và hòan hảo: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện.”
(2) Ức triệu sinh linh được cứu độ: Mục đích của Kế Hoạch Cứu Độ là giải thóat con người khỏi quyền lực của tội lỗi và mang lại ơn cứu độ cho muôn người: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.”

2/ Bài đọc II: Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.

2.1/ Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội (Heb 4:14-16): “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.”
- Vai trò của vị Thượng Tế: mang những gì Thiên Chúa nói cho dân và hướng dẫn dân ra trước sự hiện diện của Ngài. Vị Thượng Tế hòan hảo là người vừa biết Thiên Chúa vừa biết dân. Vai trò này chỉ Chúa Giêsu mới có thể hòan thành.
(1) Chúa Giêsu biết Thiên Chúa: vì bản chất của Ngài là Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-thái xác tín: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.”
(2) Chúa Giêsu biết con người: vì Ngài mang thân xác con người. Hơn nữa, “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.”
- Chúa Giêsu biết, chịu, và thắng cám dỗ hơn ai hết: Lý do, chúng ta sa chước cám dỗ trước khi ma quỉ dùng hết thủ đoạn của nó; Chúa Giêsu biết, chịu, và thắng vượt tất cả thủ đoạn của ma quỉ. Ví dụ, khi gián điệp tra tấn, họ sẽ dùng các tra tấn từ nhẹ tới nặng. Tra tấn nặng nhất chỉ dành cho con người can đảm nhất. Một người yếu bóng vía sẽ không biết mọi thủ đọan tra tấn.
- Ngài muốn chịu khổ đau của con người: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta.” Người Hy-lạp và Do-thái không thể hiểu nổi tại sao Thiên Chúa chịu đau khổ; họ không thể chấp nhận một Thiên Chúa chết treo trên Thập Giá. Đây là một ý tưởng hay quan niệm hoàn toàn mới. Họ tin một Thiên Chúa vô cảm (apatheia); vì một Thiên Chúa nhạy cảm sẽ thay đổi trước những đau khổ của con người; và nếu Thiên Chúa thay đổi, Ngài không còn là Thiên Chúa nữa. Người nào làm Thiên Chúa phải thay đổi, người đó sẽ lớn hơn Thiên Chúa. Họ không thể tưởng tượng một Thiên Chúa muốn liên quan với thế giới vật chất này.
- Ngài hiểu biết sự đau khổ con người phải trải qua: “Có đau mắt mới biết thương người mù.” Ngài có thể giúp đỡ con người cách hiệu quả: Vì đã trải qua tất cả, Ngài có kinh nghiệm tất cả. Vì thế, không ai có thể giúp con người hiệu quả hơn người đi trước đã có kinh nghiệm về điều đó.
2.2/ Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người (Heb 5:7-9). Tác giả Thư Do Thái tóm tắt công trình cứu độ của Đức Kitô như sau:
(1) Chúa Giêsu biết những gì sẽ xảy đến cho Ngài trong Cuộc Thương Khó: Ngài đã khóc trong vườn Ghetsemane vì sắp phải đương đầu với chúng. Trong giây phút sợ hãi, Ngài đã cầu nguyện để xin Thiên Chúa chọn cho Ngài một con đường khác, nếu có thể: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính.”
(2) Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha cho đết chết: Dẫu vậy, Ngài vẫn xin vâng theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Hậu quả của sự vâng phục là Ngài đã phải chết trên Thập Giá.
(3) Chúa Giêsu trở nên nguồn cứu độ: Vì sự vâng phục qua những đau khổ Ngài chịu, Chúa Giêsu đã trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.

3/ Phúc Âm: Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu theo thánh Gioan

3.1/ Judah bán Chúa Giêsu: Judah tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisees; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: "Các anh tìm ai?" Họ đáp: "Tìm Giêsu Nazareth." Người nói: "Chính tôi đây." Judah, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. Khi Người vừa nói: "Chính tôi đây!" thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi một lần nữa: "Các anh tìm ai?" Họ đáp: "Tìm Giêsu Nazareth."”
- Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi." Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói: "Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai." Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Mankhô. Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?"

3.2/ Chúa Giêsu trước dinh Thượng Tế: “Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giêsu và trói Người lại. Trước tiên, họ điệu Đức Giêsu đến ông Hannah là nhạc phụ ông Caiaphas. Ông Caiaphas làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.”
(1) Thẩm vấn Chúa Giêsu:
- Vị thượng tế tra hỏi Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người.
- Đức Giêsu trả lời: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì."
- Đức Giêsu vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?"
- Đức Giê-su đáp: "Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?"
Ông Hannah cho giải Người đến thượng tế Caiaphas, Người vẫn bị trói.

(2) Phêrô chối Chúa Giêsu 3 lần: “Ông Simon Phêrô và một môn đệ khác đi theo Đức Giêsu. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giêsu vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào.”
- Lần thứ nhất: Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phêrô: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?" Ông liền đáp: "Đâu phải."
- Lần thứ hai: Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Người ta nói với ông: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?" Ông liền chối: "Đâu phải."
- Lần thứ ba: Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?" Một lần nữa ông Phêrô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.

3.3/ Chúa Giêsu trước tòa Philatô: Vậy, người Do-thái điệu Đức Giêsu từ nhà ông Caiaphas đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được.

(1) Quan Philatô từ chối không xử Chúa Giêsu:
- Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi: "Các người tố cáo ông này về tội gì?"
- Họ đáp: "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan."
- Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người."
- Người Do-thái đáp: "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả."
Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
* Kiểu Do-thái: ném đá cho tới chết. Người Do-thái từ chối không xử tử Chúa Giêsu.
* Kiểu Rôma: đóng đinh vào thập giá. Chúa Giêsu bị xử tử theo kiểu Rôma.

(2) Quan Philatô thẩm vấn Chúa Giêsu:
- Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"
- Đức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?"
- Ông Phi-la-tô trả lời: "Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?"
- Đức Giêsu trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này."
- Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?"
- Đức Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."
- Ông Philatô nói với Người: "Sự thật là gì?"
- Chúa Giêsu không trả lời. Một người không biết sự thật, làm sao có thể sống và làm chứng cho sự thật như tổng trấn Philatô?

(3) Philatô muốn tha Chúa Giêsu:
- Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không?
- Họ la lên rằng: "Đừng tha nó, nhưng xin tha Barabba!" Mà Barabba là một tên cướp.

(4) Philatô cho quân lính đánh đòn Chúa Giêsu: “Bấy giờ ông Philatô truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Người. Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. Họ đến gần và nói: "Kính chào Vua dân Do-thái!" rồi vả vào mặt Người.”

(5) Philatô không tìm ra lý do để kết tội Chúa Giêsu:
- Ông Philatô lại ra ngoài và nói với người Do-thái: "Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy." Vậy, Đức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Philatô nói với họ: "Đây là Người!"
- Khi vừa thấy Đức Giêsu, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: "Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!"
- Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy."
- Người Do-thái đáp lại: "Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa." Nghe lời đó, ông Philatô càng sợ hơn nữa.

(6) Philatô tìm cách tha Chúa Giêsu:
- Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giêsu: "Ông từ đâu đến?"
- Nhưng Đức Giêsu không trả lời.
- Ông Philatô nói với Người: "Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?"
- Đức Giêsu đáp lại: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn."
Từ đó, ông Philatô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng: "Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Caesar. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Caesar."

(7) Philatô trao Chúa Giêsu cho họ đóng đinh: Khi nghe thấy thế, ông Philatô truyền dẫn Đức Giêsu ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Do-thái là Gabbatha.
Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa.
- Ông Philatô nói với người Do-thái: "Đây là vua các người!"
- Họ liền hô lớn: "Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!"
- Ông Philatô nói với họ: "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?"
- Các thượng tế đáp: "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Caesar."
Bấy giờ ông Philatô trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
- Người Do-thái phạm thượng khi họ nói: "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Caesar." Họ chỉ có một vua là Thiên Chúa.

3.4/ Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào Thập Giá: Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Do-thái là Golgotha; tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giêsu thì ở giữa.

(1) Người Do-thái xin sửa bảng viết: “Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: "Giêsu Nazareth, Vua dân Do-thái." Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giêsu bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Do-thái, La-tinh và Hy-lạp.”
- Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Philatô: "Xin ngài đừng viết: "Vua dân Do-thái;" nhưng viết: "Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do-thái."”
- Ông Philatô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy!"

(2) Chia nhau áo của Chúa Giêsu: “Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. Vậy họ nói với nhau: "Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được." Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.”

3.5/ Chúa Giêsu sinh thì trên Thập Giá: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cleopas, cùng với bà Maria Magdala.”

(1) Chúa Giêsu trối Đức Mẹ cho Gioan: Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà." Rồi Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh." Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
(2) Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng: “Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: "Tôi khát!" Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.
Nhắp xong, Đức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất!" Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.”

3.6/ Táng xác Chúa Giêsu:
(1) Chúa Giêsu bị đâm thâu: “Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày Sabbath, mà ngày Sabbath đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.”
(2) Tháo đanh và táng xác Chúa Giêsu: “Sau đó, ông Joseph, người Arithmatha, xin ông Philatô cho phép hạ thi hài Đức Giêsu xuống. Ông Joseph này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Philatô chấp thuận. Vậy, ông Joseph đến hạ thi hài Người xuống. Ông Nicodemus cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái.
Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Mỗi khi đọc lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, chúng ta phải nhận thức: lẽ ra chúng ta là người phải ngang qua những đau khổ này, chứ không phải là Con Thiên Chúa.
- Chúa Giêsu chấp nhận vâng phục Thiên Chúa và tất cả các đau khổ là để cứu chuộc con người. Chúng ta đã làm gì để đáp lại tình thương của Thiên Chúa?
- Nếu Chúa Giêsu chấp nhận vâng phục và đau khổ để chứng tỏ tình thương cho Thiên Chúa và cho con người; chúng ta cũng phải làm tương tự để đền bù lại tình thương Thiên Chúa và mang sự sống cho tha nhân.


Ngày 06
THỨ SÁU TUẦN THÁNH 
TƯỞNG NIỆM cuộc THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA
Ăn chay và kiêng thịt

Ý nghĩa đích thực của thập giá

Đức Giêsu kinh hoàng trước thập giá, Người van xin Cha cất đi chén đắng này. Để làm giảm nhẹ khổ đau của Đức Kitô, những tâm hồn đạo đức chấp nhận chia sẻ với Người. Sẽ là một niềm vui vĩ đại, khi được thực hành trong tình yêu. Nếu yêu ai, người ta không thể từ chối gánh vác khó khăn cho người ấy, người ta nhận lấy vì yêu. Thiên Chúa được tôn vinh qua niềm vui và khổ đau trong mức độ chúng chứa đầy tình yêu.

Đức Giêsu không đến để chuyển chúng ta ra khỏi cuộc đời, khỏi cuộc sống hằng ngày, khỏi việc làm để lãnh tiền lương, khỏi lương thực chúng ta phải dùng khi mời chúng ta vào bàn tiệc. Đức Giêsu đến để chúng ta có được cuộc sống và cuộc sống này thật sung mãn, để niềm vui của Người ở trong chúng ta và niềm vui này được trọn vẹn. Đấy không phải là làm cho Kitô hữu vượt qua cuộc sống của mình, nhưng ngược lại để yêu cuộc sống, giúp cuộc sống thật viên mãn và hiện thực. Mỗi bước đường của chúng ta thành kiệt tác của ánh sáng và yêu thương...

Nếu Đức Kitô là Đấng cứu độ, chúng ta cùng cứu độ với Người. Thập giá không phải chỉ là một biến cố của lịch sử, một biến cố của quá khứ, nhưng là một biến cố vĩnh cừu, nguồn gốc cho một hy vọng không bao giờ tàn úa.

Maurice Zundel
 

Thứ Sáu 6-4
Thánh Crescentia Hoess
(1682 - 1744)

C
rescentia sinh trong một thành phố nhỏ gần Augsburg, là con gái của một người thợ dệt nghèo nàn. Khi còn nhỏ, thời giờ để chơi đùa cô đã dùng để cầu nguyện, giúp đỡ những người nghèo hơn mình, và cô hiểu biết về giáo lý nhiều đến độ được phép Rước Lễ lần đầu vào lúc bảy tuổi, sớm hơn những người cùng tuổi. Mọi người trong phố gọi cô là "thiên thần nhỏ."
Khi lớn lên, cô khao khát được gia nhập dòng Phanxicô. Nhưng tu viện thì nghèo và, Crescentia không có của hồi môn, nên các bề trên đã từ chối không nhận. Sau đó, trường hợp của cô được ông thị trưởng thành phố là một người Tin Lành can thiệp, vì nhà dòng có nặng ơn nghĩa với ông. Cả nhà dòng cảm thấy như bị ép buộc phải chấp nhận cô, bởi đó đời sống trong tu viện của cô thật khốn khổ. Cô bị coi là một gánh nặng và không được làm gì khác hơn là các công việc của người đầy tớ. Ngay cả tính tình vui vẻ của cô cũng bị cho là bợ đỡ hoặc đạo đức giả.
Bốn năm sau, tình trạng của Sơ Crescentia khá hơn khi bà bề trên mới nhận ra các nhân đức của sơ. Và Sơ Crescentia được bổ nhiệm là giám đốc đệ tử. Sơ được mọi người yêu mến và quý trọng đến nỗi, sau khi mẹ bề trên từ trần, Sơ Crescentia được mọi người tín nhiệm trong chức vụ ấy.
Dưới sự dẫn dắt của Sơ Crescentia, tình trạng kinh tế nhà dòng khấm khá hơn, và tinh thần đạo đức của Sơ Crescentia ngày càng lan rộng. Không bao lâu, Sơ Crescentia được các hoàng thân công chúa cũng như giám mục và hồng y đến xin ý kiến. Tuy nhiên, là một người con đích thực của Thánh Phanxicô, Sơ Crescentia vẫn hết mực khiêm tốn.
Tinh thần Sơ Crescentia thì vững mạnh nhưng thể xác của ngài thường đau yếu luôn. Sơ thường xuyên bị đau đầu và đau răng. Sau đó sơ không thể đi lại được, chân tay từ từ tê liệt, co quắp lại. Mặc dù đau đớn, sơ vẫn tràn đầy bình an và niềm vui khi sơ từ trần vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1744.
Sơ được phong chân phước năm 1900.
Và được ĐGH Gioan Phao-lô II phong thánh ngày 25 tháng 11 năm 2001.(thêm bởi blogger)

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét